Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học Tổng quát
Tình yêu trong tâm lý học
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="VnKienThuc" data-source="post: 192608" data-attributes="member: 1"><p><strong>CHƯƠNG II: CÁC HỌC THUYẾT VỀ TÌNH YÊU </strong></p><p></p><p><u>2.1 Tiếp cận phong cách yêu Lee [4, 672-674]</u></p><p></p><p> Nhà xã hội học John Lee đã mô tả sáu phong cách cơ bản của tình yêu. phong cách có thể thay đổi khi quan hệ thay đổi hoặc khi cá nhân tham gia vào những quan hệ khác nhau. Sau đây là 6 phong cách.</p><p></p><p> - Eros: Yêu vẻ đẹp. Eros là tên của thần tình yêu, con của thần sắc đẹp Aphrodite trong thần thoại Hy Lạp. những người yêu kiểu Eros vui thích với những tiếp xúc thể chất trực tiếp. Họ bị cuốn hút bởi cái đẹp (dù cái đẹp này chỉ có trong mắt họ). Họ yêu vẻ đẹp cơ thể. Tình yêu của họ mãnh liệt nhưng chóng tàn.</p><p></p><p> - Mania: Tình yêu ám ảnh. Những người có tình yêu ám ảnh không ngủ được vào ban đêm, ban ngày buồn rầu đau khổ. Hình bóng người yêu làm cho họ phấn khích trong giây lát nhưng lại thôi ngay. Sự thoả mãn của họ rất ngắn ngủi và luôn đòi hỏi kích thích mới. Tình yêu ám ảnh luôn đòi hỏi kích thích.</p><p></p><p> - Ludus: Tình yêu - trò chơi. tình yêu trò chơi này là trò chơi để chơi và để giải trí. Những người chơi trò chơi tình yêu này thường tình cờ, vô tư và bất cẩn. Không có gì là nghiêm túc trong trò chơi tình ái này.</p><p></p><p> - Storge: Tình yêu - bạn bè. Đây là tình yêu giữa những người bạn. nó thường được bắt đầu bằng tình bạn, ngày càng sâu sắc hơn và thành tình yêu. Nếu tình yêu cạn nó cũng cạn từ và hai người lại trở thành bạn.</p><p></p><p> - Agape: Tình yêu vị tha. Nó thực sự là tình yêu truyền thống và tình yêu truền thống của Thiên chúa giáo. Nó trinh trắng, kiên nhẫn và không đòi hỏi. Nó không mong sự đền đáp. Tình yêu Agape có tính trừu tượng và lý tưởng. Đối với những người kiểu này yêu cả nhân loại dễ hơn là yêu một người cụ thể.</p><p></p><p> - Pragama: Tình yêu thực dụng. Những người yêu thực dụng giống như những kẻ làm ăn trong cung cách tìm kiếm đối tác. Họ dùng lôgíc để tìm kiếm những người có địa vị, học vấn, xuất thân, tôn giáo vào quan điểm tương xứng với họ. Nếu tìm được đối tác, những tình cảm của họ có thể phát triển. Nhưng chắc chắn là lôgíc như con dao hai lưỡi, sẽ làm họ bị tổn thương.</p><p></p><p> Bên cạnh những phong cách yêu thuần khiết này, còn có những phong cách pha trộn: Storge và Eros, Ludus với Eros, Store với Ludus. Các nghiên cứu thấy rằng thanh niên ở phổ thông trung học thường có tình yêu kiểu Eros và Agape.</p><p></p><p><u>2.2. Thuyết tam giác tình yêu của Sternberg [4, 679-681]</u></p><p></p><p> Thuyết tam giác tình yêu (nhấn mạnh về bản chất động của tình yêu) được nhà tâm lý học Robert Sternberg đưa ra năm 1986. Theo ông, tình yêu là sự kết hợp của ba thành phần: Gần gũi, đam mê, và quyết định - tuân thủ tình yêu.