Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trận chiến Điện Biên Phủ - Jules Roy
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 88780" data-attributes="member: 17223"><p>Ngày 25 tháng năm 1953</p><p></p><p></p><p>Những nhân vật của tấm thảm kịch, chậm chạp bước tới chỗ ngồi của mình phía sau tấm rèm che kín. Đã bắt đầu lan truyền những tin đồn về Navarre, con người mà người ta quan sát bằng một con mắt phê phán và hơi lo ngại. Người ta nhắc lại việc ông đã tỏ ý ngạc nhiên rằng vùng đồng bằng vốn được đạo quân viễn chinh chiếm đóng vững chắc đến như vậy mà vẫn bị quân Việt quấy rối và rằng khi trao tặng các tấm huân chương, ông đã bất cẩn gắn những huân huy chương ấy lên bộ ngực phải của những con người được đón rước long trọng. Ông đã mở đầu một cuộc họp các sĩ quan với câu nói sau đây: "Thưa các vị, để thắng được cuộc chiến tranh này...", sau đó nhìn thấy có ai đó mỉm cười, ông đã ngừng lời và truy hỏi lý do, cái lý do mà người ta vội vã trí trá. "Thắng được cuộc chiến tranh này", ở đây không một ai nghĩ như vậy và đó cũng không phải là chỉ thị mà Navarre nhận được từ Paris. Rút ra khỏi cuộc chiến tranh đó với ít tổn hại nhất, hình như bên trong đầu óc mọi người, đó là công thức thích hợp nhất để áp dụng trong tình thế hiện tại. </p><p></p><p>Kể từ khi mối nguy của một thất bại đè nặng, các công ty lớn khai thác hầm mỏ, các nhà máy xi măng, nhà máy sợi, vải, các đồn điền cao su đã chuyển vốn và tài sản dự trữ tới các khu vực khác trên thế giới; tài sản mà nước Pháp còn sở hữu được tại các quốc gia liên hiệp không bằng khoản chi phí cho một năm chiến tranh: Sáu trăm tỉ và một trăm sĩ quan trẻ. Cứ trong ba năm người ta phải hi sinh cả một khóa sĩ quan trường đào tạo Saint Cyr để bảo vệ thế giới phương Tây. Cuộc chiến tranh Đông Dương, kể từ khi bắt đầu đã giết chết 3 viên tướng, 8 đại tá, 18 trung tá, 69 thiếu tá, 341 đại úy, 1.140 trung và thiếu úy, 2.683 hạ sĩ quan và 6.008 binh sĩ Pháp; 12.019 lê dương và người châu Phi, 14.093 lính bản địa. Những con số này không nằm trong số mất tích: hơn 20.000, cũng như những thương binh và bệnh binh phải hồi hương: hơn 100.000. Nếu như nước Mỹ cung cấp những đồng đô la, chính là bằng cách đó, nước Mỹ đã mua dòng máu mà nước Pháp đổ ra thay thế cho Mỹ. </p><p></p><p>Trong cuộc thập tự chinh nào đây? Người đầu tiên, De Lattre đã tung ra cái từ ngữ đó. Nước Mỹ vì sự sống còn của nó, đấu tranh chống lại nước Nga, có mọi lợi ích để tin vào điều đó Nhưng mà, nếu như điều đó là có thực, tại làm sao trong nước chúng ta lại không có một Pierre l'Ermite(1) mới đứng lên và hô hào trên các bãi công cộng kêu gọi mọi người vũ trang? Tại sao lại có ít những thanh niên đăng ký đi sang Viễn Đông như vậy, và tại sao, thay vì cống hiến những đứa con trai của mình, dân tộc lại đã lựa chọn việc trả tiền cho những kẻ đánh thuê? Ngược lại những người này bước xuống đầy những con tàu, đi bảo vệ một lý tưởng mà bản thân nước pháp cũng không tin tưởng. Những người Pháp duy