Trái đất nóng lên: chúng ta phải làm gì?

  • Thread starter Thread starter liti
  • Ngày gửi Ngày gửi

liti

New member
Trước đây, chỉ có các nhà khoa học và những tổ chức bảo vệ môi trường ra sức kêu gọi mọi người quan tâm, còn đại đa số đều hết sức thờ ơ và nghĩ rằng hậu quả của sự thay đổi khí hậu vẫn còn ở xa lắm. Nhưng đến bây giờ, ngay cả những người ít quan tâm đến môi trường cũng không thể không thừa nhận những hậu quả ngày càng nghiêm trọng do trái đất nóng lên. Dự báo đến cuối thế kỷ này, mực nước biển sẽ dâng cao 5-6 m khiến chúng ta không khỏi suy nghĩ, liệu con cháu đời sau sẽ sống ra sao và chúng ta phải làm gì để cứu trái đất?
Băng cực tan chảy, nước biển dâng cao.

Khí thải, nhất là CO2, có thể làm thủng tầng ôzôn của khí quyển, làm nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên. Cuối thời kỳ băng hà, nồng độ khí thải CO2 trong không khí chỉ có 180 ppm nhưng qua nửa thế kỷ, con số này đã lên đến 380 ppm. Căn cứ vào số liệu của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) thì năm 2005 là năm nóng nhất trong lịch sử 100 năm trở lại đây.

Châu Bắc cực và châu Nam cực là hai khu vực nhạy cảm nhất đối với hiện tượng trái đất nóng lên, những núi băng, tảng băng không ngừng tan chảy. Theo số liệu khí tượng trong vòng 30 năm gần đây của Trạm khảo sát Nam cực Anh thì tốc độ nóng lên của Nam cực cao gấp 4 lần trái đất. Từ năm 2002 cho đến nay, băng tan ở Nam cực khiến cho mực nước biển tăng mỗi năm khoảng 0,4 mm. Tình hình ở Bắc cực còn tồi tệ hơn. Tốc độ băng tan của đảo Greenland trong 5 năm gần đây tăng gấp 2 lần. Theo ước tính, nếu cả băng đảo Greenland tan chảy thì nước biển sẽ dâng cao lên 7m. Khi ấy, cả đất nước Bănglađet sẽ chìm ngập dưới biển.

Băng tan ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ giữa mặt trời với trái đất. Băng ở hai vùng Nam cực và Bắc cực đủ để phản xạ lại 90% năng lượng bức xạ mặt trời. Đại dương thì có tác dụng ngược lại, hấp thu 90% năng lượng bức xạ mặt trời. Nếu như băng ở hai cực này không còn tồn tại thì không biết nhiệt độ của trái đất sẽ tăng nhanh như thế nào.

Hiện tượng “tuần hoàn ngược” trên trái đất xảy ra ở những vùng băng đảo. Tại khu vực vĩ độ cao như Alaska và Siberia có rất nhiều băng đảo trong khi băng đảo lại chứa nhiều khoáng chất. Nếu như băng ở những băng đảo tan chảy sẽ phóng thích ra Hyđrô cacbua và CO2 - khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu khí tượng Mỹ, tất cả băng đảo trên trái đất chứa khoảng 200-800 tỷ tấn CO2 (hiện nay, lượng CO2 toàn cầu đã phóng thải chưa quá 0,7 tỷ tấn).

Trái đất nóng lên còn đem đến một hậu quả khủng khiếp: Đại dương càng ngày càng nóng, nhưng nhiệt độ lục địa càng ngày càng thấp đi. Các chuyên gia cho rằng, trong mùa đông năm 2005 cả châu âu bị những đợt lạnh tấn công, rất nhiều nơi nhiệt độ hạ thấp dưới -20 độ F, gây tử vong hàng trăm người là một biểu hiện của hiện tượng này.

