Tính dân tộc trong lý luân văn nghệ

Tính dân tộc trong lý luân văn nghệ

1.1 Trước nay các nhà nghiên cứu thường bàn đến bản sắc dân tộc trong các hoạt động văn nghệ nhất là các sản phẩm văn nghệ (*). Điều này tất có lý do chính đáng của nó. Bởi nói gì thì nói, giá trị của văn nghệ bao giờ cũng được biểu hiện tập trung trong các tác phẩm văn nghệ, nơi thể hiện sinh động đời sống, bộc lộ rõ rệt tính cách dân tộc, nơi công chúng nghệ thuật nhiều đời đến soi mình vào đó, hoặc là nhận ra chính mình (đối với người cùng dân tộc) hoặc là nhận ra điểm không giống mình (đối với người khác dân tộc) nhằm tăng ý thức về mình trong cộng đồng nhân loại. Gia tăng tính dân tộc của tác phẩm nghệ thuật luôn nằm trong ý thức sáng tạo sâu xa của người nghệ sỹ nếu họ còn mong muốn sản phẩm tinh thần được tạo nên bằng lao động đam mê và khổ ải thuộc về dân tộc mình, từ đó có điều kiện thuộc về các dân tộc khác.

1.2 Tuy nhiên, nếu còn xem hoạt động nghệ thuật chủ yếu là một loại hoạt động mang tính tự giác cao của con người thì việc nhìn nhận tính dân tộc từ giác độ quan niệm nghệ thuật cần phải đặt ra. Ai cũng biết, quan niệm thẩm mỹ có vai trò quyết định đối với các hoạt động thẩm mỹ trong đó có hoạt động nghệ thuật. Có thể nói, mọi khâu của quá trình sáng tạo, từ thu thập tài liệu, nảy sinh ý đồ, thể hiện hình tượng đến sự tiếp nhận của công chúng đều bị chi phối bởi quan niệm nghệ thuật. Việc trau dồi, nâng cao cái nhìn nghệ thuật về đời sống sao cho thật đúng đắn và sắc sảo luôn được các nghệ sỹ mọi thời mọi nước đặt ra. Do vậy mà một nghệ sỹ có ý thức về tính dân tộc trong sáng tạo không thể không quan tâm tới việc thường xuyên gắn sự nghiệp sáng tạo của mình với số phận và đời sống của dân tộc.

1.3 Tính dân tộc trong quan niệm nghệ thuật càng có ý nghĩa trong thời đại ngày nay khi việc hợp tác về nhiều mặt nhất là về quân sự và kinh tế đang trở thành xu thế chung trong khu vực và toàn cầu. Đã xuất hiện quan niệm lầm lạc, rằng để xây mái nhà chung cho cả nhân loại phải thủ tiêu dần những nét riêng của từng dân tộc, rằng điều này đúng với mọi lãnh vực không loại trừ cả văn hóa, văn nghệ. Ta không thể tán đồng với những ý kiến như thế. Giờ đây, hơn lúc nào hết, cái nhìn của Marx và Engel ở thế kỷ XIX về “nền văn hóa quốc tế” vẫn còn soi sáng con đường chúng ta. Đúng như nhận định của Lênin: “ Khi nêu ra khẩu hiệu “nền văn hóa quốc tế của chủ nghĩa dân chủ và của phong trào công nhân thế giới”, chúng tôi chỉ lấy của mỗi một nền văn hóa dân tộc , riêng những thành phần dân chủ và chủ nghĩa xã hội của nó, chúng tôi lấy những thành phần đó chỉ vì và tuyệt đối vì đối lập với nền văn hóa tư sản với chủ nghĩa dân tộc tư sản của mỗi một dân tộc” (Về văn hóa và nghệ thuật – Nxb Sự thật, t.r 342,343) .