nhất dám dũng cảm gánh vác lấy công việc đó, đã làm việc vì nghề nghiệp hay vì sở thích. Số lượng nhỏ nhoi của họ làm cho họ phấn khích, hơi ấm của dân tộc quất mạnh vào nhiệt tình của họ, các trung đoàn quân dù trở thành những chủng viện của lòng dũng cảm, của sự quên mình, của sự hi sinh hoàn toàn tự nguyện. "Bạn nên nhớ rằng cái đang chờ đợi bạn đó là cái chết", Bigeard nhắc lại câu nói này với các binh sĩ của mình khi anh xây dựng giáo lý về niềm tin của mình. Ở đấy, người ta không chiến đấu do vì vòng quay tác chiến chỉ định là Đông Dương và người ta coi khinh việc khi trở về mẫu quốc có thể mua được một chiếc xe ô tô: người ta chiến đấu vì nghĩa vụ quân sự và do vì người ta không chấp nhận việc mình bị đánh bại, trên chiến trường cũng như trong cuộc sống. Đối với những con người trong sáng này, vốn đã chọn lấy điều tốt nhất của cuộc sống ở trong chiến trận và biết rằng cái điều tốt nhất ấy dẫn tới cái chết. Thế còn Bảo Đại thì sao? Bảo Đại là công việc của quốc gia. Không phải là công việc của họ. ở trong các trung đoàn quân dù hay là dẫn đầu các đơn vị lê dương cũng những con người ấy, vốn sống cách xa những người mà họ yêu quý từ nhiều năm nay, và mang niềm tin cháy bỏng trong lòng đã tự chất vấn mình. Sau khi độc lập được trao trả cho Việt Nam, họ sẽ ra đi, nhưng mà ngay sau khi một vùng đất được giải phóng, bám gót theo họ, những nhân viên thu thuế kéo tới, thu thập những loại thuế lạc hậu và triều đại các quan lại tiếp tục đè nặng lên dân chúng. Lúc đó, làm thế nào đấu tranh với niềm hy vọng mà chế độ cộng sản huơ lên trước mặt? </p><p></p><p>Cùng một ý thức về nghĩa vụ đó đã kích động không quân và hải quân. Những sĩ quan không buộc phải phục vụ ở Đông Dương tình nguyện ra đi vì tình bạn. Họ không thể nào tiếp tục uống rượu trên quảng trường Elysés(2) trong khi các bạn bè đang ngã xuống. Một lớp người ưu tú mà người ta không yêu cầu đạt tới một mục tiêu đáng phấn khởi đã chuộc lại lỗi lầm về thái độ lãnh đạm của một dân tộc vốn chẳng hiểu gì về cuộc chiến tranh này và nghi ngờ rằng các chính phủ của mình bảo vệ những lợi ích mờ ám ở đó. </p><p></p><p>Chuyện gì đang diễn ra ở Đông Dương, quả thật, có ai biết đến chăng và nếu như biết, có ai dám nói lên chăng? Chưa một tờ báo nào dám công bố rằng tướng Salan đã cắm vào trong mỗi căn cứ và gần như trong mỗi đồn bốt một nhóm vô lại là những nhân viên mật thám, chúng tra tấn và hành động tùy thích, chúng chỉ chịu sự chỉ huy của những cơ quan trực thuộc một hội đồng, hội đồng này lại giả bộ không biết đến chúng. Không một linh mục nào dám đứng trên bục giảng, bác bỏ cuộc chiến tranh mà người ta tiến hành đối với một đất nước bị giai cấp phong kiến và những kẻ xâm lược áp bức từ nhiều thế kỷ nay và tuyên bố rằng nghĩa vụ đích thực của nước Pháp là chiếm được cái đế chế rộng lớn nhất trên thế giới: trái tim của mọi người. Ấy vậy mà, ngoại trừ những người thấy có lợi ích khi cộng tác với chúng ta, dù cho sau đó lại phản bội, hoặc là khiếp sợ thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, còn thì đàn ông và đàn bà ở Việt Nam không đứng về phía chúng ta. Trong chuyến du hành thu thập thông tin, ngài Aldai Stevenson đã lấy làm ngạc nhiên về việc, trái ngược với những người Triều Tiên, không một ai mỉm cười khi ông ta đi qua và ông đã tự hỏi, làm thế nào những người lính đánh thuê của đạo quân viễn chinh lại có thể đòi hỏi ý nghĩa trong một cuộc chiến tranh chống lại Việt Minh mà lại là vì nước Việt Nam. Một người Mỹ khác, David Schoenbrun, nhà báo nổi tiếng không có dấu hiệu gì là bài Pháp, đã tố cáo tội lỗi cố hữu của thời đại thuộc địa: những cái quyền bất khả xâm phạm ấy mà nước Pháp vốn quên một những bài học của cuộc CÁCH MẠNG(3) của mình, đã không tôn trọng và như vậy vi phạm đến nền tự do của nước Việt Nam, trong khi nước Pháp chỉ có ở đó những lợi ích vật chất. Việc che giấu để duy trì những căn cứ chiến lược của cuộc thập tự chinh tạo ra một trạng thái mập mờ rất lớn. Những người ưu tú không hiểu được tại sao giới trí thức lại không ủng hộ họ và cho rằng mình bị phản bội. Mặc dầu không biết đến điều đó, bây giờ không phải là họ đi theo César mà là đi theo Ponce Pilate(4). </p><p></p><p>Navarre biết tất cả những vấn đề đó nhưng phải nói rằng, những vấn đề đó còn lâu mới làm cho ông phải phiền muộn, việc tiếp xúc với thực tế đã hướng ông tới một thái độ lạc quan nào đó. Khi trở về Hà Nội, ông bổ sung đầy đủ kíp của mình và phát hiện ra một viên chánh văn phòng, đại tá Revol, trước đây là cấp phó cho tướng Gilles, ở Nà Sản. Đây là một con người điềm tĩnh, có chiếc mũi dài, mảng đầu hói và đôi mắt hiền từ, tạo ra vẻ bề ngoài tốt bụng nhưng giả tạo của một con chó săn tài giỏi. Sinh ra với thiên hướng về châu Phi, ông ta không thấy thoải mái ở Đông Dương. Ngược lại tư tưởng không thủ cựu tinh tế và danh hiệu của ông là nguyên giáo sư về khoa sử dụng vũ khí trong trường Saint Cyr làm cho Navarre hài lòng, Navarre vốn đang tìm cách gắn bó với những con người độc đáo và thậm chí có những ý tưởng trái ngược với mình. </p><p></p><p>Tại sao Salan lại không đưa ra cho người kế nhiệm mình bản chỉ thị của chính phủ ngày 24 tháng 4 năm 1953 trong đó căn dặn ông nên ưu tiên cho việc mất đất hơn là những trận đánh uy hiếp sự an toàn của đạo quân viễn chinh? Nếu như đó là tài liệu quan trọng, thì vị tổng chỉ huy phải luôn luôn ghi nhớ trong đầu và nếu như tài liệu đó tuy không hướng dẫn cụ thể việc tác chiến nhưng lại đã nêu rất rõ những mối nguy hiểm không được phạm phải dù cho vì bất cứ lý do gì. Phải chăng Salan không dám thú nhận là mình đã bị bãi nhiệm hay là ông ta tưởng rằng Navarre đã được chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, người bổ nhiệm ông ta vào chức vụ mới, cho biết tinh thần của bản chỉ thị đó. Ngài René Mayer đã có cử chỉ ngần ngại vô bổ khi né tránh không đưa cho tướng Navarre đọc bản đánh giá của chính phủ về một số trận đánh mà người tiền nhiệm Navarre tiến hành trên vùng thượng du. Lẽ ra ông ta đã có thể giúp cho