Tổ chức trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Tìm hiểu tổ chức trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy, sáng tạo của nhà văn trước hết bộc lộ ở khả năng khai thác các trạng huống trần thuật đa dạng nhằm tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật.
Điểm nhìn trần thuật, ở đây, vừa như một phương thức tổ chức văn bản, vừa là một cơ chế phát ngôn tinh thần thời đại của nhà văn. Sự khai thác điểm nhìn thể hiện trình độ xử lý mối quan hệ giữa chủ thể kể chuyện với cái được kể, cũng là sự thể hiện chiều sâu cái nhìn nghệ thuật của nhà văn.
Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chủ thể kể chuyện được đặt ở ngoài câu chuyện. Hình thức kể ở ngôi thứ ba. Câu chuyện đời sống được diễn ra “tự nhiên” qua lời của một người kể chuyện “vô hình”. Đây là mô hình tự sự có từ truyền thống. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, hiển nhiên không đoạn tuyệt với truyền thống. Song, với sự sáng tạo nhiều mặt của nhà văn, sự khai thác đời sống vẫn được thực hiện phong phú ngay ở kiểu lựa chọn này.
Chủ thể kể chuyện có thể là người “đứng ngoài” chuyện nhưng đóng vai trò như một “người biết hết”, dẫn dắt bạn đọc vào thế giới nhân vật, sự kiện. Các tác phẩm: Không có vua, Giọt máu, Thương cả cho đời bạc, Những ngọn gió Hua Tát nằm trong trường hợp này. Chối bỏ lối hành văn trang trọng, có đôi phần thống thiết thường thấy trong văn học sử thi, ở đây, không có tụng ca, cũng không có những lời phán xét, bình luận của chủ thể kể, mà chỉ thấy ào ạt sự kiện, ào ạt buồn đau, đổ vỡ. Nếu Không có vua được ví như một thước phim cận cảnh, sự kiện hỗn độn, cõi đời ngổn ngang, con người méo mó, nhếch nhác, đáng thương thì Giọt máu lại là sự “lắp ghép” phóng túng những mảnh đời, mảnh người trong kiếp nhân sinh thác loạn. Thương cả cho đời bạc có một thời gian của chuyện xa hơn nhưng câu chuyện vẫn được hiện tại hoá nhờ tính liên tục của sự kiện. Trong Những ngọn gió Hua Tát, chủ thể kể đứng ngoài chuyện, không can thiệp, mổ xẻ, phân tích nhân vật. Do vậy, dù có một khoảng cách rất xa với nhân vật, bạn đọc vẫn bị cuốn vào những điều mình quan tâm một cách tự nhiên.
Trong các truyện ngắn Tâm hồn mẹ, Chút thoáng Xuân Hương, Nguyễn Thị Lộ, Mưa, chủ thể kể vẫn là người “giấu mặt” song điểm nhìn đã có sự chuyển hoá liên tục từ người kể sang nhân vật. Dù nhân vật không đóng vai trò người thực hiện hành động kể song cái được kể đã không đơn giản chỉ là những điều xảy ra bên ngoài người kể, mà còn được thể hiện sinh động ngay trong sự cảm thấy, cảm biết của chính nhân vật. Đây cũng cách để nhà văn khéo khơi sâu vào thế giới tâm tư nhân vật của mình. Trong Tâm hồn mẹ, đời sống được cảm nhận qua Đăng - một đứa trẻ mồ côi mẹ, đầy mặc cảm đáng thương, luôn khao khát lòng độ lượng bao dung. Lại có thể nhận thấy trong Chút thoáng Xuân Hương một sự chuyển hoá liên tục các điểm nhìn, góc nhìn trong trục kết cấu của văn bản. Từ người kể chuyện qua Tổng Cóc, ấm Huy, rồi qua anh nhà thơ sẽ vào vai Chiêu Hổ, từ nhiều quãng cách không - thời gian khác nhau, nhân vật Xuân Hương được soi chiếu từ nhiều góc độ, trở thành một hình tượng sinh động, nhiều tầng nghĩa, mặc dầu không xuất hiện trực tiếp. Triển khai truyện từ điểm nhìn bên trong, Nguyễn Thị Lộ đã thể hiện sâu sắc những cảm thức của Nguyễn Trãi về nỗi cô đơn và bi kịch của chính mình.
