Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
Tổng quan về thông diên học
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="PHÚC KEYNES" data-source="post: 95810" data-attributes="member: 147652"><p><strong>TỔNG QUAN VỀ THÔNG DIỄN HỌC [Phần 2]</strong></p><p></p><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">TỔNG QUAN VỀ THÔNG DIỄN HỌC</span></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[Phần 2]</span></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"></p> <p style="text-align: right"><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Trần Văn Đoàn</span></span></strong></span></p><p></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong>3. </strong><strong>Định </strong><strong>n</strong><strong>ghĩa Thông </strong><strong>d</strong><strong>iễn </strong><strong>h</strong><strong>ọc</strong></span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Sau khi đã lược qua về quá trình diễn biến hay phát triển của thông diễn học. Trong phần này, chúng tôi xin tạm đưa ra một số định nghĩa thông diễn học. Để độc giả có thể nhìn ra tính chất phức tạp cũng như phong phú của thông diễn học, chúng tôi xin trình bày thông diễn họcqua các truyền thống khác nhau. Mỗi truyền thống đều đưa ra một định nghĩa khác biệt về thông diễn học:</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong><em>- Truyền </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>hống Thánh </em></strong><strong><em>k</em></strong><strong><em>inh </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ọc và Giải </em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>ghĩa </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ọc </em></strong><strong>(Biblical Exegesis) </strong>hiểu thông diễn họcnhư là một hệ thống, phương pháp giải thích các văn kiện <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Như chúng tôi đã nhắc một cách tóm lược trong những đoạn trên, thông diễn họctrước tiên là một môn Giải thích học, đặc biệt được áp dụng để giải thích <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>. Tập sách của J. C. Dannhauer xuất bản năm 1654 đã từng mang tựa đề <em>Hermeneutica sacra sive methodus exponendarum sacrarum litterarum</em> (<em>Thông </em><em>d</em><em>iễn </em><em>h</em><em>ọc hay là Phương </em><em>p</em><em>háp </em><em>d</em><em>iễn </em><em>g</em><em>iải </em><em>v</em><em>ăn </em><em>c</em><em>hương </em><em>l</em><em>inh </em><em>t</em><em>hiêng</em>)</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn1" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[1]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">.Trong phần nói đầu, tác giả đã phân biệt (tuy không rõ ràng cho lắm) giữa thông diễn học(hermeneutics) và giải thích học (Exegesis). Đối với tác giả,<em>exegesis</em> chỉ là những câu bình luận mang tính chất thức thời, cập nhật, trong khi <em>hermeneutics</em> chú trọng tới quy luật, phương pháp cũng như cái lý, cái luật giúp giải thích, chú giải và bình luận. Sau tập sách của Dannhauer, các Giáo hội Tin Lành nhận ra một sự thiết yếu của môn giải thích học, bởi lẽ các mục sư bây giờ phải dựa vào sự hiểu biết của chính mình, chứ không như trước dựa vào lối chú giải được Giáo Hội (La Mã) công bố và xác định. Trong quãng thời gian 1ừ 1720 đến 1820, ta thấy rất nhiều tác phẩm liên quan tới thông diễn học</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn2" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[2]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">.Nhưng nói chung, ta phải đợi tới thời Schleiermacher, mới thấy một nền giải thích học tương đối hệ thống và đầy đủ. Tại Anh, môn giải thích học cũng phát triển. Năm 1737 ta thấy xuất hiện trong bộ từ điển của Đại họcOxford một số câu liên quan tới thông diễn học. Nhưng tiếng thông diễn họcđược người Anh sử dụng một cách quảng bác hơn, áp dụng vào trong thế giới văn chương để giải thích những câu văn tối tăm khó hiểu.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nói tóm lại, từ thông diễn họcđã thấy vào thế kỷ thứ 17, và mang ý nghĩa như là một sự giải thích, chuyển nghĩa (interpretation) theo một hệ thống của ngữ học, sử học và thế giới sống cũng như kinh nghiệm tôn giáo. Lối thông diễn họcnày được áp dụng để giải thích <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>, cũng như những văn bản thuộc lãnh vực linh thiêng (sacred) khác.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong><em>- Truyền </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>hống </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>u </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>ừ </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ọc hay </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>ruy </em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>guyên </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ọc</em></strong><strong>(philology) <em>và </em></strong><strong><em>p</em></strong><strong><em>hương </em></strong><strong><em>p</em></strong><strong><em>háp </em></strong><strong><em>g</em></strong><strong><em>iải </em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>gữ </em></strong><strong><em>c</em></strong><strong><em>hung</em></strong><strong> (General Philological Methodology)</strong></span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Sự phát triển nền triết học duy lý sau Descartes đã cổ võ triết học thoát ly khỏi hấp lực của thần học, và các nền đại học khỏi ảnh hưởng của các Giáo hội. Cùng với triết học duy lý, cùng với những suy tư mới dám phê bình nền học cũ</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn3" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[3]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">,các nền khoa học khác như tâm lý học, và nhất là ngữ học bắt đầu xuất hiện. Môn tu từ học (philology) nhắm đến một sự hiểu biết ngôn ngữ từ khía cạnh văn phạm cũng như từ quá trình phát triển, tức lịch sử của ngôn ngữ (theo nghĩa này, tu từ học cũng là truy nguyên học). Những người chủ trương như vậy, cho rằng “ý nghĩa câu nói trong <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>thực ra phải được xác định y hệt như cách thế chúng ta xác định ý nghĩa của ngôn ngữ trong các loại sách khác.”</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn4" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[4]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Từ đây ta nhận ra ba đặc tính của lối giải thích theo tu từ học: Thứ nhất, nguyên lý lý trí hướng dẩn sự hiểu biết. Bởi lẽ những dữ kiện lịch sử chỉ có thể hiểu được nhờ vào ánh sáng của lý trí. Và theo nguyên lý này, người giải thích tức là người<em>lý giải</em>. Họ phải đi sâu vào trong văn bản, lấy lý trí như là một công cụ để tìm ra trong những văn bản đó những sự thật đạo lý mà các tác giả <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>, đặc biệt <em>Tân Ước</em></span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn5" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[5]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">muốn giải bầy qua những sự kiện lịch sử, hay qua những từ ngữ khác biệt. Thứ tới, những nhà giải thích cần phải phát triển một sự thông hiểu lịch sử (historical understanding) theo cách hiểu của Hegel sau này. Theo Hegel trong những tác phẩm về lịch sử (<em>Geschichte der Philosophie</em>, và <em>Philosophie der Geschichte</em>), thì lịch sử vốn theo một con đường thẳng của lý trí, nhưng phát triển theo lối biện chứng, và tiến về chung điểm tuyệt đối tức chính lý trí tự thân (<em>Phaenomenologie des Geistes</em>, 1807). Chính vì vậy, để có thể hiểu được lịch sử, ta cần phải nắm vững được quy luật (logic) của lịch sử, tức cái luật xuất hiện của lý trí (<em>Logik der Wissenschaft</em>)</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn6" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[6]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">.Nói cách khác, đó chính là một sự hiểu thấu suốt, và thông suốt tất cả quy luật của lịch sử, tức nắm được cái tinh thần của lịch sử (Geist der Geschichte) nằm sâu trong, và ở đằng sau các hiện tượng. Thứ ba, họ điêu luyện một kỹ thuật giải thích bao gồm phân tích văn phạm, khảo chứng những dữ kiện lịch sử, đào sâu vào bối cảnh lịch sử của những dữ kiện và ngôn ngữ. Nói tóm lại, theo phương pháp tu từ học, nhiệm vụ chính của người giải thích cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của một sử gia</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn7" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[7]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">.Và đây là lý do chính yếu tại sao người ta đồng nghĩa môn giải thích học với môn tu từ học cổ điển (classical philology).</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong><em>- Khoa </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ọc về </em></strong><strong><em>s</em></strong><strong><em>ự </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>iểu </em></strong><strong><em>b</em></strong><strong><em>iết </em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>gôn </em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>gữ</em></strong><strong>(Linguistic Understanding)</strong></span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Từ một môn tu từ học như thế, Schleiermacher tìm cách tổng hợp với lối giải thích <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>. Nhà thần học này chủ trương giải thích mang tính chất khoa học. Theo ngôn ngữ của ông, đó là một nền khoa học giải thích. Nói rõ hơn, ông muốn phát triển thông diễn họcthành một nền khoa học và một nghệ thuật của sự hiểu biết tức <em>lý hội và giác ngộ</em> (hay <em>lý ngộ</em>). Nền khoa học - nghệ thuật <em>lý ngộ</em> này có những đặc tính sau: (1) Schleiermacher mạnh mẽ phê bình tính chất bất túc của phương pháp tu từ học. Lý ngộ hay một sự hiểu biết trọn vẹn, bao gồm hay công năng của lý trí (hiểu biết dựa trên quy luật của lý trí), và của trực giác (tức sự hiểu biét dựa trên chính cuộc sống). Nhưvậy, lý hội bắt buộc phải vượt khỏi lối giải thích dựa trên những quy luật của ngôn ngữ, bởi lẽ quy luật ngôn ngữ chỉ phản ánh một phần nào của cuộc sống mà thôi. (2) Thứ tới, để hiểu trọn vẹn, giống như Hegel, Schleiermacher đòi ta phải nắm được toàn bộ hệ thống, tức một nền khoa học mang hai tính chất thiết yếu và phổ biến. Chỉ như vậy, lý ngộ mới có thể làm nền tảng cho tất cả mọi đối thoại. (3) Theo những nguyên lý trên, Schleiermacher đã biến đổi môn giải thích ngôn ngữ cách chung (philological hermeneutics) thành một nền thông diễn học tổng quát (allgemeine Hermeneutik). Theo đó, chính vì ngôn ngữ chỉ là một sự phản ánh của thế giới sống, ta bắt buộc phải trực tiếp đi vào chính cái thế sinh của con người, mới có thể có được một sự thông hiểu trọn vẹn. