• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Tình hình chính trị - xã hội của đàng trong việt nam vào thế kỷ xviii

Trang Dimple

New member
Xu
38
TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA ĐÀNG TRONG VIỆT NAM VÀO THẾ KỈ XVIII

1.Sự thối nát của chính quyền phong kiến họ Nguyễn

Thế kỷ XVI – XVIII là giai đoạn diễn ra nhiều biến đổi trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội trong lịch sử dân tộc. Sự tha hóa của bộ mày nhà nước đã làm cho tình hình xã hội thêm rối ren. Các thế lực địa phương nổi lên. Đất nước bước vào thời kỳ loạn lạc. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Sự xuất hiện của nhà Mạc làm cho tình hình thêm phức tạp, tạo nên cục diện Nam – Bắc triều. Trong khi chiến tranh Nam – Bắc triều chưa kết thúc thì cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh lại diễn ra, đưa đất nước vào cảnh huynh đệ tương tàn, đất nước bị chia làm hai miền.

Ở Đàng Ngoài, triều Lê Trung hưng không còn đủ khả năng lập lại một chính quyền trung ương tập quyền vững mạnh như trước mà phải dựa hẳn vào các thế lực của họ Trịnh. Thiết chế triều đình – phủ chúa thực chất là sự nương tựa vào nhau của hai thế lực: vua Lê – đã mất hết sinh khí nhưng có hào quan của quá khứ, ít nhiều có uy tín trong dân chúng và Chúa Trịnh – những người có thực lực quân sự. Trong thiết chế này, mọi quyền lực đều nằm trong tay chúa Trịnh còn vua Lê chỉ là bù nhìn. Càng về thế kỷ thứ XVIII, bộ máy chính quyền càng mục nát đến cực độ, đặc biệt là từ khi Trịnh Sâm lên nắm quyền(1767). Triều đình mục rỗng, quan lại địa phương tham tiền, thiên tai mất mùa làm cho nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng. Khủng hoảng ở Đàng Ngoài bước vào giai đoạn sâu sắc và toàn diện.

Ở Đàng Trong, trong những ngày đầu nam tiến, do nhu cầu tăng tiềm lực cho vùng đất mình cai trị, làm cơ sở chống lại chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn đã thi hành những chính sách cởi mở để phát triển kinh tế và mở rộng lãnh thổ. Trong vòng hai thế kỷ, lãnh thổ Đàng trong đã phát triển đến tận mũi Cà Mau. Đồng bằng sông Cửu long trở thành trung tâm nông nghiệp lớn trong khu vực.

Tuy nhiên, vào nửa đầu thế kỷ XVIII, trong khi chế độ phong kiến Đàng Ngoài đã bộc lộ rõ bước đường suy yếu của nó, thì ở Đàng Trong, chế độ phong kiến họ Nguyễn bước vào thời kỳ tiền khủng hoảng.

Sau khi chiến tranh Trịnh – Nguyễn chấm dứt(1672), nền thống trị của họ Nguyễn được củng cố: địa vị cát cứ, quyền lực chính trị, thế lực kinh tế ổn định… Giai cấp thống trị họ Nguyễn tăng cường bóc lột nhân dân, tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược.

Sau khi địa vị chính trị đã được củng cố vững chắc, giai cấp thống trị Đàng Trong ngày càng sống xa hoa, trụy lạc, chỉ biết chăm lo củng cố quyền lực và lợi ích riêng của mình.

Trên cơ sở bóc lột nhân dân trong nước và gây ra các cuộc chiến tranh cướp bóc các nước láng giềng phương Nam, giai cấp thống trị họ Nguyễn trở nên rất giàu có. Từ chúa Nguyễn đến các tầng lớp quý tộc, quan lại, địa chủ ở khắp nơi đua nhau ăn chơi rất xa xỉ trên nồ hôi và nước mắt của quần chúng lao động nghèo khổ.

Các chúa Nguyễn không ngừng tăng cường xây dựng các lâu đài ở kinh đô mới. Từ năm 1687, Nguyễn Phúc Trăn cho dời kinh đô từ Ái Tử (Quảng Trị) về Phú Xuân (Huế). Kinh đô Huế được xây dựng không chỉ lớn mạnh về quy mô mà công nhiều công trình chùa chiền, miếu mạo.

Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) tự cho mình là sùng đạo Phật, lấy hiệu là Thiên Túng nhân đạo để xây dựng nhiều chùa tháp. Năm 1714, Nguyễn Phúc Chu sai trùng tu và mở rộng chùa Thiên Mụ, bắt hàng ngàn người phục vụ trong cả năm trời. Y còn sai người sang Triết Giang (Trung Quốc) mua Kinh Đại Tạng cùng với các thứ luật lệ, mua trên 1000 bộ về đặt trong chùa. Nhưng đời sống của riêng ông ta thì rất xa hoa, trụy lạc, một mình có 146 người con.

Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, cho xây dựng kinh đô ở Phú Xuân (Huế). Quan lại cấp cao đua nhau xây dựng dinh thự, tiêu phí vô cùng tốn kém cho việc ăn chơi, tổ chức yến tiệc linh đình. Họ “coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ hết mực”. Tiền của cung ứng cho cuộc sống xa hoa của nhà Nguyễn đều bổ vào đầu dân. Trong vòng 7 năm (1746 – 1752), chúa Nguyễn thu vào 5.768 lượng vàng, 45.404 lượng bạc, 2 triệu quan tiền. Số dân phải đóng góp còn gấp 2, 3 lần số đó vì “về nhà nước được một phần thì kẻ trưng thu lấy 2 phần”. Theo nhận xét của Lê Qúy Đôn: “hàng năm có hàng trăm thứ thuế mà trưng thu thì phiền phức, gian lận, nhân dân khổ vì nởi một cổ hai tròng”.

Đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777), chính quyền họ Nguyễn ngày càng thêm thối nát hơn. Thần quyền Trương Thúc Loan đã phế truất Hoàng Tôn Dương, đưa Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa khi mới 12 tuổi. Mặc dù mới 12 tuổi nhưng cũng rất hoang dâm, tốn kém, Nguyễn Phúc Thuần tự xưng là “Khách Phủ Đạo Nhân” ngày đêm bày trò ca hát, không lo gì đến triều chính.

Quyền thần Trương Thúc Loan thâu tóm mọi quyền hành, lôi bè kéo phái. Ông ta một mình 5 lộc lớn, hằng năm thu trên 200 lạng bạc, tham ô từ 3 – 4 vạn quan tiền. Tương truyền, hằng năm y bắt quan lại, bính lính nộp 5 gánh dây mây dùng để xâu tiền. Trong nhà Loan “vàng bạc, châu báu, gấm vóc đầy rẫy, nô bộc, trâu ngựa không biết bao nhiêu mà kể xiết. Qua mỗi mùa mưa, Loan đem vàng bạc ra phơi nắng sáng chói cả góc sân”. Nội bộ chính quyền phân chia bè phái, những người chống Loan đều bị giết hại.

Chúa đã như vây, bọn triều thần cũng ăn chơi, rượi chè, dâm dặt không kém. Một đại thần như Nguyễn Hoãn suốt ngày đêm say rượi. Một đại thần khác như Nguyễn Nghiễn có tớ 12o vợ lẽ, nàng hầu.

Giai cấp phong kiến từ địa phương đến trung ương đều xa hoa, chúng đua nhau ăn chơi, đực khoét của dân, tạo ra những tệ nạn xã hội. Hệ thống quan lại cồng kền, ăn bám, thối nát. Quan trường trở thành nơi làm giàu của bọn quan lại, do vậy nạn mua bán quan tước diễn ra rất phổ biến. Bộ máy chính quyền càng to phình, thối nát, ngu dốt.

Như vậy, bức tranh toàn cảnh tình hình chính trị của Việt Nam trong thế kỷ XVIII nói chung và của Đàng Trong nói riêng, chế độ phong kiến đang bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc, trầm trọng. Cơ đồ thống trị của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn đang lung lay tới tận gốc rễ.

Sứ mệnh quật nhào thế lực phong kiến rỗng mục ấy, lịch sử đã trao cho phong trào Tây Sơn.

.2. Kinh tế suy thoái, đời sống nhân dân cùng cực ở Đàng Trong

Trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh và sau đó là giai đoạn đất nước bị chia cắt, kinh tế Đàng Trong có sự phát triển hơn Đàng Ngoài. Với ưu thế đó thì những dấu hiệu suy thoái kinh tế ở vùng đất phía nam cũng đến chậm hơn

Đầu tiên là ngoại thương sa sút: lúc này tàu buôn phương tây hầu như không đến nữa, tàu buôn nước ngoài tham gia vào hoạt động ngoại thương ở Đàng Trong chỉ có thương nhân Hoa Kiều. Năm 1773, toàn bộ số tàu đến Hội An chỉ có 8 chiếc.

Đàng trong không có mỏ đồng nên thứ nguyên liệu này phải nhập khẩu hoàn toàn. Khi ngoại thương suy giảm, đồng để đức tiền củng không đủ. Họ Nguyễn cho phép tư nhân được đúc tiền tự do để thu lợi. Kết cục đã gây ra tình tạng rối loạn nội tệ, mà sử học gọi là “nạn tiền hoang”. Trong khi tình hình ngoại thương suy thoái gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế hàng hóa thì sự rối loạn tiền tệ đã dẫn đến tình trạng đầu cơ tích trữ, làm ngưng truệ mọi hoạt động lưu thông. Các đô thị mới đều hưng thịnh như Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn dần dần lụi tàn.