Mưa là một truyện ngắn giàu sáng tạo trong nghệ thuật kể. Ngôi kể - nhân vật xưng “anh” là một cách chọn điểm nhìn có chủ ý. Qua hình thức viết nhật ký để thổ lộ tình cảm với đối tượng tâm tình “em”, nhưng đồng thời qua đó, “anh” lại khéo đưa người đọc vào những câu chuyện đời sống khác. Như một cái tôi khác được kể ra, sự miên man của tâm trạng nhân vật trong đây gợi ra cái miên man vô lối của kiếp người. Đọc Huyền thoại phố phường, Muối của rừng còn thấy một biến thể khác của kiểu trạng huống kể này. Chủ thể kể vẫn “vắng bóng” song lại biết nhìn đời sống theo những quan điểm mang ý nghĩa đạo lý phổ quát. Người kể chuyện qua đây như đứng về phía bạn đọc để mà bình phẩm. Trong Huyền thoại phố phường, đó là sự day dứt khôn nguôi về lối sống tha hoá, về sự băng hoại đạo đức và sự nghiệt ngã với đồng tiền đến đáng thương của con người. Trong Muối của rừng, người kể chuyện và bạn đọc như cùng hồi hộp nín thở theo dõi cuộc đi săn của ông Diểu, cuối cùng đều hả hê mãn nguyện về kết cuộc của cái cách mà ông hành xử với tự nhiên.
Có thể nói, những tìm tòi sáng tạo ở kiểu lựa chọn trạng huống kể chuyện có từ truyền thống này đã mang lại cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp những khả năng khai thác nghệ thuật riêng với đời sống. Sự phi tâm hoá của tổ chức trần thuật một mặt giúp nhà văn mở rộng ngưỡng cửa sáng tạo, khơi sâu hiện thực tâm tư, góp phần vào việc khắc phục những “giới hạn” của tự sự truyền thống; một mặt khác đó còn là hệ quả của sự đề kháng của nhà văn đối với sự áp đặt của cái chính thống, một biểu hiện của tinh thần nhân văn hậu hiện đại.
Sang sông có một hình thức kể đặc biệt. Chủ thể kể được đặt bên ngoài chuyện song nó không phải người “biết tất” mà chỉ chạy theo, suy đoán. Cái nhìn của người kể dường như đi cùng sự dịch chuyển của con đò sang sông. Chủ thể kể không đứng từ trên cao nhìn xuống mà đóng vai trò như là người tường thuật tại chỗ một cách khách quan về những gì mà nó chứng kiến. Sự vắng mặt của điểm nhìn đánh giá tư tưởng đạo đức khiến văn bản có thêm những ý nghĩa mới. Cái “vờ vĩnh” khéo léo của nhà văn trong đây khiến câu chuyện hấp dẫn bởi những sự kiện bất ngờ.
Đọc Nguyễn Huy Thiệp, thấy hàng loạt truyện ngắn của ông xuất hiện hình thức “nhân vật kể chuyện”. Hình thức kể theo ngôi thứ nhất. Chủ thể xưng “tôi” trong tác phẩm. Khác với hình thức tự sự ngôi thứ ba, chủ thể kể chuyện trong trường hợp này được đặt vào trong chính các sự kiện, tình tiết với tâm thế người trong cuộc. Và đấy cũng là lúc nhà văn có nhu cầu bộc bạch thế giới nội cảm, hay các sự kiện tâm tư của mỗi chủ thể phong phú hơn và trực tiếp hơn.
Hình thức nhân vật kể chuyện thường xuất hiện ở hai dạng chính: nhân vật kể chuyện kể mọi việc và nhân vật kể chuyện chủ yếu kể về mình. Trường hợp thứ nhất có thể tìm thấy trong Chảy đi sông ơi, Tướng về hưu, Những người thợ xẻ, Thương nhớ đồng quê. Trường hợp thứ hai chủ yếu xuất hiện trong Con gái thuỷ thần. Sự lựa chọn hình thức kể này mang lại cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp một ưu thế riêng. Có thể nhận thấy, mỗi nhân vật kể chuyện trong trường hợp tốt nhất có thể tạo ra một cái nhìn nghệ thuật độc đáo. Đến lượt mình, cái nhìn nghệ thuật đó lại được cụ thể hoá thành chuỗi các điểm nhìn nghệ thuật. Sự đa dạng về tính chất xã hội - thẩm mỹ, về quan điểm đạo đức, lối sống, cá tính của nhân vật kể chuyện khiến cái nhìn đời sống của nhà văn được thực hiện phong phú hơn gấp nhiều lần, ở những chân trời khác.
Trong Chảy đi sông ơi, chủ thể kể giấu mình trong vai một cậu bé mộng mơ, với bao khao khát đầy huyễn hoặc về cái phi phàm, huyền thoại. Từ bỏ sách vở giáo điều, vượt lên nỗi sợ hãi để tự kiếm tìm sự thật, song cái cậu nhận được ở đây toàn là sự bịp bợm. Huyền thoại là sự bịp bợm trắng trợn, trong khi ăn cướp, ngoại tình, cờ bạc, giả trá,... lại là hiện thực. Niềm tin trẻ thơ bị lừa phỉnh. Cuộc săn tìm chẳng mang lại điều gì, ngoài sự xót xa. Dòng hồi ức của một cái tôi suy tư, chiêm nghiệm khiến bạn đọc cay đắng nhận ra cái trớ trêu của cuộc đời. Cái đẹp thực ra không chỉ là thứ tồn tại trong huyền thoại. Nó có thật trong cuộc đời này, và chỉ có ở lòng bao dung của con người, của một số rất ít người. Chỉ có điều, nó luôn bị ngược đãi. Đẹp, là cái gì đó luôn đồng hành với bơ vơ lạc loài, bất hạnh khổ đau.