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong>- <em>Truyền </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>hống </em></strong><strong><em>k</em></strong><strong><em>hoa </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ọc </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>inh </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>hần</em></strong><strong>(Geisteswissenschaft)</strong></span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn8" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[8]</span></span></a></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Việc Schleiermacher biến thông diễn học tổng quát thành một nền <em>khoa học lý ngộ</em> đã gây ra một ảnh hưởng sâu rộng tới sự phát sinh ra nền<em>khoa học tinh thần</em> (Geiteswissenschaft). Như đã giới thiệu một cách sơ sài trong phần dẫn nhập, Wilhelm Dilthey, đồ đệ và là người viết lịch sử về Schleiermacher, đã trực giác ra tầm quan trọng trong phát minh của thầy mình. Ông tiến xa hơn một bước nữa, phát triển thông diễn họcthành nền tảng của tất cả mọi nền khoa học tinh thần. Nền khoa học tinh thần này nhắm nghiên cứu tất cả mọi bộ môn (disciplines) liên quan đến sự hiểu biết về nghệ thuật, hành vi, tác động cũng như văn bản và chính tác giả. Thế nên, Dilthey chủ trương: (1) Ta cần phải nắm vững được một sự thông hiểu lịch sử, bởi lẽ chỉ khi thông hiểu lịch sử ta mới chắc chắn hiểu cái ý nghĩa của pháp luật, của những tác phẩm văn chương, những kinh điển cũng như nền văn học tôn giáo. (2) Thứ tới, sự thông hiểu lịch sử khác với sự hiểu biết về thế giới tự nhiên. Nếu, ta có thể hiểu được ngoại vật nhờ vào phương pháp phân tích số lượng của hiện tượng (quantification)– như thấy nơi phương pháp của Pierre Bayle–hay nắm được trật tự cũng như phương hướng phát hiện của các hiện tượng (như trong nền khoa học cơ khí của Isaac Newton), thì sự thông hiểu lịch sử phải theo một đường hướng khác. Bởi lẽ, thông hiểu là một hành vi của chủ thể, mang tính cách cá nhân đương tham dự vào quá trình lịch sử. Chủ thể không có đứng bên lề, hay bên ngoài để quan sát sự vật như nhà khoa học tự nhiên. Và chủ thể khi nhìn lịch sử, đương áp dụng chính những phương thế của con người, gắn liền với chính chủ thể. (3) Đây là lý do chính yếu, Dilthey muốn đảo lộn lại lối nhìn của Kant, theo đó (Kant) điều mà chủ thể có thể làm được chỉ là sắp xếp lại những dữ kiện theo quy luật tiên nghiệm của thiên nhiên. Nếu Kant đã thành công trong việc phê phán lý trí khi áp dụng vào khoa học tự nhiên (<em>Critique of pure </em><em>r</em><em>eason</em>), thì Dilthey nghĩ rằng, ta cần một chương trình mới nhắm phê phán cái lý trí lịch sử (critique of historical reason). (4) Từ một lối nhìn như vậy, Dilthey nhận ra vai trò quan trọng của tâm lý học. Tuy không thành công trong việc biến đổi tâm lý học thành một nền khoa học lịch sử, Dilthey đã có công trong công việc dựa trên một nền tảng lịch sử và mang nhân tính để xây dựng một phương pháp luận đặt nền móng cho nền khoa học tinh thần.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- <em>Truyền thống phân tích hiện tượng và giác ngộ hiện sinh</em> (Phenomenological Analysis of Existence and Existential Understanding)</span></span></strong></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Như độc giả sẽ thấy trong phần tới khi bàn về phương pháp hiện tượng học và thông diễn học, thông diễn họcthực ra chỉ là một bộ phận rất quan trọng của hiện tượng học. Trong tác phẩm bất hủ <em>Hữu thể và thời gian</em> (<em>Sein und Zeit</em>, 1927), Heidegger đã từng nói tới một nền thông diễn học về Hiện thể (hermeneutic of Dasein). Heidegger đưa ra một lối nhìn hoàn toàn mới lạ về thông diễn học. Theo ông, thông diễn họckhông phải là phương pháp, hay những quy luật, hay những điều kiện để giải thích, cũng không phải là một phương pháp luận như thấy trong nền khoa học tinh thần của Dilthey. thông diễn họclà một sự diễn giải hiện tượng học về chính sự hiện hữu của con người. Thế nên, sự thông hiểu cũng như sự thông diễn (interpretation) là những kiểu diễn tả, biểu tả và hiện hữu của chính hữu thể (con người). Nói một cách khác, thông diễn họclà một nền bản thể học về sự hiểu biết (ontology of understanding), qua chính việc làm hiện thể (Dasein) tự xuất hiện trong những phương cách đặc thù của nó. Theo lối hiểu này, thông diễn họcđồng lúc là một phương pháp tự khai mở cũng như một bản chất của hiện thể.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Lối nhìn của Heidegger được Gadamer chia sẻ, và phát triển trong tác phẩm <em>Chân lý và phương pháp</em> (<em>Wahrheit und Method</em>, 1960) mà chúng tôi đã phác họa sơ qua trong các đoạn trên, cũng như sẽ bàn tới một cách chi tiết hơn trong chương thứ ba. Trong tác phẩm nền tảng của thông diễn họcnày, Gadamer trình bày sự khám phá thông diễn họcmang một tính chất cách mạng trong nền bản thể học của Heidegger. Mục đích chính của <em>Chân lý và phương pháp</em> không phải là một nghiên cứu trình bày lịch sử thông diễn họcnhư nhiều người lầm tưởng, mặc dù Gadamer đã lướt qua quá trình lịch sử của thông diễn họctừ thời Schleiermacher, qua Dilthey và tới Heidegger. Ta thấy, qua tác phẩm này, Gadamer muốn nối kết thông diễn họcvới thẩm mỹ học, và nhất là với một nền triết học của lối thông hiểu mang tính chất lịch sử. Và như vậy ta thấy Gadamer đã cố gắng tổng hợp nền triết học lịch sử của Hegel với nền bản thể học của Heidegger, để tạo ra lối suy tư thông diễn. Nói cách khác, Gadamer nối kết ý thức lịch sử đương tác động (historically operative consciousness) với tất cả cuộc sống từng được truyền lại và tiếp tục qua truyền thống và thấy trong khát vọng của con người. Chúng hiển hiện trong văn bản (textes). Từ đây, Gadamer đi thêm một bước xa hơn Heidegger, khi ông bản thể hóa ngôn ngữ “Hữu thể chỉ có thể hiểu được nếu là ngôn ngữ”. Khi nhận định rằng, thực tại con người mang những đặc tính ngôn ngữ, nền thông diễn họccủa ông đã biến phương pháp thông diễn thành một nền triết học, mà trong đó sự tương quan giữa ngôn ngữ và hữu thể, giữa ngôn ngữ và sự thông hiểu, giữa ngôn ngữ và lịch sử, giữa hiện sinh và thực thể luôn mang một tính chất biện chứng. Như vậy, thông diễn họcđược coi như trọng điểm của những vấn đề triết học thời nay vậy.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong><em>- Thông </em></strong><strong><em>d</em></strong><strong><em>iễn </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ọc như là </em></strong><strong><em>m</em></strong><strong><em>ột </em></strong><strong><em>h</em></strong><strong><em>ệ </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>hống </em></strong><strong><em>g</em></strong><strong><em>iải </em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>ghĩa </em></strong><strong><em>đ</em></strong><strong><em>ể </em></strong><strong><em>t</em></strong><strong><em>ìm </em></strong><strong><em>l</em></strong><strong><em>ại </em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>hững </em></strong><strong><em>ý</em></strong><strong><em>n</em></strong><strong><em>ghĩa </em></strong><strong><em>đ</em></strong><strong><em>ã </em></strong><strong><em>m</em></strong><strong><em>ất.</em></strong></span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Trong truyền thống của Tân giáo (đạo Tin Lành), và bị ảnh hưởng của khoa học, ta thấy rằng nhiều nhà giải thích văn bản, nhất là <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>đã phản đối lối giải thích đa nghĩa. Họ cho rằng, mỗi câu nói chỉ mang một ý nghĩa duy nhất (iconoclasm). Nhưng ý nhĩa trung thực nhất phải được chứng minh qua những dữ kiện, bằng chứng khoa học, hay qua ngữ học vào thời mà câu nói thịnh hành. Thành thử, tất cả những ý nghĩa khác gắn vào, hay được giải thích theo các nền văn hóa đều sai lầm.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Lẽ tất nhiên, một chủ trương như vậy không chỉ làm nghèo ngôn ngữ. Nó phát sinh từmột ảo tưởng cho rằng thế giới bất dịch, cuộc sống bất động, và con người bất biến. Nếu quả thế giới con người không biến đổi, thì một chủ trương như vậy có lẽ có cái lý của nó. Nhưng lịch sử con người chứng minh, ít nhất theo lối nhìn của Hegel, và của thuyết tiến hóa (Darwin), chứ đừng nói tới truyền thống dịch lý của đông phương, thế giới luôn trong tình trạng biến động.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Paul Ricoeur ý thức được sự thật này khi ông đề nghị trong tác phẩm <em>De l’interprétation</em> (<em>Về </em><em>t</em><em>hông </em><em>d</em><em>iễn</em>)(1965) một lối diễn giải đa nghĩa. Đối với ông, bất cứ một văn bản nào cũng nói ra những điểm chung, cũng như, cùng một lúc, những điểm cá biệt. Giống như phân tâm học nhắm giải nghĩa những giấc mộng, thông diễn họcnhắm giải thích những điều tiềm ẩn trong văn bản. Thế nên, đối với Ricoeur, giấc mộng cũng là một văn bản, y hệt như những tín hiệu (signal), dấu hiệu (sign), biểu tượng (symbol), vân vân. Theo lối nhìn này, Ricoeur đinh nghĩa thông diễn họcnhư là “một quá trình mở mật mã (deciphering), đi từ những ý nghĩa hiển nhiên tới những ý nghĩa thầm kín”</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn9" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[9]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">vốn thấy trong nội dung của văn bản, giấc mơ, câu nói…</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Nhưng để mở được mật mã, và để làm cho cái ý nghĩa thầm kín xuất hiện, ta cần một phương pháp tương tự như phương pháp của phân tâm học. Nếu phân tâm học phân biệt ý thức (consciousness) khỏi tiềm thức (subconsciousness), thì Ricoeur đề nghị phân biệt những biểu tượng nhất nghĩa (univocal) khỏi những biểu tượng đa nghĩa hàm hồ (equivocal). Biểu tượng nhất nghĩa là những dấu hiệu chỉ ra ý nghĩa. Nó đồng nhất với ý nghĩa. Thế nên biểu tượng nhất nghĩa này được áp dụng vào luận lý (logic) như trường hợp luận lý biểu tượng (symbolic logic). Thông diễn họctập trung vào biều tượng đa nghĩa, vì chúng cần phải được giải thích. Nơi đây, thông diễn họcluôn phải đối diện với văn bản mang nhiều ý nghĩa cùng một lúc. Tuy đa nghĩa, và khác nhau, chúng có thể cấu tạo thành một đơn vị ngữ ý (semantic unity) và tạo ra một ý nghĩa chung, nhưng đồng thời cũng chỉ ra một ý nghĩa khác sâu đậm và xa hơn. Đây là trường hợp của những huyền hoại, thần thoại hay nhân thoại (myths). Hiểu như vậy, Ricoeur coi thông diễn họckhông chỉ là một phương pháp, mà còn là một hệ thống mà qua đó cái ý nghĩa thâm sâu, thầm kín có thể hiển hiện ra.