Trả lời chủ đề

TÌNH THU TRONG THƠ ĐƯỜNG THI.




Ngô đồng một chiếc lá rơi

Câu thơ cổ độ ngâm lời thu phong ...


"Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu"

(Một chiếc lá ngô đồng rụng xuống

Cả thiên hạ biết mùa thu trở về)


Thiên nhiên và mùa Thu giao hưởng là một bức tranh sơn thủy hữu tình, là  cả một nguồn tha thiết khơi động cảm xúc bao la và thi hứng tuôn trào  cho tao nhân mặc khách.

Bức tranh Thu là phối hợp những đường nét tinh tế, những gam màu mỹ  thuật, và những âm thanh chọn lọc, tất cả nhẹ nhàng lâng lâng như màn  sương khói chìm đắm hồn người ….. 


Bước vào thế giới Đường Thi là bước vào một vũ trụ Thơ mênh mang bát  ngát vô chung vô thủy, là đi vào một thế giới huyền thoại của tác động  và mỹ thuật , của biểu cảm và hình tượng , có khả năng khêu gợi và cuốn  hút tâm tư người đọc. 

Ngôn ngữ thơ Đường rất giàu hình ảnh và cảm xúc . Người ta thường nói "ý  tại ngôn ngoại" (ý tại ngoài lời), những bài thơ Đường ngắn gọn như bát  cú, tứ tuyệt, chỉ giới hạn trong một số từ ngữ nhất định, mà đã diễn  đạt tất cả những suy tư cảm xúc của tác giả , mặc dầu cô động hạn chế,  nhưng rất hàm súc, toàn bài thơ như đôi mắt … cửa sổ của linh hồn đã  giải bày được đời sống nội tâm, trạng thái tư duy, dung hòa giữa mẫn cảm  của con tim và nhận thức của khối óc . 


Nhạc điệu câu thơ hài hòa, tiết tấu nhịp nhàng ngân nga, âm hưởng sâu  sắc nồng nàn, tạo nên những cảm giác nhẹ nhàng êm ái dễ đi vào tâm hồn  người đọc. Cái phong cách của Đường Thi là một tổng hợp tinh vi của một  nghệ thuật xử dụng ngôn ngữ phong phú điêu luyện qua thi pháp, thể loại,  từ điệu, âm nhạc … đồng thời đã phản ảnh những quan điểm tích cực và  tiêu cực , những tư tưởng triết lý của nhà thơ , được ăn sâu như gốc rễ  qua các triều đại lịch sử …. Khi nhà thơ đã đắm chìm phong tỏa trước một  thế giới vật chất chung quanh, của một khung cảnh thiên nhiên bao la vô  hạn, con người thơ chỉ cảm thấy mình là một sinh vật nhỏ nhoi bất lực,  đành mang một tư tưởng yếm thế thụ động " Thuận thiên giả tồn, nghịch  thiên giả vong" … Có những nhà thơ suốt đời mang hoài bão " trí quân  trạch dân" , "kinh bang tế thế " đến khi gặp cảnh không may, gian khổ ,  cảnh ngộ éo le, thì chán nản buông xuôi thích tìm đến thiên nhiên với  cuộc đời "bán quan bán ẩn" … Họ đã tìm thú tiêu khiển bằng cách điền  viên ẩn dật, phỏng đạo cầu tiên …. Nội dung thơ miêu tả thú điền viên,  sơn thủy, lối sống ẩn dật thanh nhàn chịu ảnh hưởng đạo lý vô-vi đã  chiếm một vị trí quan trọng trong thơ Đường . Thiên nhiên của thơ Đường  bàng bạc tình Xuân , Hạ, Thu, Đông ……. Bốn mùa hoa lá thay màu, đâm chồi  nẩy lộc sẽ tuần tự biến thiên theo định luật vô thường của vũ trụ …  nhưng Tiết Thu, Tình Thu, Ý Thu mãi mãi là sức hút lôi cuốn mãnh liệt  muôn chiều của thi ca nghệ thuật trong nền văn hóa Đông Tây kim cổ ….