</p><p></p><p> Mỗi thành phần đều có thể tăng trưởng hoặc suy giảm trong tiến trình phát triển của quan hệ yêu đương và do đó tác động lên chất lượng của quan hệ này. Các thành phần này cũng có thể kết hợp theo những cách khác nhau, mỗi một kết hợp cho ta một thể loại tình yêu: Thơ mộng, mê đắm, hão huyền, quý mến… Trong một quan hệ yêu đương ở những giai đoạn khác nhau có thể có những thể loại khác nhau về tình yêu.</p><p></p><p>- Thành phần gần gũi</p><p></p><p>Gần gũi tương ứng với những tình cảm ấm áp, thân thiết và ràng buộc mà ta có khi đang yêu. Theo Sternbeg và Grajek có 10 dấu hiệu của sự gần gũi.</p><p></p><p>1. mong muốn làm điều tốt lành cho bạn tình.</p><p></p><p>2. Cảm thấy hạnh phúc với bạn tình.</p><p></p><p>3. Quý trọng bạn tình.</p><p></p><p>4. Có thể nhờ cậy bạn tình khi cần.</p><p></p><p>5. Có thể hiểu nhau.</p><p></p><p>6. Chia sẻ bản thân và những gì thuộc về mình cho bạn tình.</p><p></p><p>7. Nhận những ủng hộ về tình cảm đối với bạn tình.</p><p></p><p>8. Ủng hộ về tình cảm đối với bạn tình.</p><p></p><p>9. Có thể tâm sự với bạn tình về những điều thầm kín.</p><p></p><p>10. Đánh giá cao sự hiển diện của bạn tình trong cuộc sống của bản thân.</p><p></p><p><em><u>- Thành phần đam mê</u></em></p><p></p><p>Thành phần đam mê có yếu tố cấu thành là sự thư mộng, lôi cuốn và tình dục trong quan hệ tình yêu. Những yếu tố này có thể được kích độngbởi mong muốn nâng cao sự tự đánh giá, ham muốn sinh hoạt tình dục hoặc chứng tỏ năng lực tình dục, muốn hoà nhập, muốn chiếm ưu thế hoặc muốn phụ thuộc vào người khác.</p><p></p><p><u><em>- Thành phần quyết định - Tuân thủ tình yêu</em></u></p><p></p><p>Thành phần này gồm hai phần riêng biệt: phần tạm thời và phần lâu dài. Phần tạm thời chính là việc cá nhân quyết định ( hoặc nhận biết) mình yêu ai. Cá nhân có thể quyết định việc này một cách có ý thức hoặc vô thức. Nhưng nó thường xuất hiện trước khi cá nhân biểu lộ sự tuân thủ tình yêu với người mình yêu. Sự tuân thủ tình yêu này là phần lâu dài, nó là sự duy trì tình yêu. Nhưng quyết định yêu không có nghĩa là nhất định sẽ kéo theo sự tuân thủ tình yêu nhằm duy trì tình yêu.</p><p></p><p><em><u>*Thể loại của tình yêu.</u></em></p><p></p><p>Theo Sternberg, ba thành tố có thể kết hợp với nhau để tạo ra các thể loại tình yêu sau:</p><p></p><p>1. Thích( chỉ gần gũi)</p><p></p><p>2. Mê đắm ( chỉ đam mê)</p><p></p><p>3. Tình yêu thơ mộng ( gần gũi và đam mê)</p><p></p><p>4. Tình yêu - bạn bè ( gần gũi và tuân thủ tình yêu)</p><p></p><p>5. Tình yêu mù quáng ( đam mê và tuân thủ tình yêu)</p><p></p><p>6. Tình yêu hoàn hảo( gần gũi, đam mê và tuân thủ tình yêu)</p><p></p><p>7. Tình yêu hão huyền ( chỉ có một hoặc quyết định hoặc tuân thủ tình yêu)</p><p></p><p>8. Vô tình ( không có cả ba thành phần )</p><p></p><p></p><p> Những phạm trù của Sternberg chính là những thái cực của tình yêu; ít người có tình yêu thuần khiết theo phân loại này, tuy nhiên những phạm trù này cho chúng ta khảo sát tình yêu ở một mức độ nhất định.