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Như chúng tôi sẽ bàn sâu hơn về nền thông diễn họccủa Ricoeur trong chương hai, nơi đây xin tạm tóm lại quan điểm của Ricoeur về thông diễn học. Nếu thông diễn họclà một hệ thống đào bới những ý nghĩa (nổi cũng như chìm, gần cũng như xa), và nếu sự đào bới ý nghĩa giống như phân tâm học, khiến bệnh nhân tự phát hiện những thực tại bị đè nén, dồn ép, và bị lãng quên, thì ta thấy có hai loại thông diễn học: (1) Ta có thể áp dụng lối “<em>phá vỡ</em> thần thoại tính” (demythologizing) của nhà thần học Rudolf Bultmann. Theo lối <em>phá vỡ</em> tính chất huyền thoại này, người ta có thể vất bỏ những đặc tinh huyền bí của huyền thoại, và tìm ra cái còn lại, đó chính là ý nghĩa đích thực mà ta muốn tìm. (2) Ta cũng có thể “<em>hủy bỏ</em> thần thoại” (demystification), tức không coi những biểu tượng trong thần thoại là một thực thể. Lối nhìn “duy lý” này coi huyền thoại như là những cái mặt nạ giả dối, hay tượng trưng cho những ảo tưởng không hề có. Theo Ricoeur, Marx, Nietzsche và Freud đại diện cho khuynh hướng thứ hai. Họ coi những thực tại biểu hiện trên mặt (surface reality) là giả dối, và họ tìm cách xây dựng những hệ thống tư tưởng mới để <em>hủy bỏ</em> cái loại thực tại mà chúng ta vốn cho là lẽ tất nhiên này.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Chính vì thế mà Ricoeur quả quyết là trong thông diễn họcchúng ta không thể có những quy tắc giải nghĩa có tính chất phổ biến và tất yếu. Nếu chúng ta có những quy luật giải thích, thì chúng chỉ là những quy luật cá biệt, và nhiều khi đối chọi nhau mà thôi.</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn10" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[10]</span></span></a></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong>4</strong><strong>. Ý</strong><strong>n</strong><strong>ghĩa và </strong><strong>m</strong><strong>ục </strong><strong>đ</strong><strong>ích của </strong><strong>t</strong><strong>hông </strong><strong>d</strong><strong>iễn </strong><strong>h</strong><strong>ọc</strong></span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nếu chúng ta không thể có một định nghĩa chung về thông diễn học, điều này không có nghĩa là nó phản khoa học. Ngược lại, sự kiện này nói lên sự hạn hẹp của lối hiểu biết khoa học của con người. Người ta đã hạn hẹp khoa học vào trong những phạm trù cố định. Người ta đã phán đoán khoa học theo một số phương pháp cứng nhắc (thí dụ phương pháp thực nghiệm, hay thí nghiệm thấy nơi Bacon và những người theo ông, hay phương pháp phân tích thấy nơi đồ đệ của Descartes). Chúng ta quên đi sự kiện quá hiển nhiên, đó là ngay cả khoa học cũng cần phải được hiểu biết.</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn11" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[11]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Vậy nên, khi mà thông diễn họckhông có một định nghĩa duy nhất, khi mà mỗi triết gia đều có những lối nhìn không hoàn toàn giống nhau về thông diễn học, điều này chỉ nói lên được một sự kiện: đó là thông diễn họcvà sự hiểu biết của con người gắn liền với nhau. Bởi lẽ, sự hiểu biết của chúng ta được nuôi, và phát triển trong chính cuộc sống, trong cái thế giới sống, trong cái nôi văn hóa và ngôn ngữ, trong cái cảm tính tất nhiên của con người nói chung, và con người của một xã hội cá biệt nói riêng. Nhưng nếu hiểu thông diễn họcgắn liền với cuộc sống, và nếu ta chủ trương cuộc sống cá biệt, khác biệt thì rất có thể là chúng ta đương sa vào cái vũng lầy ngụy biện, hay rơi vào vào cái hố thẳm của chủ thuyết tương đối, hay tự xây cho mình cái tháp Babel. Bởi lẽ không ai có thể hiểu được nhau khi mà cuộc sống của chúng ta hoàn toàn khác nhau, khi mà ngôn ngữ khác biệt, khi mà chúng ta không có một cảm tính chung, và khi mà chúng ta từ chối vai trò của lý trí.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Thực ra, thông diễn họckhông có chủ trương như vậy. Thông diễn họcnhận định, tuy hiểu biết gắn liền với cuộc sống, nhưng cuộc sống của con người tuy có những khác biệt, vẫn có những tương đồng, có những điểm chung mà không ai có thể chối bỏ được. Trong đoạn này, chúng tôi muốn nói đến những điểm chung làm nền tảng cho thông diễn học, tức giúp chúng ta đi đến một sự hiểu biết, một hội thông. Đây mới là mục đích chính của thông diễn học.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Thứ nhất,<em>thông diễn học</em><em>bắt đầu với chủ thể</em>. Chính con người như chủ thể đương tìm cách hiểu thế giới, ngoại vật và tha nhân. Và ngay cả tha nhân, như một chủ thể, cũng đương tìm cách hiểu những khách thể (không phải là chủ thể). Do đó, tương thông là một hành động, một lối tư duy, cũng như một sự hiểu biết lẫn nhau của những chủ thể. Một sự vật không thể hiểu sự vật khác, cũng không thể hiểu chúng ta, bởi lẽ nó không phải là chủ thể. Từ đây, chúng ta mới có thể hiểu tại sao thông diễn họcnhư là một nền khoa học về hiểu biết phải là chính cái nền tảng của nền khoa học tinh thần (Dilthey), tức đặt trên những <em>cộng tính</em> của nhiều chủ thể.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Thứ hai, thông diễn họccó thể được phát triển theo hai câu hỏi: “Làm sao ta có thể hiểu?” và “Bản chất của sự hiểu biết tự nó là gì?”</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn12" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[12]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Đi tìm câu trả lời cho mỗi câu hỏi, tức là phát triển thông diễn họctheo những chiều hướng khác nhau. Nếu ta tập trung vào câu hỏi thứ nhất, như trường hợp Betti và E. D. Hirsch</span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn13" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[13]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">,thông diễn họcsẽ đi theo hướng phương pháp khoa học theo nghĩa thông thường, tức đi tìm những nguyên tắc, điều kiện và giới hạn để xây dựng một tầm hiểu biết khách quan. Nhưng nếu chúng ta đặt trọng tâm vào câu hỏi thứ hai, về chính bản chất của sự hiểu biết, thì thông diễn họcsẽ phát triển thành một nền bản thể học như thấy trong triết học thông diễn của Gadamer.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Thứ ba, hiểu biết đòi hỏi một sự hiểu thấu suốt, biết trọn vẹn. Nói cách khác, một sự hiểu biết như vậy phải là một sự thông hiểu. Thế nên thông diễn họcluôn đặt mọi vấn đề trong cái toàn thể. Mà cái toàn thể quả là phức tạp, vĩ mô, và nhất là đương trong tình trạng phát triển (biến dịch) không ngừng. Thế nên, thông diễn họckhông bao giờ dám tự cho mình cái độc quyền nắm giữ, hiểu biết và định đoạt sự vật, nhất là con người. Husserl thẳng thắn phê bình chủ nghĩa duy tâm lý (psychologism) vào thời của ông (chứ không phải phản đối khoa học tâm lý), bởi lẽ ông nhìn ra <em>sự bất lực của bất cứ nền tâm lý học nào chỉ dựa vào khoa học tự nhiên</em>. Tương tự, sự việc ông nhận ra sự khủng hoảng của nền khoa học hiện đại đã giúp nhiều khoa học và triết gia đặt lại chính cái bản tính của khoa học (như trường hợp của phái hậu hiện đại).</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Thứ tư, tuy các nhà thông diễn học có vẻ “mỗi người mỗi sắc”, nhưng không có ai “mười phân vẹn mười.” Thực ra, các lý thuyết của họ bổ túc cho nhau. Sự đòi hỏi tính chất khách quan của hiểu biết nơi nền thông diễn họccủa Betti không có phủ định vai trò của mỗi chủ thể trong nền thông diễn của Gadamer. Ngược lại, những phê bình của Betti đã giúp Gadamer và những người theo sau đi tìm một nền tảng chung cho mọi chủ thể, tức đi tìm tính chất chung (cộng tính) cho mọi chủ thể. Tương tự, nền thông diễn họccủa Gadamer cũng bổ túc cho nền thông diễn của Betti cái bản thể mà Betti không để ý tới. Làm sao mà chúng ta có thể tách rời sự hiểu biết khỏi chính chủ thể, khỏi chính cuộc sống? Trong cuộc tranh luận giữa Gadamer và Habermas, ta cũng thấy những bổ túc tương tự. Sự phê bình truyền thống cũng như các giá trị phát sinh trong ý hệ, không có gạt bỏ cái giá trị của nền thông diễn họccủa Gadamer. Ngược lại, nó càng làm ta chú ý tới vai trò của ý hệ trong công việc hiểu biết nền văn hóa của các dân tộc. Ý hệ có thể bóp méo sự hiểu biết, nhưng ý hệ cũng là một tấm gương của thượng tầng kiến trúc phản ánh cái hạ tầng căn bản của cuộc sống con người.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Thứ năm, những điểm chung hay những bản chất chung nơi con người, nơi xã hội con người, và nơi thế giới sống đã được khai quật một cách rất cặn kẽ, và tạo thành nền triết học của thế kỷ thứ 20, đồng thời cũng ảnh hưởng tới nền triết học hiện nay. Nếu Gadamer đào sâu trong bản tính con người để tìm ra những bản chất, thí dụ cộng cảm (sensus communis), cộng thể (ontological essence), thì Habermas đào bới những điều kiện “tiên nghiệm mang tính chất thực hành” (universal pragmatics) để có thể làm điều kiện cho cộng thông (communication), cộng hoạt (communicative action). Nếu Betti chủ trương ngôn ngữ khách quan (objective language), hình thức cảm quan chung (sensible form) cho mỗi người, thì Ricoeur muốn nhấn mạnh tới vai trò của mỗi người trong tác động (acts) và sinh hoạt (life) thông diễn. Mỗi độc giả đều tham dự vào quá trình tái tạo sự hiểu biết.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Từ đây ta nhận ra được sự đóng góp quan trọng của thông diễn học. Nó nhắm vào chính sự hiểu biết, tức nhắm vào chính cuộc sống con người trong cái toàn thể, và nó giúp chúng ta hiểu biết con người hơn. Từ đây, chúng ta có thể hiểu được những cái gì mà cha ông chúng ta truyền lại, tức những giá trị văn hóa, đạo đức. Từ đây chúng ta mới thấy được cái công năng, sự biến hóa cũng như lối cấu tạo của ngôn ngữ. Và từ đây chúng ta hiểu được, sự hiểu biết của chúng ta luôn gắn chặt với lịch sử, với ý hệ, với những nghịch lý, và với cả những dự phóng về tương lai, điều mà Ricoeur nhấn mạnh khi ông khám phá ra sự liên hệ giứa ý thức con người và ý thức về một thế giới về sau (eschaton).</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong>Tạm </strong><strong>k</strong><strong>ết</strong></span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Trong chương thứ nhất này, chúng tôi đã giới thiệu một cách rất <em>tổng quát</em> thông diễn họctrong quá trình diễn biến. Chúng tôi cũng tạm đưa ra sáu lối hiểu (định nghĩa) khác nhau về thông diễn học. Và chúng tôi đã giải thích lý do tại sao thông diễn họcphức tạp, tại sao chúng ta không thể có những định nghĩa chính xác, tại sao mỗi triết gia đều có những chủ trương riêng.