Quy tắc Tố tụng Trọng tài
của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(áp dụng từ ngày
Điều 1. Phạm vi áp dụng
Quy tắc này được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại khi:
1. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam và/hoặc chọn Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam để giải quyết vụ tranh chấp; hoặc
2. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam để giải quyết vụ tranh chấp nhưng không có thoả thuận chọn quy tắc tố tụng trọng tài khác.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Quy tắc này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. “Trung tâm” là Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
2. “Danh sách Trọng tài viên” là Danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
3. “Hội đồng Trọng tài” gồm ba Trọng tài viên hoặc Trọng tài viên duy nhất.
4. “Tranh chấp có yếu tố nước ngoài” là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà một bên hoặc các bên là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến tranh chấp đó ở nước ngoài.
Điều 3. Việc gửi thông báo và tài liệu
1. Các bản giải trình, văn thư giao dịch và các tài liệu khác do mỗi bên gửi phải được gửi tới Trung tâm với số bản đủ để Trung tâm gửi cho các thành viên trong Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, mỗi người một bản, cho bên kia một bản và một bản lưu tại Trung tâm.
2. Các thông báo, tài liệu gửi cho các bên sẽ được Trung tâm gửi đến địa chỉ cuối cùng của các bên hoặc gửi cho đại diện của các bên theo đúng địa chỉ do các bên thông báo.
Các thông báo, tài liệu có thể được Trung tâm gửi bằng phương thức giao trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, fax, telex, telegram hoặc bất kỳ phương thức nào khác có ghi nhận việc gửi này.
3. Các thông báo, tài liệu do Trung tâm gửi được coi là đã nhận được vào ngày mà các bên hoặc đại diện của bên đó đã nhận, hoặc được coi là đã nhận nếu thông báo, tài liệu đó đã được gửi phù hợp với khoản 2 Điều này.
4. Thời hạn quy định trong Quy tắc này bắt đầu được tính từ ngày tiếp theo ngày mà thông báo, tài liệu được coi là đã nhận được theo quy định tại khoản 3 Điều này. Nếu ngày tiếp theo đó là ngày lễ chính thức hoặc ngày nghỉ theo quy định của nước, vùng lãnh thổ nơi mà thông báo, tài liệu đã được nhận thì thời hạn này bắt đầu được tính từ ngày làm việc đầu tiên tiếp theo. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn này là ngày lễ chính thức hoặc ngày nghỉ theo quy định của nước, vùng lãnh thổ nơi mà thông báo, tài liệu được nhận thì ngày hết hạn sẽ là cuối ngày làm việc đầu tiên tiếp theo.