Phạm vi bài sưu khảo nầy đề cập đến Tình Thu trong Đường Thi, gồm khoảng  70 bài thơ Thu tiêu biểu xuất sắc của các thi sĩ nổi tiếng, những thiên  tài xuất chúng, những đại thụ sừng sững trên thi đàn Trung Quốc như Đỗ  Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Trương Kế, Vương Duy, Giả Đảo, Lưu Vũ Tích …  Đó là những ngôi sao lấp lánh trên thi đàn đời Đường Tống đã xử dụng bút  pháp tinh vi và mẫn tuệ tuyệt vời để ca ngợi một mùa Thu mênh mang, một  tình Thu dịu vợi, một ý Thu bàng bạc, một hồn Thu lâng lâng, trầm lặng  đến nao lòng của trăng sương, gió núi, với những phút giây thanh thản  hồn nhiên, trong nỗi bâng khuâng cánh nhạn bay về, hòa lòng xao xuyến  theo nhịp chày đập vải may áo, nỗi niềm ray rứt đón gió heo may the thắt  lạnh lùng, nỗi lòng ảm đạm nhìn ánh lửa bập bùng đom đóm trong đêm,  những tiếng tơ lòng khao khát ngân vang trầm mình trên những phím đàn  thánh thót dưới ánh trăng ngà, với lá ngô đồng rơi lả tả đầy ắp thềm  trăng. Bức tranh thu đã được tô đẹp bằng một vầng trăng thu huyền ảo …  Trăng soi lồng lộng trên sóng nước bập bềnh biến dòng sông thành một  giải lụa vàng óng ả . Trong một đêm trăng vắng vẻ nhà thơ Lý Bạch nằm  trong thư phòng, bóng trăng khe khẽ len qua khung cửa sổ rọi sáng đầu  giường, trong một không gian tịch mịch giữa đêm, hồn thơ đã nhập vào hồn  trăng bay lâng lâng vào một cõi mộng ảo vô cùng … Những tia sáng của  trăng chập chờn mờ ảo đã làm nhà thơ ngỡ ngàng như sương khói bao phủ  đầu giường, nhìn trăng mà lòng buồn vời vợi, ngỗn ngang trăm mối tơ lòng  … 

Có nỗi buồn nào ray rức da diết ngấm tận hồn bằng nỗi sầu nhớ cố hương, quê cha đất tổ :


Giường khuya trăng chiếu bời bời

Sương rơi phủ đất ngỡ đời chiêm bao

Ngẩng đầu trăng sáng trên cao

Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào.... cố hương.

(Tĩnh Dạ Tứ – Lý Bạch)


Bài thơ thu nầy đã vẽ lên một bức tranh sống động, có một âm hưởng tuyệt  vời, trở thành một bài nhạc phủ (khúc hát mùa thu) trác tuyệt của Đường  Thi .. "Ngưỡng đầu khán minh nguyệt, Ký tình thiên lý quang " (Ngẩng  nhìn trăng sáng lung linh, Xót thương nghìn dặm gửi tình quê xa) .Trăng  là người tình chung thủy của Lý Bạch, để cuối cùng trong một đêm say  khướt nhà thơ đã trầm mình xuống sông Trường Giang để được ôm vầng trăng  trăng huyền ảo để cùng với trăng vĩnh viển an giấc ngàn thu ….Không có  trăng nào đẹp bằng trăng thu, chẳng có trăng nào nào sáng hơn trăng quê  như Đỗ Phủ đã âm thầm hoài vọng thiết tha :


Tha phương đêm phủ màu sương trắng

Cố quận trăng soi ánh tỏ ngời.

(Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ – Đỗ Phủ)


Hãy tưởng tượng khi nhà thơ một mình nằm trên thuyền trong một đêm thu ,  nhìn những hàng cây lá phong đỏ ối, lả tả rơi rụng trên giòng sông cuốn  trôi, đóm lửa chài bập bùng, tiếng quạ kêu, và văng vẳng trong đêm  thanh vắng là tiếng chuông chùa ngân vang, ai mà chẳng chùng lòng não  nuột ….


Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ

Cầu phong đốm lửa giấc sầu mơ

Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng

Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ...

(Phong Kiều Dạ Bạc – Trương Kế)


Phong cảnh mùa thu đa tình đa cảm ru ngủ lòng người đã được diễn tả qua ngòi bút trác tuyệt tài tình của thi nhân:


Oanh vàng liễu biếc song song hót

Nhạn trắng trời xanh vút vút bay

Tây lĩnh nghìn thu sương tuyết phủ

Đông Ngô thuyền đậu lớp lớp đầy.