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nơi đây, chúng tôi chỉ xin lặp lại và nhấn mạnh một cách đặc biệt tới một lý do rất đơn giản, nhưng tối quan trọng: thông diễn họclà một sự hiểu biết <em>về chính cuộc sống, về thế giới sống, về tất cả những yếu tính liên quan tới sự sống</em>. Chính vì thế, một nền thông diễn họcđầy đủ bắt buộc phải nhìn ra cái <em>toàn thể</em> của cuộc sống. Đồng thời nó phải đào sâu vào <em>mỗi khía cạnh của cuộc sống</em>, của cái toàn thể. Bây giờ ta có thể hiểu được, khi Dilthey cho rằng thông diễn họclà nền tảng của nền Khoa học Tinh thần, ông muốn nói đến nền khoa học con người, tới nền tảng nhân văn (humanities) tức cái truyền thống hàng ngàn năm của nhân loại. Khi Gadamer chủ trương vai trò của chủ thể trong sự hiểu biết, khi ông nhấn mạnh tới cái mà ông gọi là “vòng thông diễn” (hermeneutical circle), tới cái nền tảng của sự hiểu biết chung nơi con người gắn lền với tình cảm chung nơi mọi người(tức cộng cảm), ông đã nói lên được bản tính con người (human nature), cách sống, cách hiểu, cách cảm (tình) của họ. Tương tự, thầy của ông, nhà triết gia đại tài Heidegger, cũng đã gắn liền bản thể với cái cội nguồn của sự sống. Sự phân tích hiện tượng về hiện thể (phenomenology of Dasein) của ông cũng là một lối thông diễn cách thế sống, cách thế hiểu của con người mà thôi.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Bằng cách gắn liền thông diễn họcvới sự sống con người, chúng ta nhận ra thông diễn họcchỉ là một sự tiếp nối, hoàn bị và mở rộng tất cả quá trình diễn tiến của lịch sử con người và lịch sử triết học. Khi mà Socrates đòi các nhà ngụy biện phải trở lại con người, khi mà Plato nhận thức được sự thiết yếu của một nền triết lý thực hành không chỉ xây trên lý hình (tức quan niệm thuần túy), khi mà Aristotle khám phá ra được nền triết lý thuần túy không thể tách biệt khỏi nền triết học thực hành (qua phân tích về quan niệm phronesis)… các triết gia Hy lạp đã nhận ra rằng, sự hiểu biết về thế giới đòi buộc một sự hiểu biết về con người, mà một sự hiểu biết về con người chỉ có thể có được trong cuộc sống sinh động, qua ngôn ngữ, qua cảm tình, qua thế giới thẩm mỹ, qua khát vọng<em>tông giáo</em>, qua hy vọng về tương lai và qua sinh hoạt chính trị và kinh tế của chúng ta.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tương tự, chúng ta cũng thấy một lối nhìn như vậy nơi các nền văn hóa nhân loại. Triết học Nho gia chỉ có thể hiểu được trong những khía cạnh liên quan tới sự sống con người. Khổng Tử đặt nặng vấn đề lễ nghĩa, nhân nghĩa, trung nghĩa và nhất là hiếu đễ <em>không phải</em> vì ngài <em>lệ</em> <em>nghĩa</em> (giống như các pháp gia <em>lệ</em> <em>pháp</em> sau này), nhưng vì ngài <em>thấu hiểu</em> được rằng, ta chỉ có thể hiểu được con người một khi giải quyết được những vấn nạn của con người. Và để hiểu con người, ta cần phải nắm vững được tất cả cơ cấu (tức cái toàn thể) của cuộc sống: con người tổ chức như sao, hợp quần như thế nào, làm thế nào để bảo tồn xã hội, bảo tồn cái cơ cấu… Nói tóm lại, làm thế nào để bảo tồn sự sống còn của nhân loại. Nền triết học của Đạo giáo, tuy khác biệt trong cách thế giải quyết vấn đề, cũng có những lối nhìn tương tự. Truyền thống<em>Dịch</em> cho tới truyền thống <em>Đạo </em>đều chú trọng tới cái toàn thể (hay “chủ toàn”, theo ngôn ngữ của Cao Xuân Huy). Con người, sự sống… chỉ có thể hiểu được trong cái toàn thể mà chúng ta gọi là <em>Tam Tài</em>, hay người Nhật gọi là <em>Tam Cực</em>. (Tam tài hay tam cực đều phát xuất từ quan niệm Vạn Vật Nhất Thể). Sự sống chỉ có thể có khi mà tất cả mọi bộ phận đều tương quan mật thiết với nhau, tạo thành cái vũ trụ nhân linh (tức Tam Tài): “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa.”</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Nếu thông diễn họclà một nền khoa học về hiểu biết (Gadamer), về phương cách hiểu biết (Betti), về điều kiện hiểu biết (Habermas), về phương thế giúp hiểu biết (Schleiermacher, Hirsch), và về bản thể của hiểu biết (Heidegger), thì chúng ta phải công nhận là bất cứ nền triết học nào, bất cứ nền văn hóa nào cũng mang tính chất thông diễn. Thế nên, thông diễn họckhông phải chỉ áp dụng để chú giải <em>Thánh </em><em>k</em><em>inh</em>, để giải thích các đoạn văn kinh điển, để giải nghĩa những sự kiện hay truyền thống, mà còn phải giúp hiểu những vấn nạn không kém quan trọng, đó là: tại sao kinh điển, truyền thống, tập tục, văn hóa, ngôn ngữ… ảnh hưởng tới chúng ta, tới lịch sử con người? Tại sao chúng cấu tạo thành một bộ phận thân thiết trong cuộc sống? Tại sao chúng đồng nhất với văn hóa dân tộc, với những nền giá trị? Và tại sao chúng không thể tách rời khỏi văn hóa, khỏi nền giáo dục (tức đào tạo) con người? </span></span></span></p><p> </p><p style="text-align: right"><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Trần Văn Đoàn</span></span></strong></span></p> <p style="text-align: right"><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>(</em><em>Đại Học Quốc Gia Đài Loan</em><em>)</em></span></span></span></p><p></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nguồn: </span></span><a href="https://www.simonhoadalat.com/" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">https://www.simonhoadalat.com</span></span></a></span></p><p> </p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref1" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[1]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Xin tkh. Gerhard Ebeling, “Hermeneutik” trong <em>Die Religion in Geschichte und Gegenwart</em>, III (1959), ctr. 242-246, tr. 243; Pamer, tr. 34.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref2" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[2]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Ebeling, tr. 242; Palmer, tr. 34.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref3" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[3]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Thí dụ ngay trong thần học, ta cũng thấy một trường phái gọi là “phương pháp lịch sử-phê phán” (historical-critical method). Xin tkh. Hans-Joachim Kraus, <em>Geschcichte der historisch-kritischen Erforschung der Alten Testament von der Reformation bis zu Gegenwart</em> (Neukirchen: Buchhandlung der Erziehungsvereins, 1956), Chương 3, ctr. 70-102; Palmer, tr. 38, chú thích 16. Baruch Spinoza trong tác phẩm <em>Về chính trị và thần học</em>, Tractatus theologico-politicus (1670) cũng nhận định tương tự khi ông viết: “Quy luật giải thích Thánh kinh phải theo nguyên lý của lý trí”. Trích từ Ebeling, sđd., tr. 245. Johannes Lessing, một người chủ trương thời Ánh sáng, trong tác phẩm <em>Über den Beweis des Geistes und der Kraft</em> (1777), càng mạnh bạo hơn: “Những sự thật bất tất thấy trong lịch sử không bao giờ có thể được coi như những bằng chứng để chứng minh sự thật của lý trí.” (Zugefalling Geschichtswahrheiten koennen der Beweis von nothwendigen Vernunftswahrheiten nie werden.” Trích từ Kurt Froer, <em>Biblische Hermeneutik: Zur Schriftauslegung in Predigt und Unterricht</em>, tr. 26; Palmer, ctr. 38-39.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref4" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[4]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Johann August Ernesti, <em>Institutio interpretis Novi Testamenti</em> (Leipzig: Weidmann, 1972); Trích từ Frederic W. Farrar, <em>History of Interpretation</em> (Grand Rapids, Mich.: Baker Book House, 1961), tr. 402; Palmer, tr. 38.</span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref5" target="_blank">https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref5</a></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[5] Ngoài bốn tác giả: Thánh Mát-thêu (Mattheus), thánh Mác-cô (Marcus), thánh Lu-ca (Luka), và thánh Gio-an (Ioannes), còn phải kể đến thánh Phao-lô (Paulus), thánh Phê-rõ (Petrus), thánh Phi-líp-pê (Phillipus) với những lá thư của các ngài gửi các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref6" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[6]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Về các tác phẩm của Hegel, chúng tôi dựa theo bộ: <em>Hegelswerke </em>do K. Michel và E. Moldenhauer chb. (Frankfurt a. M. : Suhrkamp, 1970 vtth.). Riêng tập sách kinh điển <em>Phaenomenologie des Geistes</em> đã được chúng tôi dịch qua Việt ngữ: <em>Luật Tinh </em><em>thần qua Hiện </em><em>tượng</em>(Washington, D.C.: Vietnam University Press, đương sửa soạn xuất bản).</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref7" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[7]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Chú ý là lối giải thích lịch sử của Giáo sư Kim Định (<em>Việt Lý Tố Nguyên</em>), và nhất là của những học giảthế hệ trước như các cụ Phan Bội Châu (<em>Khổng Học Đăng</em>), Trần Trọng Kim (<em>Nho Giáo</em>), Bùi Kỷ (chú thích Truyện Kiều) theo phương pháp giải thích tu từ học này. Giáo sư Trần Quốc Vượng có lẽ thuộc về một số ít học giảkhông hẳn chỉ dựa vào tu từ học. Khi lý giải nguyên lý mẹ (ctr. 481-486), hay truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy (ctr. 296-301), giáo sư họ Trần đã áp dụng thông diễn một cách rất hay khi ông dựa trên thế giới sống của các thời đại, trên quátrình diễn biến, cũng như trên sự khác biệt giữa cách sống và lý thuyết. Xin tkh. Trần Quốc Vượng, <em>Văn </em><em>hóa Việt Nam - Tìm </em><em>tòi và </em><em>suy </em><em>ngẫm</em>(Hà Nội: Nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2000).</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref8" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[8]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Trong giới hàn lâm Đức, từ tinh thần (Geist) không mang nghĩa thần linh, hay quỷ thần, nhưng nói lên cái tinh túy của tư tưởng, cách sống, lối tổ chức, sự cảm thông, và nhậy cảm của dân tộc. Nói cách khác, chữ tinh thần gần với từ đạo, đạo lý, đạo giáo trong tư tưởng Viễn Đông. Chính vì vậy mà khi nói về khoa học tinh thần, ta thường hiểu tất cả những bộ môn khoa học thuộc nhân văn, xã hội. Tại vùng nói tiếng Đức, đã có một thời người ta gọi Đại họcVăn khoa, Xã hội, Nghệ thuật… là Đại họcKhoa học Tinh thần (Fakultaet der Geisteswissenschaft). Tại Đại họcVienna (Wien), nơi tôi từng dạy học một thời gian ngắn, Đại họcKhoa học Tinh thần được đổi tên lại là Đại họcKhoa học Căn bản (Fakultaet der Integralwissenschaft).</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref9" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[9]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Paul Ricoeur, <em>De L’Interprétation</em>, tr. 18; Palmer, tr. 43.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref10" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[10]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Ricoeur, <em>De l’interprétation</em>, tr. 35; Palmer, tr. 44.