Navarre nhìn nhận dưới một khung cảnh khác cái trận địa hầm hào Nà Sản vốn đã mang nhiều dáng dấp của Điện Biên Phủ. Liệu Salan, trong những cuộc trao đổi ngắn ngủi giữa hai người, có thổ lộ cho Navarre biết những nguy cơ tồn tại khi lặp lại kinh nghiệm của Nà Sản, hoặc cho rằng Navarre có khả năng tự phân biệt được sự khôn ngoan nằm ở chỗ nào cho nên Salan đã không nhắc nhở Navarre nên phản đối chiến lược "những con nhím"? Liệu ông ta có nhấn mạnh đến khả năng thích ứng của tướng Giáp khi ông ta biết rằng Navarre có ý định bảo vệ hướng tây bắc bằng việc bổ sung Điện Biên Phủ thêm vào hai căn cứ Lai Châu và Nà Sản trong một hệ thống mà người ta đã mệnh danh là quần đảo Salan, bởi lẽ từ một năm trời nay, Salan đã mơ ước đánh chiếm Điện Biên Phủ? Đối với Salan quả là một việc thú vị khi để mặc cho một đối thủ là Navarre đem mạo hiểm ở nơi đó những ngôi sao ngây thơ mà bản thân mình thì chẳng gãp nguy hiểm gì...</p><p>_______________________________________</p><p>1. Pierre l'Ermite: Nhà tôn giáo sinh ở Amiens (Pháp) (1050-1115) - Người tích cực kêu gọi và tham gia cuộc Thập tự chinh thứ nhất - N.D.</p><p></p><p>2. Elysés: lâu đài nổi tiếng ở góc phố Saint Hononé và phố Marigny xây dựng năm 1718. là dinh tổng thống Cộng hòa Pháp từ năm 1873 - N.D.</p><p></p><p>3. Ý nói của cách mạng Tư sản ở Pháp 1789.</p><p></p><p>4. Ponce Pilate: Toàn quyền của người La Mã ở Judée. Do sợ bị nổi loạn đã giao chúa Jésus cho các quan tòa tôn giáo, nhưng không cho là mình có lỗi, mà cho là những người Do Thái phải chịu trách nhiệm về việc đó.</p><p></p><p></p><p>Logged</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 88780, member: 17223"] Ngày 25 tháng năm 1953 Những nhân vật của tấm thảm kịch, chậm chạp bước tới chỗ ngồi của mình phía sau tấm rèm che kín. Đã bắt đầu lan truyền những tin đồn về Navarre, con người mà người ta quan sát bằng một con mắt phê phán và hơi lo ngại. Người ta nhắc lại việc ông đã tỏ ý ngạc nhiên rằng vùng đồng bằng vốn được đạo quân viễn chinh chiếm đóng vững chắc đến như vậy mà vẫn bị quân Việt quấy rối và rằng khi trao tặng các tấm huân chương, ông đã bất cẩn gắn những huân huy chương ấy lên bộ ngực phải của những con người được đón rước long trọng. Ông đã mở đầu một cuộc họp các sĩ quan với câu nói sau đây: "Thưa các vị, để thắng được cuộc chiến tranh này...", sau đó nhìn thấy có ai đó mỉm cười, ông đã ngừng lời và truy hỏi lý do, cái lý do mà người ta vội vã trí trá. "Thắng được cuộc chiến tranh này", ở đây không một ai nghĩ như vậy và đó cũng không phải là chỉ thị mà Navarre nhận được từ Paris. Rút ra khỏi cuộc chiến tranh đó với ít tổn hại nhất, hình như bên trong đầu óc mọi người, đó là công thức thích hợp nhất để áp dụng trong tình thế hiện tại. Kể từ khi mối nguy của một thất bại đè nặng, các công ty lớn khai thác hầm mỏ, các nhà máy xi măng, nhà máy sợi, vải, các đồn điền cao su đã chuyển vốn và tài sản dự trữ tới các khu vực khác trên thế giới; tài sản mà nước Pháp còn sở hữu được tại