</p><p></p><p><u>2.3. Học thuyết về tình yêu là quan hệ gắn bó [4, 684-686]</u></p><p></p><p> Học thuyết gắn bó coi tình yêu là một quan hệ gắn bó, một ràng bụôc tình cảm gần gũi và phát triển, có khởi nguồn từ thủa sơ sinh. Các nhà nghiên cứu giả định rằng, tình yêu thơ mộng và sự gắn bó trẻ sơ sinh - người chăm sóc có động lực tình cảm tương đồng. Philip Shaver và đồng nghiệp giả định rằng mọi tình yêu - bắt đầu là tình yêu bố mẹ sau đó là tình yêu lứa đôi, sau nữa là tình yêu con cháu- đều là sự gắn bó. Dựa trên những khảo sát về trẻ sơ sinh - người chăm sóc của Jonh Bowby, ,một vài nhà nghiên cứu đã đưa ra một số tương đồng giữa tình yêu thơ mộng và gắn bó.</p><p>Theo Marry Ainsworth có bốn kiểu gắn bó: an toàn, chống đối, lẩn tránh, và mất phương hướng- vô tổ chức.</p><p></p><p> Shaver và đồng nghiệp cho rằng các kiểu gắn bó này đựơc tiếp tục phát triển trong thời niên thiếu cho đến tuổi trưởng thành. Họ đã tiến hành một vài khảo sát ở người trưởng thành và phát hiện những kiểu gắn bó tương tự.</p><p></p><p></p><p></p><p><strong>TÀI LIỆU THAM KHẢO</strong></p><p></p><p>1. Lưu Bình, Uông Hải Yến, Trần Diễm Thu. <strong>Tâm lý tình yêu</strong>. NXB Hà Nội - 1998</p><p>2. Lê Thị Bừng. <strong>Tình yêu nhìn từ góc độ giáo dục</strong>. NXB Giáo dục 1997.</p><p>3. Dale Carnegie. <strong>Tâm lý vợ chồng</strong>. NXB Đồng Nai - 1995.</p><p>4. Nguyễn văn Đồng. T<strong>âm lý học phát triển</strong> - NXB Chính trị Quốc Gia 2004</p><p>5. Phạm Thị Đức - <strong>Đề cương bài giảng môn Tâm lý học Giới tính</strong> - 2004</p><p>6. Nguyễn Hoàng Đức . <strong>Luận về Tình yêu</strong> - Tập I. NXB Thanh Niên 1998</p><p>7. Phạm Minh Hạc ( chủ biên) Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ . <strong>Tâm lý học Đại cương.</strong> Tập II. NXB Giáo dục</p><p>8. Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Minh Đức,<strong> Nghệ thuật hiểu thấu tâm lý người khác.</strong> NXB Thanh Niên 2000</p><p>9. Nguyễn Đình Xuân. T<strong>uổi trẻ, sự nghiệp, tình yêu.</strong> NXB Giáo dục 1997.</p><p></p><p><a href="https://vnkienthuc.com/forums/tam-li-hoc.888/" target="_blank">TÂM LÍ HỌC</a></p><p></p><p><em>Tư liệu sưu tầm.</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="VnKienThuc, post: 192608, member: 1"] [B]CHƯƠNG II: CÁC HỌC THUYẾT VỀ TÌNH YÊU [/B] [U]2.1 Tiếp cận phong cách yêu Lee [4, 672-674][/U] Nhà xã hội học John Lee đã mô tả sáu phong cách cơ bản của tình yêu. phong cách có thể thay đổi khi quan hệ thay đổi hoặc khi cá nhân tham gia vào những quan hệ khác nhau. Sau đây là 6 phong cách. - Eros: Yêu vẻ đẹp. Eros là tên của thần tình yêu, con của thần sắc đẹp Aphrodite trong thần thoại Hy Lạp. những người yêu kiểu Eros vui thích với những tiếp xúc thể chất trực tiếp. Họ bị cuốn hút bởi cái đẹp (dù cái đẹp này chỉ có trong mắt họ). Họ yêu vẻ đẹp cơ thể. Tình yêu của họ mãnh liệt nhưng chóng tàn. - Mania: Tình yêu ám ảnh. Những người có tình yêu ám ảnh không ngủ được vào ban đêm, ban ngày buồn rầu đau khổ. Hình bóng người yêu làm cho họ phấn khích trong giây lát nhưng lại thôi ngay. Sự thoả mãn của họ rất ngắn ngủi và luôn đòi hỏi kích thích mới. Tình yêu ám ảnh luôn đòi hỏi kích thích. - Ludus: Tình yêu - trò chơi. tình yêu trò chơi này là trò chơi để chơi và để giải trí. Những người