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref11" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[11]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Xtkh. Trần Văn Đoàn, <em>Reason, Rationality and Resonableness</em> (New York - Lanham: The University Press of America, 1989; sec. ed. Washington, D.C.: The Council for Research in Values and Philosophy, 2001).</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref12" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[12]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> Palmer, tr. 66.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref13" target="_blank"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[13]</span></span></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> E. D. Hirsch, <em>Validity in Interpretation</em> (New Haven: Yale University Press, 1967).</span></span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="PHÚC KEYNES, post: 95810, member: 147652"] [b]TỔNG QUAN VỀ THÔNG DIỄN HỌC [Phần 2][/b] [CENTER][FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4]TỔNG QUAN VỀ THÔNG DIỄN HỌC[/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4][Phần 2][/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT][/CENTER] [RIGHT][FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4]Trần Văn Đoàn[/SIZE][/FONT][/B][/FONT][/RIGHT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B]3. [/B][B]Định [/B][B]n[/B][B]ghĩa Thông [/B][B]d[/B][B]iễn [/B][B]h[/B][B]ọc[/B][/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] Sau khi đã lược qua về quá trình diễn biến hay phát triển của thông diễn học. Trong phần này, chúng tôi xin tạm đưa ra một số định nghĩa thông diễn học. Để độc giả có thể nhìn ra tính chất phức tạp cũng như phong phú của thông diễn học, chúng tôi xin trình bày thông diễn họcqua các truyền thống khác nhau. Mỗi truyền thống đều đưa ra một định nghĩa khác biệt về thông diễn học:[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B][I]- Truyền [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]hống Thánh [/I][/B][B][I]k[/I][/B][B][I]inh [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ọc và Giải [/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]ghĩa [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ọc [/I][/B][B](Biblical Exegesis) [/B]hiểu thông diễn họcnhư là một hệ thống, phương pháp giải thích các văn kiện [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I].[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Như chúng tôi đã nhắc một cách tóm lược trong những đoạn trên, thông diễn họctrước tiên là một môn Giải thích học, đặc biệt được áp dụng để giải thích [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I]. Tập sách của J. C. Dannhauer xuất bản năm 1654 đã từng mang tựa đề [I]Hermeneutica sacra sive methodus exponendarum sacrarum litterarum[/I] ([I]Thông [/I][I]d[/I][I]iễn [/I][I]h[/I][I]ọc hay là Phương [/I][I]p[/I][I]háp [/I][I]d[/I][I]iễn [/I][I]g[/I][I]iải [/I][I]v[/I][I]ăn [/I][I]c[/I][I]hương [/I][I]l[/I][I]inh [/I][I]t[/I][I]hiêng[/I])[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn1"][FONT=Arial][SIZE=4][1][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4].Trong phần nói đầu, tác giả đã phân biệt (tuy không rõ ràng cho lắm) giữa thông diễn học(hermeneutics) và giải thích học (Exegesis). Đối với tác giả,[I]exegesis[/I] chỉ là những câu bình luận mang tính chất thức thời, cập nhật, trong khi [I]hermeneutics[/I] chú trọng tới quy luật, phương pháp cũng như cái lý, cái luật giúp giải thích, chú giải và bình luận. Sau tập sách của Dannhauer, các Giáo hội Tin Lành nhận ra một sự thiết yếu của môn giải thích học, bởi lẽ các mục sư bây giờ phải dựa vào sự hiểu biết của chính mình, chứ không như trước dựa vào lối chú giải được Giáo Hội (La Mã) công bố và xác định. Trong quãng thời gian 1ừ 1720 đến 1820, ta thấy rất nhiều tác phẩm liên quan tới thông diễn học[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn2"][FONT=Arial][SIZE=4][2][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4].Nhưng nói chung, ta phải đợi tới thời Schleiermacher, mới thấy một nền giải thích học tương đối hệ thống và đầy đủ. Tại Anh, môn giải thích học cũng phát triển. Năm 1737 ta thấy xuất hiện trong bộ từ điển của Đại họcOxford một số câu liên quan tới thông diễn học. Nhưng tiếng thông diễn họcđược người Anh sử dụng một cách quảng bác hơn, áp dụng vào trong thế giới văn chương để giải thích những câu văn tối tăm khó hiểu.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Nói tóm lại, từ thông diễn họcđã thấy vào thế kỷ thứ 17, và mang ý nghĩa như là một sự giải thích, chuyển nghĩa (interpretation) theo một hệ thống của ngữ học, sử học và thế giới sống cũng như kinh nghiệm tôn giáo. Lối thông diễn họcnày được áp dụng để giải thích [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I], cũng như những văn bản thuộc lãnh vực linh thiêng (sacred) khác.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B][I]- Truyền [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]hống [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]u [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]ừ [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ọc hay [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]ruy [/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]guyên [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ọc[/I][/B][B](philology) [I]và [/I][/B][B][I]p[/I][/B][B][I]hương [/I][/B][B][I]p[/I][/B][B][I]háp [/I][/B][B][I]g[/I][/B][B][I]iải [/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]gữ [/I][/B][B][I]c[/I][/B][B][I]hung[/I][/B][B] (General Philological Methodology)[/B][/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Sự phát triển nền triết học duy lý sau Descartes đã cổ võ triết học thoát ly khỏi hấp lực của thần học, và các nền đại học khỏi ảnh hưởng của các Giáo hội. Cùng với triết học duy lý, cùng với những suy tư mới dám phê bình nền học cũ[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn3"][FONT=Arial][SIZE=4][3][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4],các nền khoa học khác như tâm lý học, và nhất là ngữ học bắt đầu xuất hiện. Môn tu từ học (philology) nhắm đến một sự hiểu biết ngôn ngữ từ khía cạnh văn phạm cũng như từ quá trình phát triển, tức lịch sử của ngôn ngữ (theo nghĩa này, tu từ học cũng là truy nguyên học). Những người chủ trương như vậy, cho rằng “ý nghĩa câu nói trong [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I]thực ra phải được xác định y hệt như cách thế chúng ta xác định ý nghĩa của ngôn ngữ trong các loại sách khác.”[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn4"][FONT=Arial][SIZE=4][4][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Từ đây ta nhận ra ba đặc tính của lối giải thích theo tu từ học: Thứ nhất, nguyên lý lý trí hướng dẩn sự hiểu biết. Bởi lẽ những dữ kiện lịch sử chỉ có thể hiểu được nhờ vào ánh sáng của lý trí. Và theo nguyên lý này, người giải thích tức là người[I]lý giải[/I]. Họ phải đi sâu vào trong văn bản, lấy lý trí như là một công cụ để tìm ra trong những văn bản đó những sự thật đạo lý mà các tác giả [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I], đặc biệt [I]Tân Ước[/I][/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn5"][FONT=Arial][SIZE=4][5][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]muốn giải bầy qua những sự kiện lịch sử, hay qua những từ ngữ khác biệt. Thứ tới, những nhà giải thích cần phải phát triển một sự thông hiểu lịch sử (historical understanding) theo cách hiểu của Hegel sau này. Theo Hegel trong những tác phẩm về lịch sử ([I]Geschichte der Philosophie[/I], và [I]Philosophie der Geschichte[/I]), thì lịch sử vốn theo một con đường thẳng của lý trí, nhưng phát triển theo lối biện chứng, và tiến về chung điểm tuyệt đối tức chính lý trí tự thân ([I]Phaenomenologie des Geistes[/I], 1807). Chính vì vậy, để có thể hiểu được lịch sử, ta cần phải nắm vững được quy luật (logic) của lịch sử, tức cái luật xuất hiện của lý trí ([I]Logik der Wissenschaft[/I])[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn6"][FONT=Arial][SIZE=4][6][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4].Nói cách khác, đó chính là một sự hiểu thấu suốt, và thông suốt tất cả quy luật của lịch sử, tức nắm được cái tinh thần của lịch sử (Geist der Geschichte) nằm sâu trong, và ở đằng sau các hiện tượng. Thứ ba, họ điêu luyện một kỹ thuật giải thích bao gồm phân tích văn phạm, khảo chứng những dữ kiện lịch sử, đào sâu vào bối cảnh lịch sử của những dữ kiện và ngôn ngữ. Nói tóm lại, theo phương pháp tu từ học, nhiệm vụ chính của người giải thích cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của một sử gia[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn7"][FONT=Arial][SIZE=4][7][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4].Và đây là lý do chính yếu tại sao người ta đồng nghĩa môn giải thích học với môn tu từ học cổ điển (classical philology).[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B][I]- Khoa [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ọc về [/I][/B][B][I]s[/I][/B][B][I]ự [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]iểu [/I][/B][B][I]b[/I][/B][B][I]iết [/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]gôn [/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]gữ[/I][/B][B](Linguistic Understanding)[/B][/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Từ một môn tu từ học như thế, Schleiermacher tìm cách tổng hợp với lối giải thích [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I]. Nhà thần học này chủ trương giải thích mang tính chất khoa học. Theo ngôn ngữ của ông, đó là một nền khoa học giải thích. Nói rõ hơn, ông muốn phát triển thông diễn họcthành một nền khoa học và một nghệ thuật của sự hiểu biết tức [I]lý hội và giác ngộ[/I] (hay [I]lý ngộ[/I]). Nền khoa học - nghệ thuật [I]lý ngộ[/I] này có những đặc tính sau: (1) Schleiermacher mạnh mẽ phê bình tính chất bất túc của phương pháp tu từ học. Lý ngộ hay một sự hiểu biết trọn vẹn, bao gồm hay công năng của lý trí (hiểu biết dựa trên quy luật của lý trí), và của trực giác (tức sự hiểu biét dựa trên chính cuộc sống). Nhưvậy, lý hội bắt buộc phải vượt khỏi lối giải thích dựa trên những quy luật của ngôn ngữ, bởi lẽ quy luật ngôn ngữ chỉ phản ánh một phần nào của cuộc sống mà thôi. (2) Thứ tới, để hiểu trọn vẹn, giống như Hegel, Schleiermacher đòi ta phải nắm được toàn bộ hệ thống, tức một nền khoa học mang hai tính chất thiết yếu và phổ biến. Chỉ như vậy, lý ngộ mới có thể làm nền tảng cho tất cả mọi đối thoại. (3) Theo