Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại.
Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn.
Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng.
ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu.
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.
Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)...
(Theo VOV)
Chiến lược bảo vệ và phát triển bền vững đất ngập nước.
Hưởng ứng chủ đề môi trường toàn cầu năm nay về "Bảo vệ đất ngập nước", dự thảo Chiến lược Bảo vệ & Phát triển bền vững đất ngập nước của Việt Nam vừa được xây dựng và đưa ra thảo luận tại hội thảo quốc gia "Đất ngập nước Việt Nam" do Hội Sinh thái học Việt Nam, Hội Động vật học Việt Nam và Bộ môn Động vật có Xương sống (Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên) phối hợp tổ chức ở Hà Nội từ 10- 11/10.
Trong số 5 mục tiêu trước mắt của chiến lược, đáng chú ý có mục tiêu chấm dứt sử dụng không bền vững đất ngập nước, quá chú trọng tới lợi ích kinh tế trước mắt hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu cơ sở khoa học, mục tiêu bảo vệ các giá trị đa dạng sinh học hiện còn của hệ sinh thái đất ngập nước và mục tiêu khôi phục lại hệ sinh thái đất ngập nước ở những vùng nhạy cảm về môi trường cũng như áp dụng các hệ canh tác kết hợp nông - lâm - ngư bền vững.
Mặc dù an ninh lương thực chưa được đảm bảo, Việt Nam đã vượt qua thời kỳ khó khăn về lương thực. Đã đến lúc cần nghĩ đến việc có cần phải khai thác triệt để các vùng đất có khả năng phát triển nông nghiệp, nhất là phát triển trồng lúa nước, hay không...
Sông Hương đổi màu
Sau cơn lũ nhỏ đầu mùa (hôm 19-8), nước sông Hương bắt đầu bị đục. Tưởng như mọi năm nước sẽ trong trở lại sau vài ngày lũ rút, nhưng từ đó đến nay nước sông vẫn cứ đỏ quạch. TS Hồ Ngọc Phú, nguyên trưởng ban quản lý dự án sông Hương, cho biết mọi năm nước sông chỉ đục khi có lũ báo động 2 trở lên, và chỉ có màu vàng do đất cát trên bề mặt gò đồi bị rửa trôi; còn lần này là màu đỏ với những hạt đất đỏ bazan rất mịn nằm lơ lửng trong nước tạo thành thứ dung dịch huyền phù, không lắng được ngay cả khi dòng chảy chậm.
Kết quả khảo sát của Sở Khoa học - Công nghệ môi trường Thừa Thiên - Huế (hôm 6-10) đã cho thấy rõ hơn sự bất thường đó. Tại vị trí Đập Đá ở trung tâm thành phố, độ đục trên lớp nước mặt đo được là 81 NTU (đơn vị quốc tế đo độ đục của nước, chỉ số của nước bình thường khoảng 20 - 40 NTU), trong khi nước bên nhánh sông Như ý cạnh đó chỉ 19 NTU. Khi chiếc thuyền đi đến ngã ba Tuần, tất cả thành viên đoàn khảo sát đều ồ lên trước hình ảnh tương phản: một bên là dòng nước trong xanh của dòng Tả Trạch, một bên là dòng nước đỏ ngầu đổ ra từ dòng Hữu Trạch. Khúc sông Hương ở ngã ba (do hai nhánh Tả Trạch và Hữu Trạch hợp thành) chia thành hai phần xanh - đỏ rất rõ nét.
ở trước lăng Minh Mạng độ đục của tầng nước mặt là 240 NTU, nhưng đến chân cầu Bình Thành đã lên đến 704 NTU. Rõ ràng đang có sự tác động môi trường rất lớn ở phía thượng nguồn Hữu Trạch.
Nếu như người dân cố đố ngậm ngùi vì sông Hương, con sông tâm hồn của ngươi Huế, đã đổi màu thì liền đó là những âu lo về nguồn nước sinh hoạt. Theo phòng hóa nghiệm của Công ty Cấp thoát nước Huế, chi phí để sản xuất nước sinh hoạt phải tăng lên do phải thêm hóa chất lọc cũng như chu kỳ súc lọc bể chứa phải gia tăng. Anh Võ Đại Thu, sống bên sông Hữu Trạch (thuộc xã Hương Thọ, Hương Trà), cho biết xưa nay người dân ở đây quen uống nước sông nên cả tháng nay phải khổ cực vì không có nước; áo quần giặt xong là như nhuộm màu vàng.
Vào những hôm có mưa lớn đầu nguồn, dòng nước đỏ đó kéo dài ra tận cửa sông, nhuộm đỏ mặt phá Tam Giang. TS Võ Văn Phú, chủ nhiệm bộ môn tài nguyên và môi trường (khoa sinh học ĐH Khoa học Huế), cho biết chất huyền phù đó ắt sẽ gây ô nhiễm môi trường và tổn hại đến nguồn tài nguyên sinh vật trong đầm phá.
Giải pháp nào?
Theo ông Nguyễn Hữu Quyết, phó giám đốc Sở Khoa học - Công nghệ môi trường Thừa Thiên - Huế, nguyên nhân của sự bất thường này có thể do các công trường xây dựng ở đầu nguồn đang thi công với cường suất lớn, khi mưa lớn đất đá theo các khe suối đổ về. TS Hồ Ngọc Phú khẳng định đoạn đường mới mở xuyên rừng A Roàng phải bạt cả những sườn núi và đào hầm để mở đường. Thứ đất đỏ bazan trong lòng núi hạt rất mịn và khó lắng trong nước, khác với đất cát pha trên bề mặt đồi núi. Ông Nguyễn Hữu Quyết cho biết Sở đã gửi công văn cho Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Khoa học - Công nghệ và Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn để nhờ các cơ quan trung ương giải quyết cũng như can thiệp bằng các giải pháp kỹ thuật. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có thông tin phản hồi nào từ phía các cơ quan trung ương.
Tuổi trẻ - Minh Tự