2.1. Tính dân tộc trong lý luận văn nghệ có thể xem xét ở nhiều góc độ như : Biểu hiện chung và biểu hiện cụ thể trong các công trình lý luận ở các thời kỳ; ý kiến của cha ông và ý kiến của các nhà lý luận trên thế giới; quan hệ với đường lối văn nghệ của Đảng Cộng sản và triết học, mỹ học mácxít… Đó phải là công việc của nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều công trình chuyên ngành và liên ngành. Trong phạm vi bản tham luận này, chúng tôi chỉ xin nêu một vài ý kiến chung, manh tính đặt vấn đề là chính. Rất mong được sự quan tâm của các nhà khoa học.

2.2. Biểu hiện chính yếu của tính dân tộc trong lý luận văn nghệ là gì? Theo ý chúng tôi, có thể nói tới 3 điểm sau:

2.2.1 Hệ thống lý luận văn nghệ phải đặc biệt đề cao tính dân tộc trong xét đoán mọi giá trị nghệ thuật thuộc mọi thời đại. Điều này có lẽ chẳng cần nêu ra chừng mươi, mười lăm năm trước. Khi ấy, đặc tính của nghệ thuật trong đó có tính dân tộc thường được xem trọng. Tuy nhiên gần đây, nhân danh đổi mới quan niệm nghệ thuật, một số nhà lý luận trong một số công trình lý luận chỉ trình bày đặc trưng nghệ thuật, bỏ qua mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống. Tập trung tìm hiểu nét riêng của nghệ thuật so các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, triết học, khoa học, tôn giáo… là cần, nhưng chỉ thấy đặc trưng nghệ thuật mà không thấy mối tương quan giữa nghệ thuật với những hoạt động vật chất và tinh thần khác của con người là thiếu biện chứng. Vả chăng, khi cắt đứt sợi dây liên hệ với đời sống con người thì tất nhiên cái gọi là “đặc trưng nghệ thuật” kia chắc sẽ trở nên lơ lửng để rồi chấp chới như diều không dây.

Thật ra, nói tới văn nghệ là nói tới một nền văn nghệ cụ thể trong một thời điểm cụ thể. Nó chịu sự ràng buộc của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, đa dạng và đa chiều, trong đó ngọn nguồn dân tộc bao giờ cũng là nhân tố chi phối âm thầm và dai dẳng. Điều này thậm chí bất chấp ý thức của người nghệ sĩ. Chỉ có điều, với những ai có ý nguyện gắn sự nghiệp sáng tạo của mình với dân tộc đã sinh ra mình (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) thì tác phẩm của họ sẽ có cơ sở dồi dào phẩm chất dân tộc hơn. Đây chính là con đường gần như duy nhất đề công trình nghệ thuật có giá trị đến được với các dân tộc thuộc nhiều chân trời khác nhau.

2.2.2. Hệ thống lý luận văn nghệ phải quan tâm tới thực tiễn nghệ thuật dân tộc. Lý luận chân chính, như mọi người đều rõ, không phải là kết quả của tư duy mang tính tự biện của nhà nghiên cứu. Nó phải gắn với thực tiễn nghệ thuật, phải được khái quát lên từ thực tiễn nghệ thuật. Cố nhiên, trong quá trình xây dựng hệ thống khái niệm, phạm trù khoa học, nhà lý luận buộc phải chọn lựa những hiện tượng nghệ thuật điển hình của nhiều nền văn nghệ. Trên thực tế không khi nào không tồn tại những ngoại biệt. Bởi, nói như Hegel,hiện tượng luôn phong phú hơn quy luật. Do vậy,hệ thống lý luận nghệ thuật bao giờ cũng ở trạng thái mở cho phép những cái riêng mang tính ngoại lệ hiển hiện. Tiếp xúc với bất cứ hệ thống lý luận văn nghệ nào, chúng ta cũng cần biết vận dụng để giải quyết thực tiễn của dân tộc mình. Không thế, chúng ta sẽ khó tránh khỏi giáo điều và lý luận mà ta tuân thủ sẽ khó tránh khỏi “ xám ngắt”. Sức mạnh của nó sẽ rất hạn chế .