Vậy trái đất nóng lên tại sao lại khiến nhiệt độ của lục địa thấp xuống? Chính do trái đất nóng lên làm tăng nhiệt độ nước biển, băng hà tan chảy khiến lượng nước ngọt đổ vào biển. Hơn nữa, nhiệt độ mặt nước biển tăng cao, độ mặn lại bị giảm, có thể sẽ làm cho hải lưu ở Bắc Đại Tây Dương chảy chậm, thậm chí hoàn toàn bị ngừng chảy. Như vậy, nước ở miền nhiệt đới của xích đạo không thể đổ về khu vực Bắc Đại Tây Dương và làm cho nhiệt độ ở Đông Bắc Mỹ và Tây âu lạnh đi.

Ngoài ra, trong bối cảnh trái đất nóng lên, khô hạn cũng là hiện tượng không tránh khỏi, chỉ có điều nó xảy ra ở những nơi khác nhau. Khu vực khô hạn trên những dãy núi như miền Tây nước Mỹ, tuyết phủ trên núi cao là nguồn nước chủ yếu. Nhưng do mấy năm gần đây khí hậu nóng lên, tuyết phủ ở những vùng núi cao thường bị tan chảy sớm, đến mùa khô hạn cần nước thì tuyết đã tan hết. Những khu vực bị khô hạn lại rất rộng, nhiệt độ cao làm cho nước dưới lòng đất nóng lên làm nước bay hơi nhanh, lại càng khô hạn, đồng thời hiện tượng El Nino ở Thái Bình Dương xảy ra liên tiếp khiến cho Đông á và châu Phi ngày càng trở nên khô hạn. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu khí tượng Mỹ, hiện tượng khô hạn hiện nay xảy ra nhiều gấp 2 lần so với thập kỷ 70 của thế kỷ trước.

Đời sống của động thực vật trên trái đất sẽ ra sao?

Những năm gần đây, ở Mỹ, ôxtrâylia, Inđônêxia…, hiện tượng cháy rừng ngày càng lan rộng, gây ra hiệu ứng “tuần hoàn ngược” khi phóng thích một lượng khí thải CO2, cộng thêm hiệu ứng nhà kính càng làm cho nhiệt độ tăng cao, khiến cho khả năng cháy rừng càng lớn. Cây hút khí CO2, nhả ôxy nên cháy rừng không chỉ làm cho diện tích rừng bị thu hẹp mà còn làm môi trường bị đe doạ.

Tại đại lục Bắc Mỹ, rất nhiều thực vật đang bị ảnh hưởng bởi trái đất nóng lên. Loài Manzanita bất tử ở miền Tây Bắc Mỹ đang dần dần khô héo, xương rồng cũng chuyển sang màu vàng úa. Mùa đông năm 2005 ấm áp lạ thường ở Canada và miền Tây nước Mỹ, khiến cho các loại sâu hại sinh trưởng mạnh, hàng triệu hecta rừng đã bị chúng phá hoại. Động vật cũng đang đứng trước những thảm hoạ. Đến nay, các tổ chức bảo vệ môi trường đã có hàng loạt danh sách các loài động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Ví dụ như ở rừng nhiệt đới vốn có hơn 110 loài cóc màu các loại, nhưng chỉ sau hơn 30 năm, số cóc rừng này đã bị tuyệt chủng 2/3. Diện tích băng ở Bắc cực bắt đầu thu hẹp, gấu Bắc cực không còn nơi trú ngụ, buộc phải liều di cư đến gần con người. Đời sống, tập tính của hải cẩu cũng bị thay đổi, do băng ở bờ biển Bắc Mỹ quá mỏng nên năm 2006 có hàng nghìn con hải cẩu phải sinh sản ở lục địa.

Tổ chức Y tế thế giới cho rằng, khí hậu toàn cầu tuy mới chỉ hơi nhích lên nhưng cũng đã đủ để ảnh hưởng tới sức khoẻ của con người. Mỗi năm, con số tử vong đã lên đến 15 vạn người. Tháng 8/2003, thời tiết nóng đã làm 2 vạn người ở các nước châu âu tử vong (theo ước tính của tổ chức này thì đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên gấp đôi). Trái đất nóng lên làm ô nhiễm không khí. Nhiệt độ tăng khiến cho khí hôi thối cũng bốc lên. Có rất nhiều nghiên cứu cho biết, chất khí này sẽ làm gia tăng lượng người mắc bệnh tim, phổi. Ngoài ra, hàm lượng khí CO2 tăng sẽ kích thích tăng trưởng của những loài cây có hoa. Do đó, các bệnh liên quan đến hô hấp và dị ứng cũng sẽ phát triển. Số lượng côn trùng có hại cũng tăng, mỗi năm toàn cầu có ít nhất 300 triệu loại virus gây bệnh xuất hiện, gây tử vong cho hơn 1 triệu người.