Trong Tướng về hưu, chủ thể kể là Thuấn - anh kỹ sư ở Viện Vật lý giàu tình cảm với cha song có phần cả nể, bạc nhược với vợ. Cách kể của con người hơi thiếu tự tin, thiếu quyết đoán đó khiến dòng đời với những thác lũ tha hóa và sự trơ khấc của cảm xúc dường như thêm phần bạo liệt. Cảm giác bất lực dâng trào. Người kể như đứng bên ngoài những sóng gió mà kể lại, chỉ kín đáo suy tư...
Rõ ràng, trong sự lựa chọn đa dạng của nhà văn, hình thức nhân vật kể chuyện có khả năng tạo ra nhiều cái nhìn nghệ thuật ở cùng một tác giả.
Sự xuất hiện của trạng huống kể “đa thức” khiến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thêm một diện mạo mới. Trong nhiều tác phẩm của ông, điểm nhìn trần thuật được tổ chức theo lối “kính vạn hoa”. Vàng lửa là một thí dụ. Mở đầu và kết thúc truyện, thấy có sự xuất hiện của tác giả với tư cách là người dẫn chuyện, xưng “tôi”, nhưng không tham gia vào chuyện, mà chỉ nhảy ra sân khấu để thuyết minh, thức tỉnh, gây hiệu quả “gián cách” và dẫn dụ bạn đọc, vừa khiến họ tin hơn vào câu chuyện được kể, vừa chống sự mê hoặc. Tuy nhiên, ở những phần căn bản, câu chuyện lại được kể qua lời của một người kể chuyện “vô hình”. Các điểm nhìn nghệ thuật ở đây liên tục được gia tăng dịch chuyển. Câu chuyện được hình dung qua Phăng, qua hồi ký của một người Bồ Đào Nha vô danh, rồi qua ba đoạn kết mà tác giả - “tôi” hiến tặng để bạn đọc “tuỳ ý lựa chọn”. Lối trần thuật nhiều chủ thể này khiến đời sống, lịch sử, nhân vật được soi chiếu từ nhiều phía, nhiều quan điểm khác nhau, có khi trái với khát vọng của tác giả và bạn đọc. Cái được kể trong đây là một hiện thực đầy biến động, không thuần nhất trong suy cảm của mỗi người. Đây cũng là một lý do để giải thích tại sao truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại nhiều giọng, đa nghĩa, hấp dẫn và cũng gây ra nhiều tranh cãi. Sự giản đơn đồng quy tác giả vào những hình tượng người kể chuyện (“không đáng tin”) trong đây khiến một số bạn đọc có những đánh giá thiếu công bằng với các truyện ngắn của ông. Có thể nói, việc tổ chức trần thuật đa điểm nhìn, đề cao sự sáng tạo của người đọc, và việc đưa lên cùng một mặt sân giá trị các phát ngôn, thái độ khác biệt nhau trong đây là một biểu hiện của tinh thần dân chủ và nhân văn trong sáng tác của nhà văn. Hình thức trần thuật độc đáo này còn có thể tìm thấy trong các truyện ngắn lịch sử khác như: Phẩm tiết, Kiếm sắc, Mưa Nhã Nam…
Có thể khẳng định, việc khéo lựa chọn các trạng huống trần thuật nhằm tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật là yếu tố độc đáo thứ nhất mang lại sự hấp dẫn cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Từ đây, những thế giới nghệ thuật mới mẻ, hấp dẫn được hình thành. Và, trong sự tìm tòi, sáng tạo không ngừng của nhà văn, những khám phá, thể hiện đời sống ngày càng được thực hiện phong phú hơn ở những chân trời mới.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn bởi sự pha trộn, xen cài của hai kiểu giọng độc đáo, đặc trưng. Diễn tả những mảng tối của cuộc đời, nhà văn có giọng kể sắc lạnh. Bàn tay giải phẫu trực tiếp và chính xác của vị bác sĩ khiến các ung nhọt đời sống vỡ ra tung toé. Giọng kể lại trở nên trữ tình, tha thiết buồn đau khi nhà văn diễn tả cái trớ trêu của cuộc đời, cái thê thảm của tâm hồn, sự bơ vơ lạc loài của cái đẹp,... Và, đằng sau tất cả các câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, là một hình tượng tác giả hàm ẩn với bao chiêm nghiệm suy tư về thân phận con người, về cuộc đời. Truyện của ông, do thế thường âm ba vọng động, đọc xong mà không đọc hết. Ngôn ngữ trần thuật Nguyễn Huy Thiệp sắc gọn, hàm súc, nhiều khi trơ trụi. Các đối thoại giàu tính kịch, dung hợp những từ ngữ thông tục, gần với ngôn ngữ đời sống. Lời kể thường ít thành phần phụ, dồn nén thông tin, cũng có khi đậm chất thơ và màu sắc triết lí, chạm sâu vào thế giới tâm tư của con người. Đặc điểm này có thể tìm thấy trong hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, tạo thành một biểu hiện của phong cách. Và có lẽ chính lối hành ngôn hàm súc như thế này khiến Nguyễn Huy Thiệp luôn gặp khó khăn khi viết tiểu thuyết.
