Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Vợ Nhặt - Kim Lân
Tổng hợp các đề văn về tác phẩm "Vợ nhặt" (Kim Lân)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 181566" data-attributes="member: 288054"><p><strong><span style="font-size: 18px">Đề 7 Có ý kiến cho rằng: Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt là xây dựng một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt để chứng minh ý kiến trên.</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Gợi ý trả lời:</em></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vợ nhặt là một tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân. Thành công của tác phẩm này một phần quyết định là do nhà văn đã sáng tạo được một tình huống độc đáo. Đó là tình huống một anh dân nghèo tên là Tràng, xấu trai, lại “nhặt" được vợ trong một vụ đói khủng khiếp ở miền Bắc nước ta vào tháng ba năm 1945.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">1. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và cả bản thân Tràng nữa, vì hai lí do:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Một là, một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh thường) xưa nay con cái không ai thèm để ý đến, vả lại cũng không có tiền cưới vợ, vậy mà lại tự dưng có vợ, lại là vợ theo hẳn hoi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hai là, giữa lúc đói kém này, người như Tràng, đến nuôi thân còn khó lại còn đèo bồng vợ với con. Cho nên khi Tràng và một người đàn bà lạ mặt về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác, không hiểu thế nào. Họ chưa thể nghĩ đấy là vợ anh ta và anh ta lại dám lấy vợ vào lúc này.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đây là đoạn đối thoại thì thầm của những người trong xóm khi nhìn theo Tràng và người đàn bà lạ:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Ai đấy nhi?... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>- Chả phải, từ ngày còn mồ mả ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>- Quái nhỉ?</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>Im một lúc, có người bỗng cười lên:</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>- Ơi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Họ cùng im lặng</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại còn ngạc nhiên hơn nữa khi trông thấy người đàn bà kia ở trong nhà với con mình: “Quái sao có người đàn bà ở trong ấy nhì?... Sao lại chào mình bằng u?... ơ hay, thế là thế nào”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đến ngay chính Tràng cũng ngạc nhiên: "Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đây ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phà tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng".</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Thậm chí sáng hôm sau ngày có vợ, anh ta vẫn chưa hết bàng hoàng: việc hắn có vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">2. Đây là một tình huống oái oăm, không biết nên vui hay buồn, không biết mừng hay lo. Mọi người đều có tâm trạng ấy, từ những người dân xóm ngụ cư đến chính Tràng nữa: "anh chàng cũng chợt nghĩ: thóc gạo này ngay cả đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đặc biệt là cụ Tứ với tâm trạng đầy mâu thuẫn vì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự”:một mặt cũng tủi vì gặp phải lúc đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, đồng thời lại rất lo vì: "biết chúng có nuôi nhau qua cơn đói khát này không”. “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này thương quá. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">3. Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Một là, không cần đến những lời kếi tội to mà vẫn tố cáo được tội ác của bọn phát xít Nhậi và tay sai của chúng đã gây ra nạn đói khủng khiếp 1945. Người dân lao động dường như không ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối phủ xuống mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị một con người thật rẻ rúng. Người ta có thể có vợ chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ. Đúng là “nhặt" được vợ như cách nói của tác giả.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Hai là, tâm trạng của bà mẹ nghèo thật tội nghiệp: không ai hiểu con, thương con và lo cho con bằng người mẹ, nhưng vì nghèo khổ nên thương con mà chẳng làm được gì cho con.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Ba là, người dân lao động, dù ở tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào cuộc sống và vẫn hi vọng ở tương lai. Giữa lúc đói kém, vợ chồng Tràng đã lấy nhau vì thế bà cụ Tứ tuy đầy lo lắng, nhưng niềm vui vẫn nở trên khuôn mặt. “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời", bà cụ tin như thế. Và bà cụ trở nên “nhẹ nhõm", tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa. "Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có khấm khá hơn.”