(Tuyệt Cú - Đỗ Phủ)


Mây chiều gom hết trời thu giá

Lẳng lặng sông Ngân đổ nguyệt đầy

Kiếp ấy đêm nao tình nở đẹp

Chốn nào trăng sáng hẹn cùng say ?

(Trung Thu Nguyệt - Tô Thức)


Ảm đạm trời thu điểm ánh thiều

Hán Cung lồng lộng gió phiêu phiêu

Lưa thưa sao sớm vờn chân nhạn

Réo rắt lầu khuya lộng sáo diều.

(Tràng An Thu Tịch -Triệu Cổ)


Mùa Thu là mùa của gợi nhớ mông lung, nhớ nhà, nhớ quê, nhớ gia đình của  những kẻ phải mang kiếp sống tha phương lênh đênh nơi xứ lạ quê người,  cái nỗi niềm cô độc lầm than của một kiếp sống ly hương:


Lưa thưa sao sớm vờn chân nhạn

Réo rắt lầu khuya lộng sáo diều

Sông quê mùa cá, chưa về xứ

Đày đọa phương người, phận hẩm hiu.

(Tràng An Thu Tịch – Triệu Cổ)


Tùng cúc hai lần rơi lệ uất

Đò đơn một độ khóc quê ròng

Thấu xương cơn rét cần may áo

Bạch Đế chày buông tiếng chập chùng.

(Thu Hứng – Đỗ Phủ)


Có những bài thơ Thu đã được sáng tác để ghi nhớ, hồi tưởng lại một giai  đoạn lịch sử nào đó, nhớ lại một thời vàng son nhung gấm , khi nhà thơ  đã nhập thế, làm quan, lo việc triều cung, nhưng đôi khi gặp hoàn cảnh  không may, không được thăng quan tiến chức, mà thất vọng chán nản, đành  thúc thủ an phận, chấp nhận số mệnh một cách tiêu cực theo đạo lý Trung  Dung : "Thượng oán bất thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị dĩ sĩ mệnh" (Trên  không oán trời, dưới không trách người, sống bình dị đợi mệnh)


Nức nở ve kêu thương nguyệt úa

Não nùng đom đóm khóc chiều ngây

Tài văn bao thuở triều cung hiến

Thở vắn đêm sương lệ ứa đầy.

(Tân Thu – Đỗ Phủ)


Ghé bến thu sầu đau dạ khách

Lên non tuổi hạc xót thương mình

Phơ phơ tóc trắng đời chao đảo

Lắm nỗi chua cay, rượu chẳng đành.

(Đăng Cao – Đỗ Phủ)


Lê gót phong trần, thư bặt tín

Dặm trường quan tái, bước gian nan

Mười năm lủi thủi đời hiu quạnh

Thúc thủ giờ đây sống tịnh an.

( Túc Phủ – Đỗ Phủ)


Những hạt mưa thu rơi thánh thót bên song gợi nỗi sầu hiu hắt, cảnh lòng  quạnh quẽ cô đơn, sau tháng ngày đăng đẳng việc triều cung, nay ngồi  ngẫm nghĩ về thân phận con người và cuộc đời :


Nắng tàn dạo mát hồ trong

Lăn tăn sóng nước gợi lòng cô liêu

Sự đời trôi nổi đã nhiều

Hỏi con nước chảy còn điều thở than ?

(Thu Nhật Hồ Thượng - Tịch Huỳnh)


Cái chế độ phong-kiến của Trung Quốc đôi khi chỉ là một lớp son phô  trương lòe loẹt, một phồn vinh giả tạo, một tập đoàn bè phái vương tộc,  những nhà nho nhập cuộc với quan điểm "nhập thế hành động", nhưng đôi  khi họ cảm thấy chán nản vì không thực hiện được cái hoài bão to lớn của  họ mà họ ngán ngẩm thời thế ,đành phải từ bỏ áo mũ xênh xang, quyền cao  chức trọng, để lui về ẩn dật, vui thú điền viên, bỏ hết tục lụy trần  ai, dùng ngòi bút ca ngợi sự thanh nhàn theo quan điểm đạo Phật "xuất  thế vô vi" , hoặc cầu cứu đến phép vô sinh, thuốc tiên huyễn hoặc phù  phiếm ….