chơi trò chơi tình yêu này thường tình cờ, vô tư và bất cẩn. Không có gì là nghiêm túc trong trò chơi tình ái này. - Storge: Tình yêu - bạn bè. Đây là tình yêu giữa những người bạn. nó thường được bắt đầu bằng tình bạn, ngày càng sâu sắc hơn và thành tình yêu. Nếu tình yêu cạn nó cũng cạn từ và hai người lại trở thành bạn. - Agape: Tình yêu vị tha. Nó thực sự là tình yêu truyền thống và tình yêu truền thống của Thiên chúa giáo. Nó trinh trắng, kiên nhẫn và không đòi hỏi. Nó không mong sự đền đáp. Tình yêu Agape có tính trừu tượng và lý tưởng. Đối với những người kiểu này yêu cả nhân loại dễ hơn là yêu một người cụ thể. - Pragama: Tình yêu thực dụng. Những người yêu thực dụng giống như những kẻ làm ăn trong cung cách tìm kiếm đối tác. Họ dùng lôgíc để tìm kiếm những người có địa vị, học vấn, xuất thân, tôn giáo vào quan điểm tương xứng với họ. Nếu tìm được đối tác, những tình cảm của họ có thể phát triển. Nhưng chắc chắn là lôgíc như con dao hai lưỡi, sẽ làm họ bị tổn thương. Bên cạnh những phong cách yêu thuần khiết này, còn có những phong cách pha trộn: Storge và Eros, Ludus với Eros, Store với Ludus. Các nghiên cứu thấy rằng thanh niên ở phổ thông trung học thường có tình yêu kiểu Eros và Agape. [U]2.2. Thuyết tam giác tình yêu của Sternberg [4, 679-681][/U] Thuyết tam giác tình yêu (nhấn mạnh về bản chất động của tình yêu) được nhà tâm lý học Robert Sternberg đưa ra năm 1986. Theo ông, tình yêu là sự kết hợp của ba thành phần: Gần gũi, đam mê, và quyết định - tuân thủ tình yêu. Mỗi thành phần đều có thể tăng trưởng hoặc suy giảm trong tiến trình phát triển của quan hệ yêu đương và do đó tác động lên chất lượng của quan hệ này. Các thành phần này cũng có thể kết hợp theo những cách khác nhau, mỗi một kết hợp cho ta một thể loại tình yêu: Thơ mộng, mê đắm, hão huyền, quý mến… Trong một quan hệ yêu đương ở những giai đoạn khác nhau có thể có những thể loại khác nhau về tình yêu. - Thành phần gần gũi Gần gũi tương ứng với những tình cảm ấm áp, thân thiết và ràng buộc mà ta có khi đang yêu. Theo Sternbeg và Grajek có 10 dấu hiệu của sự gần gũi. 1. mong muốn làm điều tốt lành cho bạn tình. 2. Cảm thấy hạnh phúc với bạn tình. 3. Quý trọng bạn tình. 4. Có thể nhờ cậy bạn tình khi cần. 5. Có thể hiểu nhau. 6. Chia sẻ bản thân và những gì thuộc về mình cho bạn tình. 7. Nhận những ủng hộ về tình cảm đối với bạn tình. 8. Ủng hộ về tình cảm đối với bạn tình. 9. Có thể tâm sự với bạn tình về những điều thầm kín. 10. Đánh giá cao sự hiển diện của bạn tình trong cuộc sống của bản thân. [I][U]- Thành phần đam mê[/U][/I] Thành phần đam mê có yếu tố cấu thành là sự thư mộng, lôi cuốn và tình dục trong quan hệ tình yêu. Những yếu tố này có thể được kích độngbởi mong muốn nâng cao sự tự đánh giá, ham muốn sinh hoạt tình dục hoặc chứng tỏ năng lực tình dục, muốn hoà nhập, muốn chiếm ưu thế hoặc muốn phụ thuộc vào người khác. [U][I]- Thành phần quyết định - Tuân thủ tình yêu[/I][/U] Thành phần này gồm hai phần riêng biệt: phần tạm thời và phần lâu dài. Phần tạm thời chính là việc cá nhân quyết định ( hoặc nhận biết) mình yêu ai. Cá nhân có thể quyết định việc này một cách có ý thức hoặc vô thức. Nhưng nó thường xuất hiện trước khi cá nhân biểu lộ sự tuân thủ tình yêu với người mình yêu. Sự tuân thủ tình yêu này là phần lâu dài, nó là sự duy trì tình yêu. Nhưng quyết định yêu không có nghĩa là nhất định sẽ kéo theo sự tuân thủ tình yêu nhằm duy trì tình yêu. [I][U]*Thể loại của tình yêu.