Quốc đảo đối mặt với sự “thôn tính”

Gần đây, các nhà khoa học ôxtrâylia cảnh báo, trái đất nóng lên sẽ làm mực nước biển tăng, 3 đảo quốc là Tuvalu, Kiribati, Maldives không bao lâu sẽ bị nước biển xâm nhập. Hơn 1 vạn dân ở Tuvalu chỉ còn 26 km2, nơi cao nhất ở đây cũng chỉ cao hơn mực mặt nước biển 4,5 m. Cứ khoảng 2-3 tháng lại có một đợt triều cường, mỗi lần như thế, quốc đảo này lại bị nước biển xâm nhập 30% diện tích, rất nhiều nhà bị nước biển ngập đến sân. Tuvalu đã sớm phải ký hiệp định di dân với New Zealand, mỗi năm di dân sang đó 80 người. Niue của Nam Thái Bình Dương cũng mong muốn giúp đỡ nhân dân Tuvalu, nhưng nếu tốc độ trái đất nóng lên nhanh như thế này thì Niue cũng sẽ chịu chung số phận như Tuvalu.

Diệu kế cứu trái đất

Ngoài việc đốc thúc các quốc gia, tổ chức quốc tế áp dụng các biện pháp thiết thực làm giảm thiểu lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, các nhà khoa học đang tìm mọi cách để cứu trái đất. Cho dù rất khó khả thi nhưng ít nhiều cũng mở ra được một cách nhìn mới:

Chôn CO2 dưới đáy biển.

Các nhà khoa học Anh gần đây đã tìm ra một cách giải quyết cho vấn đề trái đất nóng lên, đó là chôn CO2 gây hiệu ứng nhà kính xuống đáy đại dương. Họ tin rằng mỗi năm có thể giấu được hàng triệu tấn CO2 xuống đáy Bắc Hải. Họ đã chọn mỏ dầu Millet của Công ty dầu khí Anh làm nơi thử nghiệm đầu tiên. Họ sử dụng kỹ thuật hoá lỏng CO2, thông qua đường dẫn dầu (không còn sử dụng) bơm CO2 về mỏ dầu Millet. Bằng cách này, mỗi năm mỏ Millet có thể tiếp nhận được 5 triệu tấn CO2 hoá lỏng và thời gian lưu trữ có thể lên đến 1 vạn năm.

Màng che bầu trời

Năm 2004, các nhà khoa học còn đưa ra một ý tưởng kinh ngạc - một màng chắn trị giá khoảng 1 tỷ bảng Anh sẽ được thiết kế nhằm ngăn chặn triệt để bức xạ ánh sáng mặt trời, làm giảm nhiệt độ cho trái đất. Sáng kiến này bắt nguồn từ việc núi lửa ở Indonexia hoạt động năm 1814. Lần ấy, trong quá trình phun trào, núi lửa đã phóng vào khí quyển một lượng lớn vật chất hỗn hợp khiến cho nhiệt độ ở khu vực này giảm 30% so với trước đây. Song kế hoạch này vẫn nằm trong giai đoạn giả tưởng, với điều kiện kỹ thuật hiện nay thì trong tương lai gần khó có thể thực hiện được.

Bổ sung sắt cho đại dương

Một nhóm các nhà khoa học thuộc Viện Hải dương học ở bang California (Mỹ) cho rằng việc bổ sung sắt là một biện pháp “nhốt” CO2 trong đại dương. Trong quá trình quang hợp, thực vật nổi hấp thụ cacbon trong lớp nước mặt, tạo ra sự nở hoa của tảo - nguồn thức ăn cho các động vật. Cacbon trong thực vật nổi được thải ra cùng với chất thải từ chính nguồn động vật này và lắng đọng xuống đáy biển - đây được xem là quá trình “bơm sinh học”. Bổ sung chất sắt cho đại dương nghĩa là tăng khả năng loại bỏ cacbon trong tầng nước mặt - là nơi trao đổi trực tiếp cacbon với khí quyển và vận chuyển cacbon xuống tầng sâu hơn. Tuy nhiên, một số nhà khoa học cảnh báo, biện pháp này có thể phá vỡ môi trường sinh thái.