Sự suy thoái kinh tế thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là ở vùng Thuận Quảng. Đây là nơi đất chật người đông, vậy mà từ giữa thế kỷ XVIII, hiện tượng dân bỏ ruộng hoang ngày càng trở nên phổ biến. Huyện nào cũng có ruộng đất bị bỏ hoang. Trong khi đó, những ruộng đất tốt lại bị “bọn nhà giàu xâm chiếm khiến người nghèo không có mảnh đất cắm dùi, cho nên người giàu càng giàu, người nghèo càng nghèo”. Các ngành thủ công nghiệp, khai thác lâm sản… cũng sa sút.

Kinh tế Đàng Trong lâm vào tình trạng đình đốn, suy thoái nghiêm trọng. Kinh tế suy thoái, thế nkháo nặng nề, quan lại tham nhũng đã làm cho đời sống nhân dân Đàng Trong cơ cực, gây bất bình cho mọi tầng lớp nhân dân. Từ những năm 30, thiên tai lụt lội xảy ra liên miên khiến cho những vùng đất trù phú nhất cũng lâm vào nạn đói.

Năm 1752, một nạn đói lứon đã xảy ra làm cho nhiều người chết đói. Đói kém xảy ra liên tục trong 4, 5 năm liền. Thê thảm nhất là nạn đói lớn ở Thuận Hóa 1774. Theo lời mô tả của giáo sĩ La Bactet thì: “gạo đắt như vàng (…) tình trạng đói khổ đã bày ra lắm cảnh thương tâm khó tả, xác chết chồng lên nhau”.

Tình hình tập trung ruộng đất rất cao, phần lớn ruộng đất đều tập trung trong tay giai cấp địa chủ giàu có. Do đó, quá trình kiêm tính ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến ngày càng quyết liệt hơn. Giai cấp nông dân ở đây cực khổ, bị đè nặng dưới chế đô bóc lột địa tô của địa chủ và mâu thuẩn giai cấp ngày càng triử nên sâu sắc.

Ngoài sự cướp đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ, nông dân còn phải chịu thêm gánh nặng thuế khóa. Vào cuối thế kỷ XVIII, họ Nguyễn tăng thêm một số ngạch thuế của và đặt thêm một số thứ thuế khác. Riêng thuế đò, thuế chợ cũng tăng lên gấp bội.

Nhân dân Đàng Trong còn phải nộp cho bọn quan lại để miễm thuế nhân đinh. Nông dân bị cướp đoạt ruộng đất, bị bóc lột bằng tô thuế, lao dịch nên phần lớn bị phá sản. Tình trạng nợ tô thuế triền miên không trả được, năm 1765, Nguyễn Phúc Thuần ra lệnh truy thu thuế thiếu từ 10 năm trước.

Mất mùa do hạn hán lụt lội thường xuyên xảy ra làm cho tình trạng đói kém diễn ra một cách thường xuyên. Những năm 1706, 1712, 1735, 1736… đều có nạn lụt lớn, nhất là Quảng Nam.

Năm 1752, nạn đói lại xảy ra, một phương gạo đến 3 quan tiền.

Năm 1774, cả xứ Thuận Hóa lâm vào nạn đói lớn “ người ta phải ăn thịt nhau”.

Tình trạng không được chính quyền phong kiến và giai cấp địa chủ giải quyết càng làm cho nền kinh tế nông nghiệp bị suy sụp.

Như vậy, do sự thối nát của chính quyền phong kiến ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, mà đời sống nhân dân trở nên khốn cùng. Mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến ngày càng gay gắt, nông dân không còn con đừơng nào khác là phải nổi dậy khởi nghĩa.
3. Phong trào nông dân bùng lên rầm rộ

Trong lịch sử dân tộc, thế kỷ XVIII được mệnh danh là “ thế kỷ chiến tranh nông dân”. Cuộc khủng hoảngvề chính trị diễn ra ở cả hai miền, do vậy phong trào nông dân diễn ra suốt chiều dài đất nước.