</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Đó là ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Đề 8 Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn này.</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Gợi ý trả lời:</em></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Vợ nhặt kể chuyện một người nghèo “nhặt" được vợ trong năm đói. Tác phẩm được xây dựng theo diễn biến tâm lí của ba nhân vật chính xoay quanh cái tình huống khác thường đã gắn kết thân phận họ với nhau.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Giá trị hiện thực:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Qua truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã phản ánh tình cảnh khôn cùng của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 và xu hướng theo cách mạng của họ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>a) </strong>Hình ảnh xóm ngụ cư trong nạn đói, một cuộc sống mấp mé bờ vực cái chết “Người đói như những bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ, thây nằm cong queo bên đường, tiếng quạ, tiếng hờ khóc, mùi xác chết... ”</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>b) </strong>Trong tình cảnh đó, việc Tràng đưa người đàn bà đói về làm vợ khiến cái xóm làng và bà mẹ của anh ngạc nhiên, không dám tin mà cả chính anh cũng thầm lo âu “vì anh chỉ là người đẩy xe nghèo khó, nhà cũ rách nát”, “đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không”, người đàn bà vợ nhặt của Tràng, rách rưới, đói sắp chết sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc, theo về làm vợ một người đàn ông xa lạ như anh, trước hết chỉ để khỏi đói. Nhưng xem ra cái đói không thể trách khỏi: bữa đầu tiên của chị ở nhà chồng thật thảm hại, chẳng đủ cháo loãng để húp mà phải ăn cháo cám.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>c)</strong> Qua câu chuyện của ba mẹ con trong bữa ăn, bức tranh nông thôn miền Bắc ngày đói dần đã được mở rộng: “xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn", "đằng thì nó bất trồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này chưa chắc đã sống qua nổi”. Nhưng cũng có tin trên miệt Thái Nguyên, Bắc Giang người ta “không chịu đóng thuế nữa”, “còn phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo”. Truyện kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc ngày càng rõ rệt, đầy sức vẫy gọi trong tâm trí Tràng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Tóm lại, bằng những chi tiết về một ngày đời thường trong gia đình Tràng sau khi anh nhặt được vợ, Kim Lân đã phản ánh khái quát mà sinh động, đầy ám ảnh tình cảnh của đât nước năm đói lịch sử 1945, tố cáo tội ác kẻ thù thật mạnh mẽ mà không cần đao to búa lớn. Vợ nhặt được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, lại được tác giả sửa chữa, cho in sau ngày hòa bình lập lại. Kim Lân có điều kiện thể hiện được xu thế tất yếu của quần chúng lao khổ và hướng về ngọn cờ cách mạng, chỉ có cách mạng mới cứu họ thoát khỏi đói nghèo, chết chóc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">2.Giá trị nhân đạo:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trong truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã khám phá và thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người lao động: trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào họ vẫn yêu thương, cưu mang lẫn nhau và khát khao hi vọng ở tương lai hạnh phúc</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>a) </strong>Chuyện “nhặt" vợ, với Tràng, đầu tiên chỉ là đùa cợt, sau “chặc lưỡi", liều, nhưng rồi nhanh chóng nảy sinh tình nghĩa, một tình cảm "mới mẻ”, dịu dàng, gắn bó anh với người đàn bà ấy đem lại hạnh phúc, thăng hoa tâm hồn Tràng. "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người" thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn", “thấy có bổn phận lo cho vợ con sau này". Từ người đàn ông thô tháp đầu tác phẩm, Tràng như thành một người khác hẳn, với tình yêu và trách nhiệm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>b) </strong>Người đàn bà “vợ nhặt" của Tràng thoạt tiên chao chát, trơ trẽn, dám lấy Tràng chỉ vì đói. Thấy cảnh nhà túng quẩn của Tràng, chị không giấu nổi vài biểu hiện thất vọng thầm kín. Nhưng bù lại, chị cảm thấy tình cảm mà Tràng và bà mẹ dành cho mình, nên chị trở thành "người đàn bà hiền hậu, đúng mực", chăm lo cho tổ ấm mới của mình bằng sự vun vén khéo léo và tình yêu của người phụ nữ.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>c) </strong>Bà cụ thấy con mình mang về người “vợ nhặt” đã đi từ ngạc nhiên đến vừa mừng vừa tủi, vừa thương vừa lo lắng bằng tất cả trái tim của người mẹ yêu con, thương người đồng thời bằng những kinh nghiệm của người lao động nghèo từng trải. Nhưng niềm vui vẫn nhiều hơn, bà nói đến những ước mơ, dự định tương lai sáng sủa, động viên con trai và con dâu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">- Tóm lại, tình thương, sự thông cảm đã khiến những người xa lạ xích lại gần nhau, đùm bọc cưu mang lẫn nhau; mẹ - con, chồng - vợ thêm gắn bỏ trong hoàn cảnh khó khăn bi đát, vẫn còn đó đói nghèo nhưng tình thương khiến họ ấm áp hơn và thêm chỗ dựa, thêm sức mạnh để tin và hi vọng vào tương lai. Đây chính là tia sáng lên giữa cuộc sống tối tăm.