Vậy nên, một điểm mang tính nguyên tắc là các nhà lý luận cần lấy thực tiễn sáng tạo nghệ thuật dân tộc soi vào những nguyên lý chung có tính tòan nhân loại. Chắc chắn sẽ có những nguyên lý ( không loại trừ cả những nguyên lý then chốt) chẳng mấy thích hợp với lịch sử nghệ thuật dân tộc. Sự bổ sung ở đây là cần thiết, nếu như nhà lý luận còn muốn hệ thống lý luận của mình có sức sống và có ý nghĩa .

2.2.3. Một yêu cầu mang tính bắt buộc là nhà lý luận cần biết tiếp thu di sản lý luận văn nghệ trong quá khứ của dân tộc mình. Sẽ không thành vấn đề đối với những dân tộc có truyền thống lý luận độc đáo và đồ sộ như Trung Quốc (ở phương Đông), Đức (ở phương Tây). Ở nước ta có khác! Chẳng phải trong thời gian dài, quan niệm ông cha ta” không để lại một giọt lý luận” nào cho con cháu đã từng ngự trị trong đầu óc của không ít nhà nghiên cứu kể cả những nhà nghiên cứu có tên tuổi ? Phải thấy đây không đơn thuần chỉ là vấn đề đạo lý mà trước hết là vấn đề khoa học. Chỉ cần đọc kỹ càng, chẳng hạn trước tác của nhà bác học Lê Quý Đôn, thì cái nhìn của họ có lẽ sẽ đổi khác. Cần thấy thói quen của người Việt Nam và người Á Đông nói chung là nói ít làm nhiều. Khi buộc lòng phải nói thì họ thường nói ngắn, nói một cách bóng bẩy như văn sáng tác. Kinh nghiệm cho hay, muốn tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của người xưa, ta cần nâng niu từng câu chữ, từng ý tứ trong từng văn bản được viết theo văn phong cổ. Thế rồi đối chiếu người trước người sau, trong “văn trước thuật” lẫn trong “lời ca vịnh” (chữ dùng của học giả Phan Huy Chú) với cái nhìn và bằng cái tâm sáng của người hôm nay. Nói gọn lại, không thể thấy nếu ta không đi tìm, lại phải đi tìm với tấm lòng khâm phục, ngưỡng vọng cha ông một cách tự nhiên. Đuợc vậy, thì di sản lý luận văn nghệ của tổ tiên sẽ tiếp tục đồng hành và hơn thế sẽ tiếp tục nâng đỡ con cháu, để một ngày không xa dân tộc ta có thể sánh vai với các cường quốc khác về mọi phương diện mà không thấy tủi hổ.

3. Dẫu sao, những đòi hỏi vừa nêu trên vẫn còn là ước mong. Chúng tôi tin rằng hệ thống lý luận văn nghệ mang đậm tính dân tộc như thế sẽ xuất hiện trong một tương lai gần. Điều quyết định là ngay từ giờ, mỗi người tuỳ khả năng và cương vị, hãy góp sức góp trí để ý nguyện của chúng ta mau chóng trở thành hiện thực.


ĐàLạt, 25/12/2000
PGS.TS . Phạm Quang Trung
.............................................................................................................................................................................
 