những nguyên lý trên, Schleiermacher đã biến đổi môn giải thích ngôn ngữ cách chung (philological hermeneutics) thành một nền thông diễn học tổng quát (allgemeine Hermeneutik). Theo đó, chính vì ngôn ngữ chỉ là một sự phản ánh của thế giới sống, ta bắt buộc phải trực tiếp đi vào chính cái thế sinh của con người, mới có thể có được một sự thông hiểu trọn vẹn. [/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B]- [I]Truyền [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]hống [/I][/B][B][I]k[/I][/B][B][I]hoa [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ọc [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]inh [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]hần[/I][/B][B](Geisteswissenschaft)[/B][/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn8"][FONT=Arial][SIZE=4][8][/SIZE][/FONT][/URL][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Việc Schleiermacher biến thông diễn học tổng quát thành một nền [I]khoa học lý ngộ[/I] đã gây ra một ảnh hưởng sâu rộng tới sự phát sinh ra nền[I]khoa học tinh thần[/I] (Geiteswissenschaft). Như đã giới thiệu một cách sơ sài trong phần dẫn nhập, Wilhelm Dilthey, đồ đệ và là người viết lịch sử về Schleiermacher, đã trực giác ra tầm quan trọng trong phát minh của thầy mình. Ông tiến xa hơn một bước nữa, phát triển thông diễn họcthành nền tảng của tất cả mọi nền khoa học tinh thần. Nền khoa học tinh thần này nhắm nghiên cứu tất cả mọi bộ môn (disciplines) liên quan đến sự hiểu biết về nghệ thuật, hành vi, tác động cũng như văn bản và chính tác giả. Thế nên, Dilthey chủ trương: (1) Ta cần phải nắm vững được một sự thông hiểu lịch sử, bởi lẽ chỉ khi thông hiểu lịch sử ta mới chắc chắn hiểu cái ý nghĩa của pháp luật, của những tác phẩm văn chương, những kinh điển cũng như nền văn học tôn giáo. (2) Thứ tới, sự thông hiểu lịch sử khác với sự hiểu biết về thế giới tự nhiên. Nếu, ta có thể hiểu được ngoại vật nhờ vào phương pháp phân tích số lượng của hiện tượng (quantification)– như thấy nơi phương pháp của Pierre Bayle–hay nắm được trật tự cũng như phương hướng phát hiện của các hiện tượng (như trong nền khoa học cơ khí của Isaac Newton), thì sự thông hiểu lịch sử phải theo một đường hướng khác. Bởi lẽ, thông hiểu là một hành vi của chủ thể, mang tính cách cá nhân đương tham dự vào quá trình lịch sử. Chủ thể không có đứng bên lề, hay bên ngoài để quan sát sự vật như nhà khoa học tự nhiên. Và chủ thể khi nhìn lịch sử, đương áp dụng chính những phương thế của con người, gắn liền với chính chủ thể. (3) Đây là lý do chính yếu, Dilthey muốn đảo lộn lại lối nhìn của Kant, theo đó (Kant) điều mà chủ thể có thể làm được chỉ là sắp xếp lại những dữ kiện theo quy luật tiên nghiệm của thiên nhiên. Nếu Kant đã thành công trong việc phê phán lý trí khi áp dụng vào khoa học tự nhiên ([I]Critique of pure [/I][I]r[/I][I]eason[/I]), thì Dilthey nghĩ rằng, ta cần một chương trình mới nhắm phê phán cái lý trí lịch sử (critique of historical reason). (4) Từ một lối nhìn như vậy, Dilthey nhận ra vai trò quan trọng của tâm lý học. Tuy không thành công trong việc biến đổi tâm lý học thành một nền khoa học lịch sử, Dilthey đã có công trong công việc dựa trên một nền tảng lịch sử và mang nhân tính để xây dựng một phương pháp luận đặt nền móng cho nền khoa học tinh thần.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4]- [I]Truyền thống phân tích hiện tượng và giác ngộ hiện sinh[/I] (Phenomenological Analysis of Existence and Existential Understanding)[/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] Như độc giả sẽ thấy trong phần tới khi bàn về phương pháp hiện tượng học và thông diễn học, thông diễn họcthực ra chỉ là một bộ phận rất quan trọng của hiện tượng học. Trong tác phẩm bất hủ [I]Hữu thể và thời gian[/I] ([I]Sein und Zeit[/I], 1927), Heidegger đã từng nói tới một nền thông diễn học về Hiện thể (hermeneutic of Dasein). Heidegger đưa ra một lối nhìn hoàn toàn mới lạ về thông diễn học. Theo ông, thông diễn họckhông phải là phương pháp, hay những quy luật, hay những điều kiện để giải thích, cũng không phải là một phương pháp luận như thấy trong nền khoa học tinh thần của Dilthey. thông diễn họclà một sự diễn giải hiện tượng học về chính sự hiện hữu của con người. Thế nên, sự thông hiểu cũng như sự thông diễn (interpretation) là những kiểu diễn tả, biểu tả và hiện hữu của chính hữu thể (con người). Nói một cách khác, thông diễn họclà một nền bản thể học về sự hiểu biết (ontology of understanding), qua chính việc làm hiện thể (Dasein) tự xuất hiện trong những phương cách đặc thù của nó. Theo lối hiểu này, thông diễn họcđồng lúc là một phương pháp tự khai mở cũng như một bản chất của hiện thể.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Lối nhìn của Heidegger được Gadamer chia sẻ, và phát triển trong tác phẩm [I]Chân lý và phương pháp[/I] ([I]Wahrheit und Method[/I], 1960) mà chúng tôi đã phác họa sơ qua trong các đoạn trên, cũng như sẽ bàn tới một cách chi tiết hơn trong chương thứ ba. Trong tác phẩm nền tảng của thông diễn họcnày, Gadamer trình bày sự khám phá thông diễn họcmang một tính chất cách mạng trong nền bản thể học của Heidegger. Mục đích chính của [I]Chân lý và phương pháp[/I] không phải là một nghiên cứu trình bày lịch sử thông diễn họcnhư nhiều người lầm tưởng, mặc dù Gadamer đã lướt qua quá trình lịch sử của thông diễn họctừ thời Schleiermacher, qua Dilthey và tới Heidegger. Ta thấy, qua tác phẩm này, Gadamer muốn nối kết thông diễn họcvới thẩm mỹ học, và nhất là với một nền triết học của lối thông hiểu mang tính chất lịch sử. Và như vậy ta thấy Gadamer đã cố gắng tổng hợp nền triết học lịch sử của Hegel với nền bản thể học của Heidegger, để tạo ra lối suy tư thông diễn. Nói cách khác, Gadamer nối kết ý thức lịch sử đương tác động (historically operative consciousness) với tất cả cuộc sống từng được truyền lại và tiếp tục qua truyền thống và thấy trong khát vọng của con người. Chúng hiển hiện trong văn bản (textes). Từ đây, Gadamer đi thêm một bước xa hơn Heidegger, khi ông bản thể hóa ngôn ngữ “Hữu thể chỉ có thể hiểu được nếu là ngôn ngữ”. Khi nhận định rằng, thực tại con người mang những đặc tính ngôn ngữ, nền thông diễn họccủa ông đã biến phương pháp thông diễn thành một nền triết học, mà trong đó sự tương quan giữa ngôn ngữ và hữu thể, giữa ngôn ngữ và sự thông hiểu, giữa ngôn ngữ và lịch sử, giữa hiện sinh và thực thể luôn mang một tính chất biện chứng. Như vậy, thông diễn họcđược coi như trọng điểm của những vấn đề triết học thời nay vậy.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B][I]- Thông [/I][/B][B][I]d[/I][/B][B][I]iễn [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ọc như là [/I][/B][B][I]m[/I][/B][B][I]ột [/I][/B][B][I]h[/I][/B][B][I]ệ [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]hống [/I][/B][B][I]g[/I][/B][B][I]iải [/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]ghĩa [/I][/B][B][I]đ[/I][/B][B][I]ể [/I][/B][B][I]t[/I][/B][B][I]ìm [/I][/B][B][I]l[/I][/B][B][I]ại [/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]hững [/I][/B][B][I]ý[/I][/B][B][I]n[/I][/B][B][I]ghĩa [/I][/B][B][I]đ[/I][/B][B][I]ã [/I][/B][B][I]m[/I][/B][B][I]ất.[/I][/B][/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Trong truyền thống của Tân giáo (đạo Tin Lành), và bị ảnh hưởng của khoa học, ta thấy rằng nhiều nhà giải thích văn bản, nhất là [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I]đã phản đối lối giải thích đa nghĩa. Họ cho rằng, mỗi câu nói chỉ mang một ý nghĩa duy nhất (iconoclasm). Nhưng ý nhĩa trung thực nhất phải được chứng minh qua những dữ kiện, bằng chứng khoa học, hay qua ngữ học vào thời mà câu nói thịnh hành. Thành thử, tất cả những ý nghĩa khác gắn vào, hay được giải thích theo các nền văn hóa đều sai lầm.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Lẽ tất nhiên, một chủ trương như vậy không chỉ làm nghèo ngôn ngữ. Nó phát sinh từmột ảo tưởng cho rằng thế giới bất dịch, cuộc sống bất động, và con người bất biến. Nếu quả thế giới con người không biến đổi, thì một chủ trương như vậy có lẽ có cái lý của nó. Nhưng lịch sử con người chứng minh, ít nhất theo lối nhìn của Hegel, và của thuyết tiến hóa (Darwin), chứ đừng nói tới truyền thống dịch lý của đông phương, thế giới luôn trong tình trạng biến động.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Paul Ricoeur ý thức được sự thật này khi ông đề nghị trong tác phẩm [I]De l’interprétation[/I] ([I]Về [/I][I]t[/I][I]hông [/I][I]d[/I][I]iễn[/I])(1965) một lối diễn giải đa nghĩa. Đối với ông, bất cứ một văn bản nào cũng nói ra những điểm chung, cũng như, cùng một lúc, những điểm cá biệt. Giống như phân tâm học nhắm giải nghĩa những giấc mộng, thông diễn họcnhắm giải thích những điều tiềm ẩn trong văn bản. Thế nên, đối với Ricoeur, giấc mộng cũng là một văn bản, y hệt như những tín hiệu (signal), dấu hiệu (sign), biểu tượng (symbol), vân vân. Theo lối nhìn này, Ricoeur đinh nghĩa thông diễn họcnhư là “một quá trình mở mật mã (deciphering), đi từ những ý nghĩa hiển nhiên tới những ý nghĩa thầm kín”[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn9"][FONT=Arial][SIZE=4][9][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]vốn thấy trong nội dung của văn bản, giấc mơ, câu nói…[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] Nhưng để mở được mật mã, và để làm cho cái ý nghĩa thầm kín xuất hiện, ta cần một phương pháp tương tự như phương pháp của phân tâm học. Nếu phân tâm học phân biệt ý thức (consciousness) khỏi tiềm thức (subconsciousness), thì Ricoeur đề nghị phân biệt những biểu tượng nhất nghĩa (univocal) khỏi những biểu tượng đa nghĩa hàm hồ (equivocal). Biểu tượng nhất nghĩa là những dấu hiệu chỉ ra ý nghĩa. Nó đồng nhất với ý nghĩa. Thế nên biểu tượng nhất nghĩa này được áp dụng vào luận lý (logic) như trường hợp luận lý biểu tượng (symbolic logic). Thông diễn họctập trung vào biều tượng đa nghĩa, vì chúng cần phải được giải thích. Nơi đây, thông diễn họcluôn phải đối diện với văn bản mang nhiều ý nghĩa cùng một lúc. Tuy đa nghĩa, và khác nhau, chúng có thể cấu tạo thành một đơn vị ngữ ý (semantic unity) và tạo ra một ý nghĩa chung, nhưng đồng thời cũng chỉ ra một ý nghĩa khác sâu đậm và xa hơn. Đây là trường hợp của những huyền hoại, thần thoại hay nhân thoại (myths). Hiểu như vậy, Ricoeur coi thông diễn họckhông chỉ là một phương pháp, mà còn là một hệ thống mà qua đó cái ý nghĩa thâm sâu, thầm kín có thể hiển hiện ra.