Người Nam, kẻ Bắc dừng đây

Gió qua sông Sở lắt lay bãi tần

Thu sầu khó cảm thiền nhân

Mình ta đầu núi, lòng lâng lâng buồn.

(Đề Hoài Nam Tự – Trình Hiệu)


Tóc trắng mong đen nào ước được ?

Thuốc tiên muốn luyện khó cầu may

Tuổi già suy yếu ai nào cưỡng ?

Đạt phép vô sinh nguyện ước đầy.

(Thu Dạ Độc Tọa – Vương Duy)


Cái triết lý về cuộc đời, nhân sinh quan cũng thấy trong những bài thơ  thu, theo quan điểm cuộc đời chỉ là một giấc hoàng lương mộng, kiếp sống  tạm bợ, phù du :


Cây tàn gợi khách lòng đau

Đêm nghe tiếng gió thu sầu vi vu

Sớm soi gương tóc rối bù

Bóng hình in kiếp phù du ngỡ ngàng.

(Thu Triêu Lãm Kính -Tiết Tắc)


Dặm trường tóc trắng mây bay

Sầu bao nhiêu nỗi đong đầy khôn vơi

Thẫn thờ lặng ngắm gương soi

Sương thu nào thấy bên đời phù du ?

(Thu Phố Ca - Lý Bạch)


Có những bài thơ nói lên cảnh biên tái thời cảnh chiến chinh, binh đao khói lửa, cảnh chiến trường thảm khốc thê lương ảm đạm:


Sông thu ngựa uống sa đà

Nước se se lạnh, gió sà cắt da

Cát đìu hiu quạnh bóng tà

Lâm Thao chốn cũ xa xa rập rình

Trường Thành bao độ chiến chinh

Nêu gương tiết khí, vẹn tình nước non

Tấc lòng kim cổ sắt son

Phau phau xương trắng chập chờn cỏ lau.

( Tái Hạ Khúc - Vương Xương Linh)


và nỗi lòng của người chinh-phụ ở quê nhà, nhớ chồng đi thú đồn xa, đó  là những cảm xúc nội tâm quằn quại , đau thương của thời chinh chiến, có  bao người ra đi mà trở lại :


Trường An lẻ bóng trăng côi

Tiếng chày đập vải buông lơi bốn bề

Gió thu dìu dặt lê thê

Chắc từ quan ải lùa về đêm mơ

Bao giờ hết giặc hung đồ

Chàng thôi chinh chiến, em chờ bên song.

(Tử Dạ Ngô Ca - Lý Bạch)


Đó là những nỗi ngậm ngùi xót xa, những lời u uất, than oán, sầu hận của  người vợ thương nhớ chồng đang dãi nắng dầm sương nơi biên tái với bao  gian nan hiểm nguy đang rập rình chờ đợi, và người chinh phụ ở quê nhà  chỉ biết vào ra canh cửi


Chàng đi quan ải xa xôi

Đá xanh em rửa, bồi hồi thu sang

Xác xơ cây cỏ héo tàn

Thêm sầu ly biệt bẽ bàng vấn vương

Áo thời em giặt em thương

Nôn nao gửi kịp biên cương cho chồng

Thêu thùa em chẳng ngại công

Chàng ơi có thấu tiếng lòng phu thê...

(Đảo Y - Đỗ Phủ)


Có những bài thơ đã nói lên cái hoàn cảnh xã hội bi đát của một chế độ  "phong kiến tôn quân", người phụ nử trở thành một nô bộc, một công cụ  vui chơi để thỏa mãn nhu

cầu sắc dục của vua chúa . Cái quan điểm chồng chúa vợ tôi đã được thi  hành một cách triệt để : "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử  tòng tử ", tình yêu đã bị phủ nhận, hạnh phúc bị triệt tiêu … đó là số  phận hẩm hiu chua xót của các cung tần mỹ nữ , đã phải từ bỏ cuộc sống  gia đình chân chính để bị đầy đọa trong thâm cung lặng lẽ, nhan sắc héo  mòn với thời gian, tuổi trẻ tàn phai bị chôn vùi một cách tức tưởi một  khi họ không còn được vua chúa ân sủng nữa. Đó là những bài thơ có tính  cách xã hội đã lột trần phơi bày cái giai cấp thống trị độc ác, bạc bẽo  và bất nhân . Những tâm trạng chua xót của các cung tần mỹ nữ sống cô  đơn mỗi độ thu về , mặc dầu chỉ là những lời than trách nhẹ nhàng và  chịu đựng ….