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">3. Kết luận:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nguyên nhân cho thành công của Vợ nhặt “giá trị hiện thực và nhân đạo" là ở sự gắn bó, hiểu biết, lòng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với “đời” với “ người ”, với cái “thuần hậu nguyên thủy” của đời sống nông dân.</span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 181566, member: 288054"] [B][SIZE=5]Đề 7 Có ý kiến cho rằng: Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt là xây dựng một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt để chứng minh ý kiến trên.[/SIZE][/B] [SIZE=5] [B][I]Gợi ý trả lời:[/I][/B] Vợ nhặt là một tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân. Thành công của tác phẩm này một phần quyết định là do nhà văn đã sáng tạo được một tình huống độc đáo. Đó là tình huống một anh dân nghèo tên là Tràng, xấu trai, lại “nhặt" được vợ trong một vụ đói khủng khiếp ở miền Bắc nước ta vào tháng ba năm 1945. 1. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và cả bản thân Tràng nữa, vì hai lí do: Một là, một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh thường) xưa nay con cái không ai thèm để ý đến, vả lại cũng không có tiền cưới vợ, vậy mà lại tự dưng có vợ, lại là vợ theo hẳn hoi. Hai là, giữa lúc đói kém này, người như Tràng, đến nuôi thân còn khó lại còn đèo bồng vợ với con. Cho nên khi Tràng và một người đàn bà lạ mặt về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác, không hiểu thế nào. Họ chưa thể nghĩ đấy là vợ anh ta và anh ta lại dám lấy vợ vào lúc này. Đây là đoạn đối thoại thì thầm của những người trong xóm khi nhìn theo Tràng và người đàn bà lạ: [I]Ai đấy nhi?... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên[/I] [I]- Chả phải, từ ngày còn mồ mả ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.[/I] [I]- Quái nhỉ?[/I] [I]Im một lúc, có người bỗng cười lên:[/I] [I]- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.[/I] [I]- Ơi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?[/I] Họ cùng im lặng Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại còn ngạc nhiên hơn nữa khi trông thấy người đàn bà kia ở trong nhà với con mình: “Quái sao có người đàn bà ở trong ấy nhì?... Sao lại chào mình bằng u?... ơ hay, thế là thế nào”. Đến ngay chính Tràng cũng ngạc nhiên: "Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đây ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phà tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng". Thậm chí sáng hôm sau ngày có vợ, anh ta vẫn chưa hết bàng hoàng: việc hắn có vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. 2. Đây là một tình huống oái oăm, không biết nên vui hay buồn, không biết mừng hay lo. Mọi người đều có tâm trạng ấy, từ những người dân xóm ngụ cư đến chính Tràng nữa: "anh chàng cũng chợt nghĩ: thóc gạo này ngay cả đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đặc biệt là cụ Tứ với tâm trạng đầy mâu thuẫn vì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự”:một mặt cũng tủi vì gặp phải lúc đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, đồng thời lại rất lo vì: "biết chúng có nuôi nhau qua cơn đói khát này không”. “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này thương quá. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng. 3. Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. - Một là, không cần đến những lời kếi tội to mà vẫn tố cáo được tội ác của bọn phát xít Nhậi và tay sai của chúng đã gây ra nạn đói khủng khiếp 1945. Người dân lao động dường như không ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối phủ xuống mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị một con người thật rẻ rúng. Người ta có thể có vợ chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ. Đúng là “nhặt" được vợ như cách nói của tác giả. - Hai là, tâm trạng của bà mẹ nghèo thật tội nghiệp: không ai hiểu con, thương con và lo cho con bằng người mẹ, nhưng vì nghèo khổ nên thương con mà chẳng làm được gì cho con. - Ba là, người dân lao động, dù ở tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào cuộc sống và vẫn hi vọng ở tương lai. Giữa lúc đói kém, vợ chồng Tràng đã lấy nhau vì thế bà cụ Tứ tuy đầy lo lắng, nhưng niềm vui vẫn nở trên khuôn mặt. “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời", bà cụ tin như thế. Và bà cụ trở nên “nhẹ nhõm", tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa. "Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có khấm khá hơn.” Đó là ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. [B]Đề 8 Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn này.