Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trận chiến Điện Biên Phủ - Jules Roy
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 88783" data-attributes="member: 17223"><p>Ngày 25 tháng bảy 1953</p><p></p><p></p><p>Navarre không tỏ vẻ quá ư khó chịu, ngày 24 tháng 7, đó là một thực tế. Có lẽ ông không đáng giá là người ta đã tán thành toàn bộ bản kế hoạch của mình, nhưng ông tin chắc là người ta không bác bỏ nó. Ông không nổi nóng, ông không đe dọa xin từ chức. Ông không điện cho Sài Gòn để thay đổi các quan điểm về cách thức tiến hành các trận đánh. Ngày hôm sau nữa, Navarre đã hạ lệnh nghiên cứu, trong trường hợp có một cuộc tiến công của đối phương trên vùng thượng lưu sông Mékong, một hành động phòng ngừa có nội dung là bất ngờ chiếm lấy vị trí Điện Biên Phủ. </p><p></p><p>Navarre đã xem và sửa chữa bản mật lệnh này trước khi rời khỏi Sài Gòn và chắc chắn là ở ngay Paris. Do vì ông không có mặt ở Đông Dương cho nên chính đô đốc Auboyneau là người ký bản mật lệnh ấy, bởi lẽ đô đốc có thâm niên lâu hơn tướng Bodet, phó tư lệnh. Thủ tục quân sự không quan trọng: tác giả, chính là Navarre, ông vừa mới cụ thể hóa theo cách hiểu của ông những chỉ thị mà ông không nhận được.</p><p></p><p>Thử hỏi Navarre sẽ có lỗi ở chỗ nào khi hi vọng có được những phương tiện mà người ta mặc cả với ông? Liệu có ai dám trách cứ ông vì đã muốn giành thắng lợi trong chiến tranh hoặc vì gần như đặt ra một việc đã rồi trước một chính phủ vốn chưa bao giờ bắt buộc ông phải đệ trình báo cáo trước khi lao vào bất cứ một việc gì? Bản mật lệnh ngày 25 tháng 7, khi được chuyển tới trên bàn các vị bộ trưởng và các tham mưu trưởng, không gây ra bất kỳ một xúc động nào, tuy nhiên nó đã chứng tỏ rằng Navarre không hề thay đổi các ý định của mình và rằng ông đang chuẩn bị đánh chiếm Điện Biên Phủ, ở Paris người ta chẳng biết nơi đó là cái gì và do bản năng, người ta không muốn. </p><p></p><p>Vậy thì, ai là người dẫn dắt cuộc chiến tranh này? Chẳng có ai cả. Làm thế nào một trận đánh, như trận đánh Điện Biên Phủ lại sắp sửa nổ ra? Có phần nào là tình cờ. Tướng Navarre, người có nhiệm vụ duy nhất là tìm ra cho quốc gia một lối thoát trong danh dự đã hành động theo ý mình, với điều kiện không đòi hỏi thêm bất kỳ một sự tăng viện nào. Là một nhà quân sự giỏi, ông phải hiểu được điều đó. Người ta hiểu rằng ông thấy bất bình khi phải tung đạo quân viễn chinh ra theo ý kiến của cái viên cao ủy thiếu năng lực, những vị bộ trưởng chịu trách nhiệm về những mối quan hệ mơ hồ với các Quốc gia Liên hiệp, các tên gọi lạc quan, dưới cái tên ấy người ta tập hợp các chính phủ ma của Việt Nam, Lào và Cămpuchia, và những ủy ban quốc phòng địa phương. Nếu như, vì tình cờ, một vị bộ trưởng có điều gì ngờ vực về cơ sở đúng đắn của các hoạt động quân sự, ông ta sẽ xin ý kiến của vị chủ tịch hội đồng bộ trưởng, ông này không dám cho ý kiến và đành nghe theo. Còn về các phương tiện, quân số và vũ khí thì thuộc về ba quân khu, cùng với không quân và hải quân, các đơn vị này đều rất hà tiện xương máu của họ: và tiền bạc thì thuộc về Bộ Tài chính, bộ này không nhè ra một tí gì. Dưới triều đại của mười