các quốc gia liên hiệp không bằng khoản chi phí cho một năm chiến tranh: Sáu trăm tỉ và một trăm sĩ quan trẻ. Cứ trong ba năm người ta phải hi sinh cả một khóa sĩ quan trường đào tạo Saint Cyr để bảo vệ thế giới phương Tây. Cuộc chiến tranh Đông Dương, kể từ khi bắt đầu đã giết chết 3 viên tướng, 8 đại tá, 18 trung tá, 69 thiếu tá, 341 đại úy, 1.140 trung và thiếu úy, 2.683 hạ sĩ quan và 6.008 binh sĩ Pháp; 12.019 lê dương và người châu Phi, 14.093 lính bản địa. Những con số này không nằm trong số mất tích: hơn 20.000, cũng như những thương binh và bệnh binh phải hồi hương: hơn 100.000. Nếu như nước Mỹ cung cấp những đồng đô la, chính là bằng cách đó, nước Mỹ đã mua dòng máu mà nước Pháp đổ ra thay thế cho Mỹ. Trong cuộc thập tự chinh nào đây? Người đầu tiên, De Lattre đã tung ra cái từ ngữ đó. Nước Mỹ vì sự sống còn của nó, đấu tranh chống lại nước Nga, có mọi lợi ích để tin vào điều đó Nhưng mà, nếu như điều đó là có thực, tại làm sao trong nước chúng ta lại không có một Pierre l'Ermite(1) mới đứng lên và hô hào trên các bãi công cộng kêu gọi mọi người vũ trang? Tại sao lại có ít những thanh niên đăng ký đi sang Viễn Đông như vậy, và tại sao, thay vì cống hiến những đứa con trai của mình, dân tộc lại đã lựa chọn việc trả tiền cho những kẻ đánh thuê? Ngược lại những người này bước xuống đầy những con tàu, đi bảo vệ một lý tưởng mà bản thân nước pháp cũng không tin tưởng. Những người Pháp duy nhất dám dũng cảm gánh vác lấy công việc đó, đã làm việc vì nghề nghiệp hay vì sở thích. Số lượng nhỏ nhoi của họ làm cho họ phấn khích, hơi ấm của dân tộc quất mạnh vào nhiệt tình của họ, các trung đoàn quân dù trở thành những chủng viện của lòng dũng cảm, của sự quên mình, của sự hi sinh hoàn toàn tự nguyện. "Bạn nên nhớ rằng cái đang chờ đợi bạn đó là cái chết", Bigeard nhắc lại câu nói này với các binh sĩ của mình khi anh xây dựng giáo lý về niềm tin của mình. Ở đấy, người ta không chiến đấu do vì vòng quay tác chiến chỉ định là Đông Dương và người ta coi khinh việc khi trở về mẫu quốc có thể mua được một chiếc xe ô tô: người ta chiến đấu vì nghĩa vụ quân sự và do vì người ta không chấp nhận việc mình bị đánh bại, trên chiến trường cũng như trong cuộc sống. Đối với những con người trong sáng này, vốn đã chọn lấy điều tốt nhất của cuộc sống ở trong chiến trận và biết rằng cái điều tốt nhất ấy dẫn tới cái chết. Thế còn Bảo Đại thì sao? Bảo Đại là công việc của quốc gia. Không phải là công việc của họ. ở trong các trung đoàn quân dù hay là dẫn đầu các đơn vị lê dương cũng những con người ấy, vốn sống cách xa những người mà họ yêu quý từ nhiều năm nay, và mang niềm tin cháy bỏng trong lòng đã tự chất vấn mình. Sau khi độc lập được trao trả cho Việt Nam, họ sẽ ra đi, nhưng mà ngay sau khi một vùng đất được giải phóng, bám gót theo họ, những nhân viên thu thuế kéo tới, thu thập những loại thuế lạc hậu và triều đại các quan lại tiếp tục đè nặng lên dân chúng. Lúc đó, làm thế nào đấu tranh với niềm hy vọng mà chế độ cộng