Chính quyền Lê – Trịnh tỏ ra hoàn toàn bất lực trước các vấn đề kinh tế - xã hội. Triều đình mục nát, suy đồi. Các vùng nông thôn bị các thế lực cường hào, lý dịch thao túng. Đất đai bị tranh chiếm, dân nghèo bị ức hiếp, nông dân bị đẩy ra khỏi làng xã, trở thành lực lượng xã hội đông đảo, bất bình với chính quyền phong kiến. Do vậy, hộ đã đứng dậy đấu tranh. Các phong trào phát triển sâu rộng ở cả miền núi và miền xuôi, trong đó có cả những cuộc khởi nghĩa thu hút cả hàng vạn người tham gia và kiên cường bền bỉ đứng dậy đấu tranh chống lại ách áp bức, cường quyền hàng chục năm. Tiêu biểu như các cuộc khởi nghĩa Lê Duy Mật(1738 – 1770), Hoàng Công Chất(1739 – 1769), Nguyễn Hữu Cầu(1741 – 1751), Nguyễn Danh Phương(1741 – 1751). Tuy nhiên, những phong trào này đến năm 1770 đều bị dập tắt. Mặt yếu của các phong trào nông dân trong giai đoạn này là bế tắc về đường lối. Các cuộc khởi nghĩa chỉ thể hiện sự phản kháng quyết liệt của những người bị trị cùng khổ đối với chính quyền tham nhũng tàn bạo, họ không đưa ra được bất cứ một chương trình cải cách tiến bộ nào và với bản chất nông dân họ không có được sự liên kết thống nhất. Do vậy, sự thất bại trong các phong trào là không thể tránh khỏi. Mặt dù thất bại, nhưng phong trào của nông dân Đàng Ngoài cũng đã buộc chính quyền phong kiến phải điều chỉnh chính sách cai trị, và thúc đẩy sự sụp đổ của chính quyền phong kiến Lê – Trịnh.

Với Đàng Trong, sau một thời kỳ phát triển, xã hội Đàng Trong cũng không tránh được sự suy thoái, khủng hoảng.

Giữa thế kỷ XVIII, sử sách đã bắt đầu chép nhiều đến hiện tượng “trộm cướp nổi dậy tứ tung”. Cuộc sống khốn cùng đã đẩy người dân vào con đường cầm vũ khí vùng lên đấu tranh.

Năm 1747, ở Gia Định, cuộc khởi nghĩa của thưong nhân Hoa Kiều cùng Văn Quang cầm đầu bùng nổ. Bât bình với chính sách chèn ép thương nhân của Nguyễn Phúc Khoát, Quang nhóm họp bạn bè khoản 300 người, chiếm cứ bãi Đông Phố và dự định đánh úp dinh Trấn Biên. Tuy nhiên cuộc nổi dậy chóng bị dập tắt.

Lẻ tẻ ở nhiều nơi cũng nổ ra những cuộc bạo động của nông dân. Cho đến trước phong trào Tây Sơn, khởi nghĩa lớn nhất là cuộc nổi dậy ở phủ quy Nhơn do Lía lãnh đạo. Vốn xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, đã từng phải đi ăn xin, đi ở cho địa chủ, chàng Lía đã sớm nhận ra sự bất công trong xã hội và thấu hiểu nổi thống khổ của nhân dân. Là người khí khái, có sức khẻo và giỏi võ nghệ, khi gặp nạn đói xảy ra, nhân dân phẩn uất, Lía đã tập hợp dân nghèo nổi dậy khởi nghĩa. Nghĩa quân Lía đã xây dựng căn cứ ở Truông Mây (nay thuộc xã An Đức, Hoài an, Bình Định) để chống lại họ Nguyễn. Hoạt động chủ yếu của nghĩa quân là đánh cướp nhà giàu, lấy gạo, của cải chia cho người nghèo. Cuối cùng cuộc khởi nghĩa cũng bị đàn áp, căn cứ Truông Mây bị vây hãm, Lía buộc phải tự sát.

Các cuộc đấu tranh của người Chăm cũng đã diễn ra mạnh mẽ. Lớn nhất là cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Dương Bao Lai, Diệp Mã Lăng ở trấn Thuận Thành vào năm 1746. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã giáng vào nền thống trị của ho Nguyễn một đòn mạnh mẽ. Năm 1714, nhân dân các dân tộc thiểu số ở Cam Lộ (Quảng Trị) cũng nổi dậy gây cho họ Nguyễn nhiều lúng túng.

Như vậy, tình thế cách mạng sôi sục trong cả nước cùng với sự suy yếu cực độ của các thế lực phong kiến và sự dạn dày chiến đấu của những người nông dân ở thế kỷ XVIII đã là nhân tố hết sức quan trọng giúp cho phong trào nông dân ở cuối thế kỷ XVIII có thể phát động thành một cuộc chiến tranh nông dân lớn mạnh đủ sức đánh tan mọi thế lực phong kiến lớn nhỏ trong cả nước. Chính trong hoàn cảnh lịch sử thuận lợi đó, phong trào nông dân Tây Sơn đã xuất hiên và có đủ điều kiên để phát triển ngày càng lớn mạnh.
Nguồn :diendan kienthuc.net*
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top