Đến nay, câu hỏi: Trái đất nóng lên, chúng ta phải làm gì? vẫn đang là thách thức lớn với các nhà khoa học.
Theo Tạp chí Hoạt động Khoa Học
 
Nhiệt độ trái đất sẽ vượt quá sức chịu đựng của con người

Một trong những viễn cảnh tồi tệ nhất của tình trạng khí hậu ấm dần vừa được các nhà khoa học của Đại học New South Wales (Úc) vẽ ra: nhiệt độ Trái đất có thể vượt quá sức chịu đựng của con người, nếu mức tăng của khí thải nhà kính cứ tiếp tục như hiện nay.
Kết luận từ một công trình nghiên cứu được các giáo sư Matthew Huber và Steven Sherwood công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences ngày 3-5.
temp.jpg

Bản đồ chỉ ra “nhiệt độ bầu ướt” (Tw) cao nhất đạt được ở một mô hình khí hậu, với khí thải gây hiệu ứng nhà kính khiến nhiệt độ Trái đất nóng lên 12oC so với năm 2007. Vùng màu trắng là những nơi cái nóng có thể gây ra nhiều sự căng thẳng cho con người - Ảnh: Viện Purdue


Giống như sốt 42oC trong nhiều giờ...

Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu đo được “nhiệt độ bầu ướt” (wet-bulb temperature, gọi tắt là Tw) cao nhất mà cơ thể con người có thể chịu đựng được và phát hiện nhiệt độ này sẽ bị vượt qua trong tương lai, nếu mức độ thải khí gây hiệu ứng nhà kính tiếp tục như hiện nay.

Tw là nhiệt độ mà ta cảm nhận được khi da ướt bị phơi ra trong gió. Nó bao gồm nhiệt độ cùng độ ẩm của không khí, được đo bằng việc phủ một miếng vải ướt lên trên một bầu nhiệt kế và liên tục quạt bầu nhiệt kế này. Bằng cách đó, các nhà nghiên cứu tính được rằng phần lớn con người và động vật có vú với nhiệt độ cơ thể ở mức khoảng 370C sẽ bị tổn thương vì cái nóng khi Tw ở trên mức 350C trong liên tục sáu giờ hay hơn (tương tự với một cơ thể bị sốt 420C kéo dài). Thông thường Tw ít khi nào vượt quá 310C.

Giải thích thêm về kết quả này, đồng tác giả nghiên cứu - giáo sư Steven Sherwood thuộc Trung tâm nghiên cứu thay đổi khí hậu tại Đại học New South Wales cho biết cơ thể người dẫu khi nghỉ ngơi vẫn sản sinh năng lượng từ hoạt động trao đổi chất. Khi quá nóng, cơ thể sẽ tự làm mát bằng cách tiết mồ hôi để xua tan cái nóng. Muốn vậy, không khí xung quanh phải mát hơn làn da và da phải mát hơn nhiệt độ cơ thể gốc. Làn da mát hơn sẽ giúp hấp thu cái nóng quá mức từ cơ thể, thải chúng ra môi trường. Nếu Tw nóng hơn nhiệt độ của da, cái nóng của việc trao đổi chất không thể được phóng thích và nếu kéo dài nhiều giờ sẽ gây tác hại chết người.

Sẽ đến trong thế kỷ tới?

Giáo sư Huber cho biết: “Mặc dù hiện nay ở một số nơi trên thế giới nhiệt độ không khí đôi khi trên 400C, nhưng Tw thật sự cao hiếm khi xảy ra. Lý do là vì những vùng nóng nhất thế giới thường có độ ẩm không cao, điển hình như “cái nóng khô” giống như ở vùng Arizona. Khi trời khô, chúng ta có thể làm mát cơ thể bằng việc bài tiết mồ hôi và nhờ đó có thể giữ được cơ thể tương đối thoải mái.