chín chính phủ kế tiếp nhau, chuyện vẫn là như vậy. </p><p></p><p>Từ bảy năm trời nay, mọi chuyện diễn ra như vậy. Một vị tổng chỉ huy duy nhất, tướng De Lattre, đã nổi giận và gạt bỏ các cấp trung gian, không phải là để có được những mệnh lệnh mà ông sẽ không đồng ý tiếp nhận mà là để đòi hỏi người ta phải khuất phục những mong muốn của ông ta; tiếng nói của ông đã vang tới tận châu Mỹ, ông tới đó thuyết giáo về cuộc thập tự chinh của thế giới phương Tây. Khi ông chết, bầy ếch nhái lại trở lại vị trí cùng với bản đồng ca của chúng, và Salan đã thận trọng bước đi xuyên qua bãi lầy của những con đường thứ bậc. Navarre đã chấp nhận việc chỉ huy trong những điều kiện như vậy. "Cần phải có ai đó hi sinh thân mình", thống chế Juin đã nói như vậy. Sau này, Navarre sẽ viết một cuốn sách để tự bào chữa. Nói về tình hình chính trị, về tinh thần tư tưởng của đạo quân viễn chinh Pháp và của quân ngụy Việt Nam về hoàn cảnh, về quyết tâm chiến thắng và về niềm tin của đối phương, cuộc phân tích mà ông viết ra là đúng đắn và rõ ràng. Ông đã nhìn đúng. Ông không hề có chút ảo tưởng nào. Nhưng mà đó là một cuốn sách xuất hiện sau những biến cố chứ không phải là một cuốn nhật ký hành quân. Ngày chủ nhật cuối cùng của tháng bảy 1953, trước khi lên đường trở lại Đông Dương, trong một bữa ăn trưa ở chỗ các bạn hữu, Navarre đã nhắc lại câu mà ông đã nói với ngài De Chevigné để làm an lòng ông ấy: "Tôi sẽ không phạm phải các sai lầm của những người tiền nhiệm". Khi trở lại Sài Gòn, ông vẫn giữ nguyên những ý kiến ấy và ông chuẩn bị mở màn trận Điện Biên Phủ, cũng như Salan đã mở màn trận Nà Sản.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 88783, member: 17223"] Ngày 25 tháng bảy 1953 Navarre không tỏ vẻ quá ư khó chịu, ngày 24 tháng 7, đó là một thực tế. Có lẽ ông không đáng giá là người ta đã tán thành toàn bộ bản kế hoạch của mình, nhưng ông tin chắc là người ta không bác bỏ nó. Ông không nổi nóng, ông không đe dọa xin từ chức. Ông không điện cho Sài Gòn để thay đổi các quan điểm về cách thức tiến hành các trận đánh. Ngày hôm sau nữa, Navarre đã hạ lệnh nghiên cứu, trong trường hợp có một cuộc tiến công của đối phương trên vùng thượng lưu sông Mékong, một hành động phòng ngừa có nội dung là bất ngờ chiếm lấy vị trí Điện Biên Phủ. Navarre đã xem và sửa chữa bản mật lệnh này trước khi rời khỏi Sài Gòn và chắc chắn là ở ngay Paris. Do vì ông không có mặt ở Đông Dương cho nên chính đô đốc Auboyneau là người ký bản mật lệnh ấy, bởi lẽ đô đốc có thâm niên lâu hơn tướng Bodet, phó tư lệnh. Thủ tục quân sự không quan trọng: tác giả, chính là Navarre, ông vừa mới cụ thể hóa theo cách hiểu của ông những chỉ thị mà ông không nhận được. Thử hỏi Navarre sẽ có lỗi ở chỗ nào khi hi vọng có được những phương tiện mà người ta mặc cả với ông? Liệu có ai dám trách cứ ông vì đã muốn giành thắng lợi trong chiến tranh hoặc vì gần như đặt ra một việc đã rồi trước một chính phủ vốn chưa bao giờ bắt buộc ông phải đệ trình báo cáo trước khi lao vào bất cứ một việc gì? Bản mật lệnh ngày 25 tháng 7, khi được chuyển tới trên bàn các vị bộ trưởng và các tham mưu trưởng, không gây ra bất kỳ một