[/U][/I] Theo Sternberg, ba thành tố có thể kết hợp với nhau để tạo ra các thể loại tình yêu sau: 1. Thích( chỉ gần gũi) 2. Mê đắm ( chỉ đam mê) 3. Tình yêu thơ mộng ( gần gũi và đam mê) 4. Tình yêu - bạn bè ( gần gũi và tuân thủ tình yêu) 5. Tình yêu mù quáng ( đam mê và tuân thủ tình yêu) 6. Tình yêu hoàn hảo( gần gũi, đam mê và tuân thủ tình yêu) 7. Tình yêu hão huyền ( chỉ có một hoặc quyết định hoặc tuân thủ tình yêu) 8. Vô tình ( không có cả ba thành phần ) Những phạm trù của Sternberg chính là những thái cực của tình yêu; ít người có tình yêu thuần khiết theo phân loại này, tuy nhiên những phạm trù này cho chúng ta khảo sát tình yêu ở một mức độ nhất định. [U]2.3. Học thuyết về tình yêu là quan hệ gắn bó [4, 684-686][/U] Học thuyết gắn bó coi tình yêu là một quan hệ gắn bó, một ràng bụôc tình cảm gần gũi và phát triển, có khởi nguồn từ thủa sơ sinh. Các nhà nghiên cứu giả định rằng, tình yêu thơ mộng và sự gắn bó trẻ sơ sinh - người chăm sóc có động lực tình cảm tương đồng. Philip Shaver và đồng nghiệp giả định rằng mọi tình yêu - bắt đầu là tình yêu bố mẹ sau đó là tình yêu lứa đôi, sau nữa là tình yêu con cháu- đều là sự gắn bó. Dựa trên những khảo sát về trẻ sơ sinh - người chăm sóc của Jonh Bowby, ,một vài nhà nghiên cứu đã đưa ra một số tương đồng giữa tình yêu thơ mộng và gắn bó. Theo Marry Ainsworth có bốn kiểu gắn bó: an toàn, chống đối, lẩn tránh, và mất phương hướng- vô tổ chức. Shaver và đồng nghiệp cho rằng các kiểu gắn bó này đựơc tiếp tục phát triển trong thời niên thiếu cho đến tuổi trưởng thành. Họ đã tiến hành một vài khảo sát ở người trưởng thành và phát hiện những kiểu gắn bó tương tự. [B]TÀI LIỆU THAM KHẢO[/B] 1. Lưu Bình, Uông Hải Yến, Trần Diễm Thu. [B]Tâm lý tình yêu[/B]. NXB Hà Nội - 1998 2. Lê Thị Bừng. [B]Tình yêu nhìn từ góc độ giáo dục[/B]. NXB Giáo dục 1997. 3. Dale Carnegie. [B]Tâm lý vợ chồng[/B]. NXB Đồng Nai - 1995. 4. Nguyễn văn Đồng. T[B]âm lý học phát triển[/B] - NXB Chính trị Quốc Gia 2004 5. Phạm Thị Đức - [B]Đề cương bài giảng môn Tâm lý học Giới tính[/B] - 2004 6. Nguyễn Hoàng Đức . [B]Luận về Tình yêu[/B] - Tập I. NXB Thanh Niên 1998 7. Phạm Minh Hạc ( chủ biên) Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ . [B]Tâm lý học Đại cương.[/B] Tập II. NXB Giáo dục 8. Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Minh Đức,[B] Nghệ thuật hiểu thấu tâm lý người khác.[/B] NXB Thanh Niên 2000 9. Nguyễn Đình Xuân. T[B]uổi trẻ, sự nghiệp, tình yêu.[/B] NXB Giáo dục 1997. [URL='https://vnkienthuc.com/forums/tam-li-hoc.888/']TÂM LÍ HỌC[/URL] [I]Tư liệu sưu tầm.[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học Tổng quát
Tình yêu trong tâm lý học
Top