Những nơi từng được ghi nhận có Tw cao nhất là tại các vùng gần bờ biển Saudi Arabia, nơi gió thường mang không khí nóng, ẩm của đại dương vào đất liền nóng hực khiến không khí cực kỳ khó thở. May mắn là những khoảnh khắc này hiện nay không kéo dài”. Tuy nhiên, nếu cái nóng này ập đến những nơi có độ ẩm cao thì hậu quả sẽ chết người.

Nghiên cứu trên nói cái nóng gay gắt ấy đòi hỏi những nỗ lực lớn để thích nghi. Việc sử dụng nhiều máy lạnh hơn khiến mức tiêu thụ điện tăng vọt, một vấn đề không nhỏ cho các nước thế giới thứ ba. Nó cũng làm bất kỳ công việc lao động ngoài trời nào trở nên nguy hiểm.

Những nhiệt độ chết người này, theo các nhà nghiên cứu của Đại học New South Wales, chưa từng xảy ra trong suốt thời kỳ tồn tại của loài người, nhưng đã xảy ra cách nay 50 triệu năm. Theo họ, cái nóng chết người này có thể đến trong thế kỷ sau, nếu mức thải khí nhà kính tiếp tục như hiện nay.

Nguồn: RedOrbit News

Theo Tuổi Trẻ
 
Nửa trái đất có thể thành vùng chết trước năm 2300

Biến đổi khí hậu có thể biến một nửa thế giới thành vùng đất chết do nhiệt độ tăng lên quá cao, các nhà khoa học cảnh báo.
desert.jpg


Nhiều nước sẽ biến thành sa mạc khi nhiệt độ tăng thêm 12 độ C. Ảnh: wallpaperbase.com.

Theo Telegraph, các nhà nghiên cứu của trường Đại học New South Wales tại Australia và Đại học Purdue tại Mỹ vừa công bố một nghiên cứu cho thấy, hiện tượng ấm lên toàn cầu vẫn sẽ tiếp diễn sau năm 2100, thời điểm xa nhất mà các dự đoán trước đây tính đến.

Trên thực tế, nhiều quốc gia sẽ biến thành sa mạc khi nhiệt độ tăng thêm 12oC. Con người sẽ không thể thích nghi hay tồn tại trong điều kiện như vậy.

Giáo sư Tony McMichael, một trong những tác giả của đề tài nghiên cứu, cho biết nếu thế giới tiếp tục thải ra khí nhà kính ở mức độ như hiện nay thì thảm họa sẽ ập tới.

“Theo kịch bản có thể xảy ra trước năm 2300, chúng ta sẽ phải đối mặt với việc nhiệt độ tăng lên 12oC và thậm chí còn hơn thế. Nếu điều này xảy ra thì những lo ngại trước mắt về nước biển dâng, các đợt nắng nóng bất thường, cháy rừng, mất đa dạng sinh học, và khó khăn trong nông nghiệp sẽ không là gì so với một mối đe dọa còn lớn hơn – đó là khoảng một nửa số vùng đất có cư dân sinh sống trên Trái Đất hiện nay sẽ không thể sống được nữa vì quá nóng", McMichael nói.

Giáo sư Steven Sherwood, người cùng tham gia nghiên cứu với McMichael, cho rằng nhiệt độ Trái Đất sẽ không thể tăng cao như vậy trong thế kỷ này. Nhưng ông cũng dự đoán đến năm 2300, rất có thể nhiệt độ sẽ tăng lên ít nhất 7oC và chỉ chừng đó thôi cũng đủ biến nhiều nơi thành vùng đất chết.

“Về lâu dài, khả năng viễn cảnh đó xảy ra là 50%”, ông Sherwood nhận định.

Sherwood nhận xét các nghiên cứu biến đổi khí hậu tỏ ra khá “thiển cận” khi không dự đoán về những hậu quả lâu dài do tác động của khí thải, thủ phạm của sự ấm lên toàn cầu. “Vấn đề này cần được quan tâm, dù chúng ta không thể làm được gì nhiều để kiểm soát biến đổi khí hậu trong hai thập kỷ tới”.