xúc động nào, tuy nhiên nó đã chứng tỏ rằng Navarre không hề thay đổi các ý định của mình và rằng ông đang chuẩn bị đánh chiếm Điện Biên Phủ, ở Paris người ta chẳng biết nơi đó là cái gì và do bản năng, người ta không muốn. Vậy thì, ai là người dẫn dắt cuộc chiến tranh này? Chẳng có ai cả. Làm thế nào một trận đánh, như trận đánh Điện Biên Phủ lại sắp sửa nổ ra? Có phần nào là tình cờ. Tướng Navarre, người có nhiệm vụ duy nhất là tìm ra cho quốc gia một lối thoát trong danh dự đã hành động theo ý mình, với điều kiện không đòi hỏi thêm bất kỳ một sự tăng viện nào. Là một nhà quân sự giỏi, ông phải hiểu được điều đó. Người ta hiểu rằng ông thấy bất bình khi phải tung đạo quân viễn chinh ra theo ý kiến của cái viên cao ủy thiếu năng lực, những vị bộ trưởng chịu trách nhiệm về những mối quan hệ mơ hồ với các Quốc gia Liên hiệp, các tên gọi lạc quan, dưới cái tên ấy người ta tập hợp các chính phủ ma của Việt Nam, Lào và Cămpuchia, và những ủy ban quốc phòng địa phương. Nếu như, vì tình cờ, một vị bộ trưởng có điều gì ngờ vực về cơ sở đúng đắn của các hoạt động quân sự, ông ta sẽ xin ý kiến của vị chủ tịch hội đồng bộ trưởng, ông này không dám cho ý kiến và đành nghe theo. Còn về các phương tiện, quân số và vũ khí thì thuộc về ba quân khu, cùng với không quân và hải quân, các đơn vị này đều rất hà tiện xương máu của họ: và tiền bạc thì thuộc về Bộ Tài chính, bộ này không nhè ra một tí gì. Dưới triều đại của mười chín chính phủ kế tiếp nhau, chuyện vẫn là như vậy. Từ bảy năm trời nay, mọi chuyện diễn ra như vậy. Một vị tổng chỉ huy duy nhất, tướng De Lattre, đã nổi giận và gạt bỏ các cấp trung gian, không phải là để có được những mệnh lệnh mà ông sẽ không đồng ý tiếp nhận mà là để đòi hỏi người ta phải khuất phục những mong muốn của ông ta; tiếng nói của ông đã vang tới tận châu Mỹ, ông tới đó thuyết giáo về cuộc thập tự chinh của thế giới phương Tây. Khi ông chết, bầy ếch nhái lại trở lại vị trí cùng với bản đồng ca của chúng, và Salan đã thận trọng bước đi xuyên qua bãi lầy của những con đường thứ bậc. Navarre đã chấp nhận việc chỉ huy trong những điều kiện như vậy. "Cần phải có ai đó hi sinh thân mình", thống chế Juin đã nói như vậy. Sau này, Navarre sẽ viết một cuốn sách để tự bào chữa. Nói về tình hình chính trị, về tinh thần tư tưởng của đạo quân viễn chinh Pháp và của quân ngụy Việt Nam về hoàn cảnh, về quyết tâm chiến thắng và về niềm tin của đối phương, cuộc phân tích mà ông viết ra là đúng đắn và rõ ràng. Ông đã nhìn đúng. Ông không hề có chút ảo tưởng nào. Nhưng mà đó là một cuốn sách xuất hiện sau những biến cố chứ không phải là một cuốn nhật ký hành quân. Ngày chủ nhật cuối cùng của tháng bảy 1953, trước khi lên đường trở lại Đông Dương, trong một bữa ăn trưa ở chỗ các bạn hữu, Navarre đã nhắc lại câu mà ông đã nói với ngài De Chevigné để làm an lòng ông ấy: "Tôi sẽ không phạm phải các sai lầm của những người tiền nhiệm". Khi trở lại Sài Gòn, ông vẫn giữ nguyên những ý kiến ấy và ông chuẩn bị mở màn trận Điện Biên Phủ, cũng như Salan đã mở màn trận Nà Sản. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trận chiến Điện Biên Phủ - Jules Roy
Top