Móc sương ướt đẫm cung thềm ngọc

Chăn gấm đêm trường thấm lạnh thân

Buông bức rèm gương lòng thổn thức

Trăng thu ngóng đợi sáng đầy sân.

(Ngọc Giai Oán - Lý Bạch)


Sen thắm đâu bằng sắc mỹ nhân

Gió lùa Thủy Điện ngát châu thân

Quạt thu che kín ôm sầu hận

Trăng đợi quân vương mãi trắng ngần.

(Tây Cung Thu Oán -Vương Xương Linh)


Cái nỗi khát khao tìm kiếm một hạnh phúc gia đình bình dị của người cung  nữ với nỗi sầu khôn nguôi năm tháng, ôm hận nhìn dòng nước chảy nhanh,  như vô tình xô đẩy tuổi thanh xuân không chút xót thương, người cung nữ  đã phải đề bài thơ trên chiếc lá phong đỏ úa thả xuống dòng sông, theo  nước cuốn trôi hờ hững, mong rằng một kẻ tha nhân nào đó nhặt chiếc lá,  để đọc được những ý nghĩ thầm kín tha thiết của người cung phi bị tù ải  lâu đời muốn nhắn nhủ:


Sông sâu nước chảy xiết cùng

Thâm cung nhàn rỗi, não nùng thâu đêm

Lá hồng … gửi gắm lòng em

Người ơi thấu hiểu nỗi niềm cấm cung ?

(Đề Hồng Diệp -Hàn Thị)


Đọc thơ Đường để cảm nhận tiếng lòng xao xuyến của người xưa vọng lại  của hồn xưa trăn trở còn phảng phất đâu đây... Những bài thơ thu với  những từ diệu điêu luyện, ý tưởng phong phú, cảnh tình thắm thiết … đậm  đà tình cảm sâu sắc, nồng nàn, với những ngôn ngữ thâm thúy, tự nhiên  hàm súc, ý tưởng chân thật thanh đạm , luật thi rất tinh mật , hoặc có  những bài thơ giàu chất trí tuệ hơn cảm xúc …. Những tâm tình của người  xưa : tình bạn hữu, tình vợ chồng, tình vua tôi , và ít oi những bài thơ  ca tụng tình yêu đã bàng bạc trong những bài thơ đậm đà màu sắc nghĩa  tình, đạo lý ….

Những nỗi bồi hồi, thao thức nhớ bạn tri âm, trằn trọc đêm dài ...


Nhớ bạn đêm thu thổn thức chờ

Trời thanh, dạo mát, động hồn thơ

Thông rơi lả tả bên đồi vắng

Khắc khoải năm canh ngủ vật vờ.

(Thu Dạ Ký Khâu Vương Ngoại - Vi Ứng Vật)


Những phút giây thanh thản vô tư quên đời , dạo chơi trên Động đình Hồ, thưởng ngoạn trăng thanh gió mát bến Tiêu Tương ….


Đã luống sầu vương, quên đọc sách

Thôi đành tìm rượu, đến lầu xinh

Lạc Dương nhớ bạn, thầm khao khát

Hội ngộ chung vui vẹn nghĩa tình.

(Đồng Vương Chinh Quân Tương Trung Hữu Hoài -Trương Vị)


Có những bài thơ man mác tình hoài cổ, trong một đêm thu giữa cảnh trời  đất mênh mông bát ngát, người thơ bỗng cảm thấy lòng trống trải cô đơn ,  nghĩ đến chuyện xưa tích cũ mà ngao ngán ngậm ngùi nghĩ chuyện đời nay,  tìm đâu ra người tri âm tri kỷ ? Nhà thơ đã dùng quá khứ để làm lăng  kính chiếu vào hiện tại bằng những tia sáng triết lý muôn màu nói lên sự  biến đổi của nhân thường thế thái khi thời gian như một con nước chảy  qua cầu và vũ trụ biến đổi không ngừng …..