Tính hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn thể hiện các thủ pháp kỹ thuật kể độc đáo, giàu sáng tạo. Trước hết, đó là một lối kể trùng phức thường xuyên được sử dụng như một thủ pháp “mô tả mang tính lập thể”. Sự phối hợp nhiều người kể, nhiều giọng kể với sự dịch chuyển đa chiều các điểm nhìn nghệ thuật khiến đời sống luôn được cắt nghĩa ở những chiều sâu mới. Câu chuyện của nhà văn, do thế, luôn diễn ra ở nhiều lớp lang, thú vị, nhiều khi lại có thể "tháo dỡ" được. Có thể tìm tìm thấy điều này trong Chút thoáng Xuân Hương, Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc, Mưa Nhã Nam. Ở đây, tính chỉnh thể trong cấu trúc tự sự của một truyện ngắn truyền thống thường xuyên bị phá vỡ. Tiếp theo, từ một góc nhìn khác có thể nhận thấy nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có xu hướng “phì đại”. Giới hạn của một truyện ngắn bị đứt gãy. Cái được kể tràn ra khỏi chiếc khung thể loại. Trong một cốt truyện vốn đã nhiều sự kiện, nhà văn còn sử dụng các hình thức truyện xen truyện, truyện trong truyện độc đáo.
Chẳng hạn, trong Thương nhớ đồng quê, ngoài mạch chính là truyện Nhâm, còn có khá nhiều các truyện hoàn chỉnh khác về sư Thiều, ông giáo Quỳ, chú Phụng... Con gái thuỷ thần, Thương nhớ đồng quê, Chút thoáng Xuân Hương, Những ngọn gió Hua Tát đều là những truyện ngắn mang dáng dấp tiểu thuyết. Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có thể được ví như một cuộc “chơi" thể loại, một sự tìm tòi thử nghiệm các hình thức độc đáo: truyện ngắn - tư liệu (Thương cả cho đời bạc), truyện ngắn - nhật ký (Mưa), truyện ngắn - dòng chảy ý thức (Không khóc ở California), truyện ngắn - chân dung (Chút thoáng Xuân Hương), truyện ngắn - phóng sự (Tội ác và trừng phạt)... Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn hấp dẫn bởi sự dung hợp nhiều bài thơ, những “câu nói thơ” mà phần lớn do tác giả đặt lời. Các bài thơ hoặc thơ văn xuôi này có ý nghĩa lớn trong việc làm nổi bật tiết đoạn cảm xúc, tô đậm chiều sâu tâm lý nhân vật vừa gợi ra được những suy tư lắng đọng cho bạn đọc trước khi bị cuốn vào những tình tiết mới. Nhà nghiên cứu người Nga T.N. Filimonova cho rằng thủ pháp này làm cho lời văn Nguyễn Huy Thiệp trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [1].
Người kể trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn làm chủ cuộc chơi. Vậy nên, truyện của ông luôn mang nghĩa, hấp dẫn được nhiều đối tượng, vừa mới trong kỹ thuật, vừa luôn gợi sâu vào những buồn vui của kiếp người. Tất nhiên, những suy tư, tìm tòi nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp, dù mới mẻ đến đâu thì cũng không bắt đầu trên một mảnh đất trống. Chúng tôi cho rằng, ở một chừng mực nào đó, những cách tân trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, theo các chiều hướng khác nhau, đã làm thay đổi một phần cách đọc của công chúng văn học.
Trong một bài viết cách đây không lâu, Nguyễn Huy Thiệp tâm đắc: “... nhà văn sinh ra là để kể chuyện. Kể chuyện hay! Có thế thôi” [2].
Nếu kể được xem là “thiên chức” của người viết văn xuôi thì Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn đã hoàn thành “thiên chức” đó trong truyện ngắn một cách xuất sắc.
Phùng Gia Thế