sản huơ lên trước mặt? Cùng một ý thức về nghĩa vụ đó đã kích động không quân và hải quân. Những sĩ quan không buộc phải phục vụ ở Đông Dương tình nguyện ra đi vì tình bạn. Họ không thể nào tiếp tục uống rượu trên quảng trường Elysés(2) trong khi các bạn bè đang ngã xuống. Một lớp người ưu tú mà người ta không yêu cầu đạt tới một mục tiêu đáng phấn khởi đã chuộc lại lỗi lầm về thái độ lãnh đạm của một dân tộc vốn chẳng hiểu gì về cuộc chiến tranh này và nghi ngờ rằng các chính phủ của mình bảo vệ những lợi ích mờ ám ở đó. Chuyện gì đang diễn ra ở Đông Dương, quả thật, có ai biết đến chăng và nếu như biết, có ai dám nói lên chăng? Chưa một tờ báo nào dám công bố rằng tướng Salan đã cắm vào trong mỗi căn cứ và gần như trong mỗi đồn bốt một nhóm vô lại là những nhân viên mật thám, chúng tra tấn và hành động tùy thích, chúng chỉ chịu sự chỉ huy của những cơ quan trực thuộc một hội đồng, hội đồng này lại giả bộ không biết đến chúng. Không một linh mục nào dám đứng trên bục giảng, bác bỏ cuộc chiến tranh mà người ta tiến hành đối với một đất nước bị giai cấp phong kiến và những kẻ xâm lược áp bức từ nhiều thế kỷ nay và tuyên bố rằng nghĩa vụ đích thực của nước Pháp là chiếm được cái đế chế rộng lớn nhất trên thế giới: trái tim của mọi người. Ấy vậy mà, ngoại trừ những người thấy có lợi ích khi cộng tác với chúng ta, dù cho sau đó lại phản bội, hoặc là khiếp sợ thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, còn thì đàn ông và đàn bà ở Việt Nam không đứng về phía chúng ta. Trong chuyến du hành thu thập thông tin, ngài Aldai Stevenson đã lấy làm ngạc nhiên về việc, trái ngược với những người Triều Tiên, không một ai mỉm cười khi ông ta đi qua và ông đã tự hỏi, làm thế nào những người lính đánh thuê của đạo quân viễn chinh lại có thể đòi hỏi ý nghĩa trong một cuộc chiến tranh chống lại Việt Minh mà lại là vì nước Việt Nam. Một người Mỹ khác, David Schoenbrun, nhà báo nổi tiếng không có dấu hiệu gì là bài Pháp, đã tố cáo tội lỗi cố hữu của thời đại thuộc địa: những cái quyền bất khả xâm phạm ấy mà nước Pháp vốn quên một những bài học của cuộc CÁCH MẠNG(3) của mình, đã không tôn trọng và như vậy vi phạm đến nền tự do của nước Việt Nam, trong khi nước Pháp chỉ có ở đó những lợi ích vật chất. Việc che giấu để duy trì những căn cứ chiến lược của cuộc thập tự chinh tạo ra một trạng thái mập mờ rất lớn. Những người ưu tú không hiểu được tại sao giới trí thức lại không ủng hộ họ và cho rằng mình bị phản bội. Mặc dầu không biết đến điều đó, bây giờ không phải là họ đi theo César mà là đi theo Ponce Pilate(4). Navarre biết tất cả những vấn đề đó nhưng phải nói rằng, những vấn đề đó còn lâu mới làm cho ông phải phiền muộn, việc tiếp xúc với thực tế đã hướng ông tới một thái độ lạc quan nào đó. Khi trở về Hà Nội, ông bổ sung đầy đủ kíp của mình và phát hiện ra một viên chánh văn phòng, đại tá Revol, trước đây là cấp phó cho tướng Gilles, ở Nà Sản. Đây là một con người điềm tĩnh, có chiếc mũi dài, mảng đầu hói và