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] Như chúng tôi sẽ bàn sâu hơn về nền thông diễn họccủa Ricoeur trong chương hai, nơi đây xin tạm tóm lại quan điểm của Ricoeur về thông diễn học. Nếu thông diễn họclà một hệ thống đào bới những ý nghĩa (nổi cũng như chìm, gần cũng như xa), và nếu sự đào bới ý nghĩa giống như phân tâm học, khiến bệnh nhân tự phát hiện những thực tại bị đè nén, dồn ép, và bị lãng quên, thì ta thấy có hai loại thông diễn học: (1) Ta có thể áp dụng lối “[I]phá vỡ[/I] thần thoại tính” (demythologizing) của nhà thần học Rudolf Bultmann. Theo lối [I]phá vỡ[/I] tính chất huyền thoại này, người ta có thể vất bỏ những đặc tinh huyền bí của huyền thoại, và tìm ra cái còn lại, đó chính là ý nghĩa đích thực mà ta muốn tìm. (2) Ta cũng có thể “[I]hủy bỏ[/I] thần thoại” (demystification), tức không coi những biểu tượng trong thần thoại là một thực thể. Lối nhìn “duy lý” này coi huyền thoại như là những cái mặt nạ giả dối, hay tượng trưng cho những ảo tưởng không hề có. Theo Ricoeur, Marx, Nietzsche và Freud đại diện cho khuynh hướng thứ hai. Họ coi những thực tại biểu hiện trên mặt (surface reality) là giả dối, và họ tìm cách xây dựng những hệ thống tư tưởng mới để [I]hủy bỏ[/I] cái loại thực tại mà chúng ta vốn cho là lẽ tất nhiên này.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Chính vì thế mà Ricoeur quả quyết là trong thông diễn họcchúng ta không thể có những quy tắc giải nghĩa có tính chất phổ biến và tất yếu. Nếu chúng ta có những quy luật giải thích, thì chúng chỉ là những quy luật cá biệt, và nhiều khi đối chọi nhau mà thôi.[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn10"][FONT=Arial][SIZE=4][10][/SIZE][/FONT][/URL][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B]4[/B][B]. Ý[/B][B]n[/B][B]ghĩa và [/B][B]m[/B][B]ục [/B][B]đ[/B][B]ích của [/B][B]t[/B][B]hông [/B][B]d[/B][B]iễn [/B][B]h[/B][B]ọc[/B][/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Nếu chúng ta không thể có một định nghĩa chung về thông diễn học, điều này không có nghĩa là nó phản khoa học. Ngược lại, sự kiện này nói lên sự hạn hẹp của lối hiểu biết khoa học của con người. Người ta đã hạn hẹp khoa học vào trong những phạm trù cố định. Người ta đã phán đoán khoa học theo một số phương pháp cứng nhắc (thí dụ phương pháp thực nghiệm, hay thí nghiệm thấy nơi Bacon và những người theo ông, hay phương pháp phân tích thấy nơi đồ đệ của Descartes). Chúng ta quên đi sự kiện quá hiển nhiên, đó là ngay cả khoa học cũng cần phải được hiểu biết.[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn11"][FONT=Arial][SIZE=4][11][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Vậy nên, khi mà thông diễn họckhông có một định nghĩa duy nhất, khi mà mỗi triết gia đều có những lối nhìn không hoàn toàn giống nhau về thông diễn học, điều này chỉ nói lên được một sự kiện: đó là thông diễn họcvà sự hiểu biết của con người gắn liền với nhau. Bởi lẽ, sự hiểu biết của chúng ta được nuôi, và phát triển trong chính cuộc sống, trong cái thế giới sống, trong cái nôi văn hóa và ngôn ngữ, trong cái cảm tính tất nhiên của con người nói chung, và con người của một xã hội cá biệt nói riêng. Nhưng nếu hiểu thông diễn họcgắn liền với cuộc sống, và nếu ta chủ trương cuộc sống cá biệt, khác biệt thì rất có thể là chúng ta đương sa vào cái vũng lầy ngụy biện, hay rơi vào vào cái hố thẳm của chủ thuyết tương đối, hay tự xây cho mình cái tháp Babel. Bởi lẽ không ai có thể hiểu được nhau khi mà cuộc sống của chúng ta hoàn toàn khác nhau, khi mà ngôn ngữ khác biệt, khi mà chúng ta không có một cảm tính chung, và khi mà chúng ta từ chối vai trò của lý trí.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Thực ra, thông diễn họckhông có chủ trương như vậy. Thông diễn họcnhận định, tuy hiểu biết gắn liền với cuộc sống, nhưng cuộc sống của con người tuy có những khác biệt, vẫn có những tương đồng, có những điểm chung mà không ai có thể chối bỏ được. Trong đoạn này, chúng tôi muốn nói đến những điểm chung làm nền tảng cho thông diễn học, tức giúp chúng ta đi đến một sự hiểu biết, một hội thông. Đây mới là mục đích chính của thông diễn học.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]- Thứ nhất,[I]thông diễn học[/I][I]bắt đầu với chủ thể[/I]. Chính con người như chủ thể đương tìm cách hiểu thế giới, ngoại vật và tha nhân. Và ngay cả tha nhân, như một chủ thể, cũng đương tìm cách hiểu những khách thể (không phải là chủ thể). Do đó, tương thông là một hành động, một lối tư duy, cũng như một sự hiểu biết lẫn nhau của những chủ thể. Một sự vật không thể hiểu sự vật khác, cũng không thể hiểu chúng ta, bởi lẽ nó không phải là chủ thể. Từ đây, chúng ta mới có thể hiểu tại sao thông diễn họcnhư là một nền khoa học về hiểu biết phải là chính cái nền tảng của nền khoa học tinh thần (Dilthey), tức đặt trên những [I]cộng tính[/I] của nhiều chủ thể.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Thứ hai, thông diễn họccó thể được phát triển theo hai câu hỏi: “Làm sao ta có thể hiểu?” và “Bản chất của sự hiểu biết tự nó là gì?”[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn12"][FONT=Arial][SIZE=4][12][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Đi tìm câu trả lời cho mỗi câu hỏi, tức là phát triển thông diễn họctheo những chiều hướng khác nhau. Nếu ta tập trung vào câu hỏi thứ nhất, như trường hợp Betti và E. D. Hirsch[/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftn13"][FONT=Arial][SIZE=4][13][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4],thông diễn họcsẽ đi theo hướng phương pháp khoa học theo nghĩa thông thường, tức đi tìm những nguyên tắc, điều kiện và giới hạn để xây dựng một tầm hiểu biết khách quan. Nhưng nếu chúng ta đặt trọng tâm vào câu hỏi thứ hai, về chính bản chất của sự hiểu biết, thì thông diễn họcsẽ phát triển thành một nền bản thể học như thấy trong triết học thông diễn của Gadamer.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Thứ ba, hiểu biết đòi hỏi một sự hiểu thấu suốt, biết trọn vẹn. Nói cách khác, một sự hiểu biết như vậy phải là một sự thông hiểu. Thế nên thông diễn họcluôn đặt mọi vấn đề trong cái toàn thể. Mà cái toàn thể quả là phức tạp, vĩ mô, và nhất là đương trong tình trạng phát triển (biến dịch) không ngừng. Thế nên, thông diễn họckhông bao giờ dám tự cho mình cái độc quyền nắm giữ, hiểu biết và định đoạt sự vật, nhất là con người. Husserl thẳng thắn phê bình chủ nghĩa duy tâm lý (psychologism) vào thời của ông (chứ không phải phản đối khoa học tâm lý), bởi lẽ ông nhìn ra [I]sự bất lực của bất cứ nền tâm lý học nào chỉ dựa vào khoa học tự nhiên[/I]. Tương tự, sự việc ông nhận ra sự khủng hoảng của nền khoa học hiện đại đã giúp nhiều khoa học và triết gia đặt lại chính cái bản tính của khoa học (như trường hợp của phái hậu hiện đại).[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Thứ tư, tuy các nhà thông diễn học có vẻ “mỗi người mỗi sắc”, nhưng không có ai “mười phân vẹn mười.” Thực ra, các lý thuyết của họ bổ túc cho nhau. Sự đòi hỏi tính chất khách quan của hiểu biết nơi nền thông diễn họccủa Betti không có phủ định vai trò của mỗi chủ thể trong nền thông diễn của Gadamer. Ngược lại, những phê bình của Betti đã giúp Gadamer và những người theo sau đi tìm một nền tảng chung cho mọi chủ thể, tức đi tìm tính chất chung (cộng tính) cho mọi chủ thể. Tương tự, nền thông diễn họccủa Gadamer cũng bổ túc cho nền thông diễn của Betti cái bản thể mà Betti không để ý tới. Làm sao mà chúng ta có thể tách rời sự hiểu biết khỏi chính chủ thể, khỏi chính cuộc sống? Trong cuộc tranh luận giữa Gadamer và Habermas, ta cũng thấy những bổ túc tương tự. Sự phê bình truyền thống cũng như các giá trị phát sinh trong ý hệ, không có gạt bỏ cái giá trị của nền thông diễn họccủa Gadamer. Ngược lại, nó càng làm ta chú ý tới vai trò của ý hệ trong công việc hiểu biết nền văn hóa của các dân tộc. Ý hệ có thể bóp méo sự hiểu biết, nhưng ý hệ cũng là một tấm gương của thượng tầng kiến trúc phản ánh cái hạ tầng căn bản của cuộc sống con người.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Thứ năm, những điểm chung hay những bản chất chung nơi con người, nơi xã hội con người, và nơi thế giới sống đã được khai quật một cách rất cặn kẽ, và tạo thành nền triết học của thế kỷ thứ 20, đồng thời cũng ảnh hưởng tới nền triết học hiện nay. Nếu Gadamer đào sâu trong bản tính con người để tìm ra những bản chất, thí dụ cộng cảm (sensus communis), cộng thể (ontological essence), thì Habermas đào bới những điều kiện “tiên nghiệm mang tính chất thực hành” (universal pragmatics) để có thể làm điều kiện cho cộng thông (communication), cộng hoạt (communicative action). Nếu Betti chủ trương ngôn ngữ khách quan (objective language), hình thức cảm quan chung (sensible form) cho mỗi người, thì Ricoeur muốn nhấn mạnh tới vai trò của mỗi người trong tác động (acts) và sinh hoạt (life) thông diễn. Mỗi độc giả đều tham dự vào quá trình tái tạo sự hiểu biết.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Từ đây ta nhận ra được sự đóng góp quan trọng của thông diễn học. Nó nhắm vào chính sự hiểu biết, tức nhắm vào chính cuộc sống con người trong cái toàn thể, và nó giúp chúng ta hiểu biết con người hơn. Từ đây, chúng ta có thể hiểu được những cái gì mà cha ông chúng ta truyền lại, tức những giá trị văn hóa, đạo đức. Từ đây chúng ta mới thấy được cái công năng, sự biến hóa cũng như lối cấu tạo của ngôn ngữ. Và từ đây chúng ta hiểu được, sự hiểu biết của chúng ta luôn gắn chặt với lịch sử, với ý hệ, với những nghịch lý, và với cả những dự phóng về tương lai, điều mà Ricoeur nhấn mạnh khi ông khám phá ra sự liên hệ giứa ý thức con người và ý thức về một thế giới về sau (eschaton).[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B]Tạm [/B][B]k[/B][B]ết[/B][/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Trong chương thứ nhất này, chúng tôi đã giới thiệu một cách rất [I]tổng quát[/I] thông diễn họctrong quá trình diễn biến. Chúng tôi cũng tạm đưa ra sáu lối hiểu (định nghĩa) khác nhau về thông diễn học. Và chúng tôi đã giải thích lý do tại sao thông diễn họcphức tạp, tại sao chúng ta không thể có những định nghĩa chính xác, tại sao mỗi triết gia đều có những chủ trương riêng.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Nơi đây, chúng tôi chỉ xin lặp lại và nhấn mạnh một cách đặc biệt tới một lý do rất đơn giản, nhưng tối quan trọng: thông diễn họclà một sự hiểu biết [I]về chính cuộc sống, về thế giới sống, về tất cả những yếu tính liên quan tới sự sống[/I]. Chính vì thế, một nền thông diễn họcđầy đủ bắt buộc phải nhìn ra cái [I]toàn thể[/I] của cuộc sống. Đồng thời nó phải đào sâu vào [I]mỗi khía cạnh của cuộc sống[/I], của cái toàn thể. Bây giờ ta có thể hiểu được, khi Dilthey cho rằng thông diễn họclà nền tảng của nền Khoa học Tinh thần, ông muốn nói đến nền khoa học con người, tới nền tảng nhân văn (humanities) tức cái truyền thống hàng ngàn năm của nhân loại. Khi Gadamer chủ trương vai trò của chủ thể trong sự hiểu biết, khi ông nhấn mạnh tới cái mà ông gọi là “vòng thông diễn” (hermeneutical circle), tới cái nền tảng của sự hiểu biết chung nơi con người gắn lền với tình cảm chung nơi mọi người(tức cộng cảm), ông đã nói lên được bản tính con người (human nature), cách sống, cách hiểu, cách cảm (tình) của họ. Tương tự, thầy của ông, nhà triết gia đại tài Heidegger, cũng đã gắn liền bản thể với cái cội nguồn của sự sống. Sự phân tích hiện tượng về hiện thể (phenomenology of Dasein) của ông cũng là một lối thông diễn cách thế sống, cách thế hiểu của con người mà thôi.