Thuyền thu ngắm cảnh trăng thâu

Tạ quân chuyện cũ nhớ rầu rĩ ai

Cất cao vút giọng ngâm dài

Người xưa nào biết lòng này hay chăng ?

Mai thuyền bỏ bến buồm căng

Lá phong rơi rụng bẽ bàng người đi...

(Dạ Bạc Ngưu Chử Hoài Cổ -Lý Bạch)


Khói vương hơi lạnh vàng cây cỏ

Thu nhuốm sắc tà bạc lá ngô

Lầu Bắc chiều buông khơi tưởng nhớ

Cảm hoài Ông Tạ, gió thu mơ...

(Thu Đăng Tuyên Thành Tạ Diêu Bắc Lâu - Lý Bạch)


Và trong cái nỗi khắc khoải suy tư đó, nhà thơ chỉ ước ao thầm mong có  một kẻ tri âm, một tâm hồn đồng điệu, và có những đêm dài nhà thơ đã  trăn trở, trằn trọc, dằn vặt , đay nghiến, cấu xé với hồn thơ và con chữ  như Giả Đảo :


Hai câu ròng rã ba năm

Rưng rưng ngấn lệ... sầu ngâm, tủi thầm

Ngậm ngùi vắng bóng tri âm

Thu về góc núi đêm nằm suy tư.

(Tuyệt Cú -Giả Đảo)


Một số ít bài thơ ca tụng tình yêu, mang tích chất lãng mạn, lẳng lơ,  mặc dầu rất ít oi , đã đem lại những luồng gió tươi mát, ngan ngát mùi  hương phấn da thịt ….


Trăng thu rón rén xuyên mành

Áo xiêm cởi nhẹ, đèn hanh hanh mờ

Tiếng cười khẽ động màn tơ

Ưỡn mình, lan huệ thẫn thờ ngát hương.

(Tử Dạ Thu Ca - Khuyết Danh)


Lối mòn phủ ánh hoàng hôn

Ai cùng ai thấu nỗi buồn của nhau ?

Đường xưa khuất bóng, lòng đau

Gió thu xao động nhánh sầu lúa non.

(Thu Nhật -Cảnh Vi)


Một bài thơ Đường khi đã đạt đến mức độ toàn mỹ và trác tuyệt, mỗi một  chữ, một lời, một ý như những viên ngọc quí đã được kết hợp hài hòa, chi  ly, để hình tạo một chuỗi kim cương lấp lánh , một giải giai-chương  tuyệt vời... Vì lòng đam mê văn chương và thi ca, tác giả mạo muội chỉ  xin mượn ý và phỏng dịch từ Thơ ra Thơ. Vì phải giữ cấu tứ, âm điệu, thể  cách, luật bằng trắc nên chắc chắc có rất nhiều thiếu sót vì nhiều chữ  không được sát nghĩa, khó lột đúng tinh thần nguyên tác, cái khó khăn là  phải giữ cái hồn thơ và ý thơ của nguyên bản, và đồng thời thi điệu của  bài thơ dịch. Hơn nữa có một số chữ và câu trong bài thơ Đường sau  nhiều lần trước tác, biên soạn, đã tam sao thất bản, gây sự sôi động bàn  cãi nhiều lần. Khi nước ta có chữ quốc ngữ và tiếng Việt càng ngày càng  được cải cách phong phú và dồi dào, đã có rất nhiều nhà chuyên khảo Hán  Học uyên bác, các đại học giả tiền bối đã dịch Thơ Đường với những bản  dịch trác tuyệt và tài hoa. Nhưng mỗi dịch giả có một cách dịch thâm  thúy khác nhau dưới các khía cạnh thưởng ngoạn đa dạng và cảm xúc rung  động muôn chiều khi đọc, ngâm, vịnh một bài thơ Đường .


... Nếu có gì thiếu sót và bất cẩn, mong sự lượng thứ và thông cảm của  quí bậc túc nho trưởng thượng và quí bạn đọc yêu thơ .Vì lý do kỹ thuật  về nhu- liệu, rất tiếc chưa in được nguyên tác chữ Hán của mỗi bài thơ  Đường, tác giả mong bạn đọc lượng thứ .


                                                                                    

Hải Đà - Vương Ngọc Long

(Mùa Thu 2001)




Top