Tính dân tộc và tính nhân loại trong văn học

1. Tính dân tộc, từ thuộc tính đến phẩm chất của văn học

Nếu tính giai cấp và tính nhân dân của văn học là sự thể hiện của mối liên hệ bản chất của văn nghệ với giai cấp và nhân dân thì tính dân tộc là phạm trù tư tưởng - thẩm mĩ, thể hiện mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc. Tính dân tộc chính là những vấn đề dân tộc được ý thức trong văn học. Dân tộc là những nhóm người cùng chung một lãnh thổ, có chung ngôn ngữ, những phong tục, thói quen, nếp sống nếp suy nghĩ và tình cảm. Như vậy, khái niệm dân tộc gắn liền với quốc gia thống nhất, có chung lãnh thổ, kinh tế, văn hóa, lịch sử, tiếng nói. Ví dụ, dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Lào, dân tộc Pháp.
Tính dân tộc vừa là thuộc tính vừa là phẩm chất của văn học. Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, khách thể là chủ thể ở đây nói chung là thuộc về một dân tộc nhất định nên tính dân tộc là một thuộc tính tất yếu của văn học. Nói một cách khái quát thì tính dân tộc của văn học thể hiện ở hai phương diện chủ yếu. Đó là phương diện hình thức và phương diện nội dung. Xét về phương diện hình thức, ta thấy bất kì tác phẩm văn học nào dù nội dung ra sao tác phẩm ấy cũng sử dụng ngôn ngữ, lời ăn, tiếng nói của dân tộc; sử dụng thể loại văn học của dân tộc hoặc mô tả những bức tranh thiên nhiên, những cảnh quan của một dân tộc nhất định. Ở phương diện này tính dân tộc của văn học được xem là thuộc tính tất yếu. Tuy nhiên tính dân tộc của văn học không chỉ thể hiện ở thuộc tính hình thức mà quan trọng hơn là ở phẩm chất. Tính dân tộc trong văn học muốn trở thành một phẩm chất thì phải có điều kiện. Chỉ có những tác phẩm ưu tú trong nền văn học tiến bộ và cách mạng xưa nay mới có phẩm chất dân tộc thực sự. Vấn đề này đòi hỏi người nghệ sĩ phải thể hiện được những truyền thống tốt đẹp mà nhân dân, dân tộc ấy đã tạo dựng lên trong trường kì lịch sử. Chẳng hạn truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, truyền thống lạc quan, tin vào chính nghĩa như những sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học Việt Nam từ cổ tới kim làm ngời sáng bốn nghìn năm lịch sử của đất nước ta.