[/B] [B][I]Gợi ý trả lời:[/I][/B] Vợ nhặt kể chuyện một người nghèo “nhặt" được vợ trong năm đói. Tác phẩm được xây dựng theo diễn biến tâm lí của ba nhân vật chính xoay quanh cái tình huống khác thường đã gắn kết thân phận họ với nhau. Giá trị hiện thực: Qua truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã phản ánh tình cảnh khôn cùng của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 và xu hướng theo cách mạng của họ. [B]a) [/B]Hình ảnh xóm ngụ cư trong nạn đói, một cuộc sống mấp mé bờ vực cái chết “Người đói như những bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ, thây nằm cong queo bên đường, tiếng quạ, tiếng hờ khóc, mùi xác chết... ” [B]b) [/B]Trong tình cảnh đó, việc Tràng đưa người đàn bà đói về làm vợ khiến cái xóm làng và bà mẹ của anh ngạc nhiên, không dám tin mà cả chính anh cũng thầm lo âu “vì anh chỉ là người đẩy xe nghèo khó, nhà cũ rách nát”, “đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không”, người đàn bà vợ nhặt của Tràng, rách rưới, đói sắp chết sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc, theo về làm vợ một người đàn ông xa lạ như anh, trước hết chỉ để khỏi đói. Nhưng xem ra cái đói không thể trách khỏi: bữa đầu tiên của chị ở nhà chồng thật thảm hại, chẳng đủ cháo loãng để húp mà phải ăn cháo cám. [B]c)[/B] Qua câu chuyện của ba mẹ con trong bữa ăn, bức tranh nông thôn miền Bắc ngày đói dần đã được mở rộng: “xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn", "đằng thì nó bất trồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này chưa chắc đã sống qua nổi”. Nhưng cũng có tin trên miệt Thái Nguyên, Bắc Giang người ta “không chịu đóng thuế nữa”, “còn phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo”. Truyện kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc ngày càng rõ rệt, đầy sức vẫy gọi trong tâm trí Tràng. - Tóm lại, bằng những chi tiết về một ngày đời thường trong gia đình Tràng sau khi anh nhặt được vợ, Kim Lân đã phản ánh khái quát mà sinh động, đầy ám ảnh tình cảnh của đât nước năm đói lịch sử 1945, tố cáo tội ác kẻ thù thật mạnh mẽ mà không cần đao to búa lớn. Vợ nhặt được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, lại được tác giả sửa chữa, cho in sau ngày hòa bình lập lại. Kim Lân có điều kiện thể hiện được xu thế tất yếu của quần chúng lao khổ và hướng về ngọn cờ cách mạng, chỉ có cách mạng mới cứu họ thoát khỏi đói nghèo, chết chóc. 2.Giá trị nhân đạo: Trong truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã khám phá và thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người lao động: trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào họ vẫn yêu thương, cưu mang lẫn nhau và khát khao hi vọng ở tương lai hạnh phúc [B]a) [/B]Chuyện “nhặt" vợ, với Tràng, đầu tiên chỉ là đùa cợt, sau “chặc lưỡi", liều, nhưng rồi nhanh chóng nảy sinh tình nghĩa, một tình cảm "mới mẻ”, dịu dàng, gắn bó anh với người đàn bà ấy đem lại hạnh phúc, thăng hoa tâm hồn Tràng. "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người" thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn", “thấy có bổn phận lo cho vợ con sau này". Từ người đàn ông thô tháp đầu tác phẩm, Tràng như thành một người khác hẳn, với tình yêu và trách nhiệm. [B]b) [/B]Người đàn bà “vợ nhặt" của Tràng thoạt tiên chao chát, trơ trẽn, dám lấy Tràng chỉ vì đói. Thấy cảnh nhà túng quẩn của Tràng, chị không giấu nổi vài biểu hiện thất vọng thầm kín. Nhưng bù lại, chị cảm thấy tình cảm mà Tràng và bà mẹ dành cho mình, nên chị trở thành "người đàn bà hiền hậu, đúng mực", chăm lo cho tổ ấm mới của mình bằng sự vun vén khéo léo và tình yêu của người phụ nữ. [B]c) [/B]Bà cụ thấy con mình mang về người “vợ nhặt” đã đi từ ngạc nhiên đến vừa mừng vừa tủi, vừa thương vừa lo lắng bằng tất cả trái tim của người mẹ yêu con, thương người đồng thời bằng những kinh nghiệm của người lao động nghèo từng trải. Nhưng niềm vui vẫn nhiều hơn, bà nói đến những ước mơ, dự định tương lai sáng sủa, động viên con trai và con dâu. - Tóm lại, tình thương, sự thông cảm đã khiến những người xa lạ xích lại gần nhau, đùm bọc cưu mang lẫn nhau; mẹ - con, chồng - vợ thêm gắn bỏ trong hoàn cảnh khó khăn bi đát, vẫn còn đó đói nghèo nhưng tình thương khiến họ ấm áp hơn và thêm chỗ dựa, thêm sức mạnh để tin và hi vọng vào tương lai. Đây chính là tia sáng lên giữa cuộc sống tối tăm. 3. Kết luận: Nguyên nhân cho thành công của Vợ nhặt “giá trị hiện thực và nhân đạo" là ở sự gắn bó, hiểu biết, lòng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với “đời” với “ người ”, với cái “thuần hậu nguyên thủy” của đời sống nông dân.[/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Vợ Nhặt - Kim Lân
Tổng hợp các đề văn về tác phẩm "Vợ nhặt" (Kim Lân)
Top