đôi mắt hiền từ, tạo ra vẻ bề ngoài tốt bụng nhưng giả tạo của một con chó săn tài giỏi. Sinh ra với thiên hướng về châu Phi, ông ta không thấy thoải mái ở Đông Dương. Ngược lại tư tưởng không thủ cựu tinh tế và danh hiệu của ông là nguyên giáo sư về khoa sử dụng vũ khí trong trường Saint Cyr làm cho Navarre hài lòng, Navarre vốn đang tìm cách gắn bó với những con người độc đáo và thậm chí có những ý tưởng trái ngược với mình. Tại sao Salan lại không đưa ra cho người kế nhiệm mình bản chỉ thị của chính phủ ngày 24 tháng 4 năm 1953 trong đó căn dặn ông nên ưu tiên cho việc mất đất hơn là những trận đánh uy hiếp sự an toàn của đạo quân viễn chinh? Nếu như đó là tài liệu quan trọng, thì vị tổng chỉ huy phải luôn luôn ghi nhớ trong đầu và nếu như tài liệu đó tuy không hướng dẫn cụ thể việc tác chiến nhưng lại đã nêu rất rõ những mối nguy hiểm không được phạm phải dù cho vì bất cứ lý do gì. Phải chăng Salan không dám thú nhận là mình đã bị bãi nhiệm hay là ông ta tưởng rằng Navarre đã được chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, người bổ nhiệm ông ta vào chức vụ mới, cho biết tinh thần của bản chỉ thị đó. Ngài René Mayer đã có cử chỉ ngần ngại vô bổ khi né tránh không đưa cho tướng Navarre đọc bản đánh giá của chính phủ về một số trận đánh mà người tiền nhiệm Navarre tiến hành trên vùng thượng du. Lẽ ra ông ta đã có thể giúp cho Navarre nhìn nhận dưới một khung cảnh khác cái trận địa hầm hào Nà Sản vốn đã mang nhiều dáng dấp của Điện Biên Phủ. Liệu Salan, trong những cuộc trao đổi ngắn ngủi giữa hai người, có thổ lộ cho Navarre biết những nguy cơ tồn tại khi lặp lại kinh nghiệm của Nà Sản, hoặc cho rằng Navarre có khả năng tự phân biệt được sự khôn ngoan nằm ở chỗ nào cho nên Salan đã không nhắc nhở Navarre nên phản đối chiến lược "những con nhím"? Liệu ông ta có nhấn mạnh đến khả năng thích ứng của tướng Giáp khi ông ta biết rằng Navarre có ý định bảo vệ hướng tây bắc bằng việc bổ sung Điện Biên Phủ thêm vào hai căn cứ Lai Châu và Nà Sản trong một hệ thống mà người ta đã mệnh danh là quần đảo Salan, bởi lẽ từ một năm trời nay, Salan đã mơ ước đánh chiếm Điện Biên Phủ? Đối với Salan quả là một việc thú vị khi để mặc cho một đối thủ là Navarre đem mạo hiểm ở nơi đó những ngôi sao ngây thơ mà bản thân mình thì chẳng gãp nguy hiểm gì... _______________________________________ 1. Pierre l'Ermite: Nhà tôn giáo sinh ở Amiens (Pháp) (1050-1115) - Người tích cực kêu gọi và tham gia cuộc Thập tự chinh thứ nhất - N.D. 2. Elysés: lâu đài nổi tiếng ở góc phố Saint Hononé và phố Marigny xây dựng năm 1718. là dinh tổng thống Cộng hòa Pháp từ năm 1873 - N.D. 3. Ý nói của cách mạng Tư sản ở Pháp 1789. 4. Ponce Pilate: Toàn quyền của người La Mã ở Judée. Do sợ bị nổi loạn đã giao chúa Jésus cho các quan tòa tôn giáo, nhưng không cho là mình có lỗi, mà cho là những người Do Thái phải chịu trách nhiệm về việc đó. Logged [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Trận chiến Điện Biên Phủ - Jules Roy
Top