Theo VnExpress
 
Hơi nước tầng bình lưu biến đổi nhiệt độ toàn cầu

Giới khoa học dường như đã bỏ sót tác động của hơi nước tầng bình lưu đối với nhiệt độ toàn cầu, phát hiện mới cho thấy nó là nguyên nhân khiến nhiệt độ trong 10 năm qua chênh lệch đáng kể so với hai thập kỉ trước đó.

Các nhà nghiên cứu Mĩ vừa khám phá rằng lượng hơi nước cao trong khí quyển ảnh hưởng nhiều hơn đến nhiệt độ toàn cầu so với suy nghĩ trước đây.

Mặc dù phát hiện không làm thay đổi lí thuyết sự nóng lên toàn cầu là do con người nhưng nó giúp lí giải tại sao nhiệt độ có thể tăng và giảm một cách đáng kể giữa các thập kỉ.


ice.jpg
Băng tan do tác động của sự nóng lên toàn cầu. Ảnh: EPA

Nghiên cứu, được đăng trên tờ báo Science, cho biết độ ẩm của không khí ở độ cao khoảng 10 dặm (tạm gọi là hơi nước tầng bình lưu) giảm đi 10% là nguyên nhân khiến nhiệt độ toàn cầu vẫn ổn định từ năm 2000 đến nay dù CO2 đã gia tăng nhiều trong khí quyển.

Trong khi đó, sự gia tăng của hơi nước những năm 80 và 90 cũng lí giải cho sự tăng vọt nhiệt độ của hai thập niên này.

Hơi nước từng được thừa nhận là khí gây hiệu ứng nhà kính nghiêm trọng cũng như CH4 và CO2, nó hấp thụ nhiệt độ từ mặt trời khiến hành tinh “được đắp chăn”. Tuy nhiên, phần lớn việc dự đoán thời tiết chỉ tập trung vào hơi nước ở tầng đối lưu trong khí quyển.

TS Susan Solomon thuộc Cục Quản lí khí quyển và hải dương quốc gia Mĩ cho biết độ ẩm không khí tầng đối lưu đã được giám sát tốt. Thế nhưng chúng ta đã bỏ qua một lớp hơi nước mỏng ở tầng bình lưu. Lớp hơi nước này đã gây ra những ảnh hưởng lớn từ thập kỉ này sang thập kỉ khác theo hướng mà chúng ta không mong đợi.

Tầng bình lưu là vùng khí quyển ở độ cao từ 8–30 dặm so với bề mặt đất. Hơi nước đi vào tầng bình lưu chủ yếu khi không khí bốc lên cao ở vùng nhiệt đới.

Sự quan sát từ khí cầu khí tượng và vệ tinh cho thấy hơi nước tầng bình lưu tăng trong hai thập kỉ 80, 90 và giảm sau năm 2000.

Những thay đổi xảy ra ở những tầng cao trong khí quyển, đây chính là nơi những thay đổi sẽ ảnh hưởng lớn nhất đến khí hậu.

Các nhà khoa học cho biết lí do tại sao hơi nước tăng và giảm vẫn là một bí ẩn. Tuy nhiên, nghiên cứu ước tính rằng sự tụt giảm hơi nước từ năm 2000 đã khiến nhiệt độ bề mặt chỉ tăng 25%, tức là chậm hơn so với dự tính.

Cũng theo các nhà khoa học, trong thập niên 1990, có thể chính hơi nước tầng bình lưu đã tăng tốc sự ấm lên toàn cầu thêm 30%.

David Britton thuộc Văn phòng MET cho biết nghiên cứu đã nhấn mạnh tính chất phức tạp của khoa học khí tượng nhưng nó không chống lại khoa học nền tảng rằng CO2 và các khí thải từ hoạt động của con người là nguyên nhân hâm nóng hành tinh.

TS Vicky Pope, người đứng đầu ngành khoa học khí tượng tại Văn phòng MET cũng khẳng định dù hơi nước tầng bình lưu có ảnh hưởng đến nhiệt độ Trái đất thì đó chỉ là một biến đổi nhỏ so với sự gia tăng lâu dài khí nhà kính do con người tạo ra.

Theo VietNamNet (Dailymail)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top