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Bằng cách gắn liền thông diễn họcvới sự sống con người, chúng ta nhận ra thông diễn họcchỉ là một sự tiếp nối, hoàn bị và mở rộng tất cả quá trình diễn tiến của lịch sử con người và lịch sử triết học. Khi mà Socrates đòi các nhà ngụy biện phải trở lại con người, khi mà Plato nhận thức được sự thiết yếu của một nền triết lý thực hành không chỉ xây trên lý hình (tức quan niệm thuần túy), khi mà Aristotle khám phá ra được nền triết lý thuần túy không thể tách biệt khỏi nền triết học thực hành (qua phân tích về quan niệm phronesis)… các triết gia Hy lạp đã nhận ra rằng, sự hiểu biết về thế giới đòi buộc một sự hiểu biết về con người, mà một sự hiểu biết về con người chỉ có thể có được trong cuộc sống sinh động, qua ngôn ngữ, qua cảm tình, qua thế giới thẩm mỹ, qua khát vọng[I]tông giáo[/I], qua hy vọng về tương lai và qua sinh hoạt chính trị và kinh tế của chúng ta.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Tương tự, chúng ta cũng thấy một lối nhìn như vậy nơi các nền văn hóa nhân loại. Triết học Nho gia chỉ có thể hiểu được trong những khía cạnh liên quan tới sự sống con người. Khổng Tử đặt nặng vấn đề lễ nghĩa, nhân nghĩa, trung nghĩa và nhất là hiếu đễ [I]không phải[/I] vì ngài [I]lệ[/I] [I]nghĩa[/I] (giống như các pháp gia [I]lệ[/I] [I]pháp[/I] sau này), nhưng vì ngài [I]thấu hiểu[/I] được rằng, ta chỉ có thể hiểu được con người một khi giải quyết được những vấn nạn của con người. Và để hiểu con người, ta cần phải nắm vững được tất cả cơ cấu (tức cái toàn thể) của cuộc sống: con người tổ chức như sao, hợp quần như thế nào, làm thế nào để bảo tồn xã hội, bảo tồn cái cơ cấu… Nói tóm lại, làm thế nào để bảo tồn sự sống còn của nhân loại. Nền triết học của Đạo giáo, tuy khác biệt trong cách thế giải quyết vấn đề, cũng có những lối nhìn tương tự. Truyền thống[I]Dịch[/I] cho tới truyền thống [I]Đạo [/I]đều chú trọng tới cái toàn thể (hay “chủ toàn”, theo ngôn ngữ của Cao Xuân Huy). Con người, sự sống… chỉ có thể hiểu được trong cái toàn thể mà chúng ta gọi là [I]Tam Tài[/I], hay người Nhật gọi là [I]Tam Cực[/I]. (Tam tài hay tam cực đều phát xuất từ quan niệm Vạn Vật Nhất Thể). Sự sống chỉ có thể có khi mà tất cả mọi bộ phận đều tương quan mật thiết với nhau, tạo thành cái vũ trụ nhân linh (tức Tam Tài): “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa.”[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] Nếu thông diễn họclà một nền khoa học về hiểu biết (Gadamer), về phương cách hiểu biết (Betti), về điều kiện hiểu biết (Habermas), về phương thế giúp hiểu biết (Schleiermacher, Hirsch), và về bản thể của hiểu biết (Heidegger), thì chúng ta phải công nhận là bất cứ nền triết học nào, bất cứ nền văn hóa nào cũng mang tính chất thông diễn. Thế nên, thông diễn họckhông phải chỉ áp dụng để chú giải [I]Thánh [/I][I]k[/I][I]inh[/I], để giải thích các đoạn văn kinh điển, để giải nghĩa những sự kiện hay truyền thống, mà còn phải giúp hiểu những vấn nạn không kém quan trọng, đó là: tại sao kinh điển, truyền thống, tập tục, văn hóa, ngôn ngữ… ảnh hưởng tới chúng ta, tới lịch sử con người? Tại sao chúng cấu tạo thành một bộ phận thân thiết trong cuộc sống? Tại sao chúng đồng nhất với văn hóa dân tộc, với những nền giá trị? Và tại sao chúng không thể tách rời khỏi văn hóa, khỏi nền giáo dục (tức đào tạo) con người? [/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [RIGHT][FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4]Trần Văn Đoàn[/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][I]([/I][I]Đại Học Quốc Gia Đài Loan[/I][I])[/I][/SIZE][/FONT][/FONT][/RIGHT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4][/SIZE][/FONT][FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Nguồn: [/SIZE][/FONT][URL="https://www.simonhoadalat.com/"][FONT=Arial][SIZE=4]https://www.simonhoadalat.com[/SIZE][/FONT][/URL][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4][/SIZE][/FONT][FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref1"][FONT=Arial][SIZE=4][1][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Xin tkh. Gerhard Ebeling, “Hermeneutik” trong [I]Die Religion in Geschichte und Gegenwart[/I], III (1959), ctr. 242-246, tr. 243; Pamer, tr. 34.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref2"][FONT=Arial][SIZE=4][2][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Ebeling, tr. 242; Palmer, tr. 34.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref3"][FONT=Arial][SIZE=4][3][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Thí dụ ngay trong thần học, ta cũng thấy một trường phái gọi là “phương pháp lịch sử-phê phán” (historical-critical method). Xin tkh. Hans-Joachim Kraus, [I]Geschcichte der historisch-kritischen Erforschung der Alten Testament von der Reformation bis zu Gegenwart[/I] (Neukirchen: Buchhandlung der Erziehungsvereins, 1956), Chương 3, ctr. 70-102; Palmer, tr. 38, chú thích 16. Baruch Spinoza trong tác phẩm [I]Về chính trị và thần học[/I], Tractatus theologico-politicus (1670) cũng nhận định tương tự khi ông viết: “Quy luật giải thích Thánh kinh phải theo nguyên lý của lý trí”. Trích từ Ebeling, sđd., tr. 245. Johannes Lessing, một người chủ trương thời Ánh sáng, trong tác phẩm [I]Über den Beweis des Geistes und der Kraft[/I] (1777), càng mạnh bạo hơn: “Những sự thật bất tất thấy trong lịch sử không bao giờ có thể được coi như những bằng chứng để chứng minh sự thật của lý trí.” (Zugefalling Geschichtswahrheiten koennen der Beweis von nothwendigen Vernunftswahrheiten nie werden.” Trích từ Kurt Froer, [I]Biblische Hermeneutik: Zur Schriftauslegung in Predigt und Unterricht[/I], tr. 26; Palmer, ctr. 38-39.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref4"][FONT=Arial][SIZE=4][4][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Johann August Ernesti, [I]Institutio interpretis Novi Testamenti[/I] (Leipzig: Weidmann, 1972); Trích từ Frederic W. Farrar, [I]History of Interpretation[/I] (Grand Rapids, Mich.: Baker Book House, 1961), tr. 402; Palmer, tr. 38.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref5"][FONT=Arial][SIZE=4][/SIZE][/FONT][/URL][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][5] Ngoài bốn tác giả: Thánh Mát-thêu (Mattheus), thánh Mác-cô (Marcus), thánh Lu-ca (Luka), và thánh Gio-an (Ioannes), còn phải kể đến thánh Phao-lô (Paulus), thánh Phê-rõ (Petrus), thánh Phi-líp-pê (Phillipus) với những lá thư của các ngài gửi các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref6"][FONT=Arial][SIZE=4][6][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Về các tác phẩm của Hegel, chúng tôi dựa theo bộ: [I]Hegelswerke [/I]do K. Michel và E. Moldenhauer chb. (Frankfurt a. M. : Suhrkamp, 1970 vtth.). Riêng tập sách kinh điển [I]Phaenomenologie des Geistes[/I] đã được chúng tôi dịch qua Việt ngữ: [I]Luật Tinh [/I][I]thần qua Hiện [/I][I]tượng[/I](Washington, D.C.: Vietnam University Press, đương sửa soạn xuất bản).[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref7"][FONT=Arial][SIZE=4][7][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Chú ý là lối giải thích lịch sử của Giáo sư Kim Định ([I]Việt Lý Tố Nguyên[/I]), và nhất là của những học giảthế hệ trước như các cụ Phan Bội Châu ([I]Khổng Học Đăng[/I]), Trần Trọng Kim ([I]Nho Giáo[/I]), Bùi Kỷ (chú thích Truyện Kiều) theo phương pháp giải thích tu từ học này. Giáo sư Trần Quốc Vượng có lẽ thuộc về một số ít học giảkhông hẳn chỉ dựa vào tu từ học. Khi lý giải nguyên lý mẹ (ctr. 481-486), hay truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy (ctr. 296-301), giáo sư họ Trần đã áp dụng thông diễn một cách rất hay khi ông dựa trên thế giới sống của các thời đại, trên quátrình diễn biến, cũng như trên sự khác biệt giữa cách sống và lý thuyết. Xin tkh. Trần Quốc Vượng, [I]Văn [/I][I]hóa Việt Nam - Tìm [/I][I]tòi và [/I][I]suy [/I][I]ngẫm[/I](Hà Nội: Nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2000).[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref8"][FONT=Arial][SIZE=4][8][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Trong giới hàn lâm Đức, từ tinh thần (Geist) không mang nghĩa thần linh, hay quỷ thần, nhưng nói lên cái tinh túy của tư tưởng, cách sống, lối tổ chức, sự cảm thông, và nhậy cảm của dân tộc. Nói cách khác, chữ tinh thần gần với từ đạo, đạo lý, đạo giáo trong tư tưởng Viễn Đông. Chính vì vậy mà khi nói về khoa học tinh thần, ta thường hiểu tất cả những bộ môn khoa học thuộc nhân văn, xã hội. Tại vùng nói tiếng Đức, đã có một thời người ta gọi Đại họcVăn khoa, Xã hội, Nghệ thuật… là Đại họcKhoa học Tinh thần (Fakultaet der Geisteswissenschaft). Tại Đại họcVienna (Wien), nơi tôi từng dạy học một thời gian ngắn, Đại họcKhoa học Tinh thần được đổi tên lại là Đại họcKhoa học Căn bản (Fakultaet der Integralwissenschaft).[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref9"][FONT=Arial][SIZE=4][9][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Paul Ricoeur, [I]De L’Interprétation[/I], tr. 18; Palmer, tr. 43.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref10"][FONT=Arial][SIZE=4][10][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Ricoeur, [I]De l’interprétation[/I], tr. 35; Palmer, tr. 44.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref11"][FONT=Arial][SIZE=4][11][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Xtkh. Trần Văn Đoàn, [I]Reason, Rationality and Resonableness[/I] (New York - Lanham: The University Press of America, 1989; sec. ed. Washington, D.C.: The Council for Research in Values and Philosophy, 2001).[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref12"][FONT=Arial][SIZE=4][12][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] Palmer, tr. 66.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=413:tng-quan-v-thong-din-hc&Itemid=5#_ftnref13"][FONT=Arial][SIZE=4][13][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] E. D. Hirsch, [I]Validity in Interpretation[/I] (New Haven: Yale University Press, 1967).[/SIZE][/FONT][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
Tổng quan về thông diên học
Top