2 Những biểu hiện của tính dân tộc

Tính dân tộc của văn học bắt nguồn từ đặc thù của đời sống và văn hóa dân tộc. Tính dân tộc thể hiện ở những nét độc đáo về tâm lí dân tộc, tâm hồn và tính cách dân tộc, ngôn ngữ dân tộc, truyền thống tư tưởng, nghệ thuật, thẩm mĩ, văn hóa dân tộc.
Đầu tiên, tính dân tộc thể hiện ở chỗ những bức tranh đời sống mang bóng dáng của địa lí, lịch sử, phong tục dân tộc. Khi gặp những hình ảnh cây bạch dương, cỗ xe tam mã, tuyết trắng, cây anh đào, hoa tử đinh hương, căn nhà gỗ, ấm xamôva, ta biết đó là hình ảnh của nước Nga. Khi gặp những hình ảnh sông Hoàng Hà, bến Tầm Dương, hồ Động Đình, hồng lâu, khánh ngọc, đèn lồng, gót sen... ta biết mình gặp văn học Trung Hoa. Tính dân tộc của văn học còn thể hiện sâu sắc ở chỗ mô tả những tâm hồn và tính cách dân tộc độc đáo. Tình cảm nhân ái, tình yêu chung thuỷ, tinh thần chống áp bức, bất công được thể hiện rất rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, dân tộc ta đã rũ bùn đứng dậy sáng loà. Nhân vật được thể hiện trong các sáng tác văn học cũng có bước phát triển mới. Nhân vật Núp trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn đất của Anh Đức, Tiệp trong Bão biển của Chu Văn là những người anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh nhưng cũng mang những đức tính cổ truyền của dân tộc như sự dịu hiền, sự tương thân, tương ái, lòng yêu quê hương, làng xóm...
Cần chú ý rằng, ở những bài thơ trữ tình thuần túy thì tâm hồn và tính cách dân tộc của nhà thơ, của nhân vật trữ tình là ở chỗ rung động và thể hiện những nét bản chất của dân tộc mình. Nhà thơ Tố Hữu đã nêu lên cảm xúc của mình về con người Việt Nam qua bài thơ Chào xuân 67. Ở bài thơ này tác giả đã nói về truyền thống và lòng tự hào dân tộc, về những đức tính của con người Việt Nam - những con người mà: Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn,Vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay.
Có thể nhắc đến một số đặc thù về hình thức, tính cách và ý thức thẩm mĩ của dân tộc Việt Nam để tham khảo như sau:
Thí dụ, về vẻ đẹp hình thức của phụ nữ Việt Nam, đã được dân gian đúc kết: lông mày lá liễu, mắt bồ câu, mắt đen hạt nhãn, mắt lá răm, má lúm đồng tiền: Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền...
Về tính cách, những tính cách được trân trọng và ca ngợi thường là những con người có chí khí, có lối sống rộng rãi, phóng khoáng: Làm trai cho đáng nên trai, Phú Xuân đã trải Đồng Nai đã từng (ca dao). Đó là những nếp sống hiền lành, chịu thương chịu khó, cần cù, chăm chỉ, khiêm nhường, chịu đựng, hiếu thảo: Thị Kính chịu tiếng oan cả một đời không thanh minh (Chèo Quan âm thị Kính), Lục Vân Tiên thương mẹ khóc mù cả mắt (Lục Vân Tiên), nàng Thoại Khanh cắt thịt mình cho mẹ chồng ăn trong cơn ốm đau (Tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn)...
Đặc biệt, thường được ngợi ca là những con người sống có tình có nghĩa: Muối ba năm muối đang còn mặn, Gừng chín tháng gừng hãy còn cay; Mẹ già ở túp lều tranh, Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con; Cây đa cũ, bến đò xưa, Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ (ca dao). Hình mẫu lí tưởng là con người hài hòa cả hai mặt, hình thức và tâm hồn, tính cách như những Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên, hoặc những người phụ nữ bình dân: Những người thắt đáy lưng ong, Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con.
Người Việt còn một số đặc thù về cách tư duy, cách nghĩ và cách cảm trong việc nhận thức, đánh giá, cảm thụ và biểu hiện thế giới và con người. Có thể nói, tính dân tộc biểu hiện rõ nhất qua cái nhìn và cách ứng xử của con người đối với cuộc sống.
Đó là phong cách sống hài hòa với thiên nhiên. Con người trong văn học thường được tái hiện trong mối quan hệ với thiên nhiên, bởi thiên nhiên là môi trường sống, là điều kiện tồn tại, hoạt động, là nơi giãi bày tình cảm. Không như quan niệm của người phương Tây về thiên nhiên, là chiếm đoạt và thống trị thiên nhiên, người Việt thường coi mình là một phần của thiên nhiên với tất cả tình cảm, tư tưởng, bổn phận và trách nhiệm của mình. Cùng một kết quả là trắng tay trong việc chinh phục thiên nhiên, nhưng trong Ông già và biển cả (Hêmingwê), là hình ảnh con người luôn khát khao chiến thắng tự nhiện dù sức lực đã cạn
kiệt, khác hẳn ý tưởng con người sống hài hòa với thiên nhiên mới là hạnh phúc trong Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp).
Người Việt thường lấy thiên nhiên làm thước đo cho nhịp điệu sống. Đó là một nhịp điệu chậm, tuần hoàn, tuân theo nông lịch: Bao giờ đom đóm bay ra, Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng (ca dao). Vẻ đẹp con người luôn được so sánh với thiên nhiên, một thiên nhiên đặc thù dân tộc: mắt đen hạt nhãn, da trắng như trứng gà bóc, tóc mềm như mây, lông mày lá liễu: Những người con mắt lá răm, Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền (ca dao). Khi miêu tả người, người Việt Nam thường dùng hình ảnh cỏ cây hoa lá để tăng khả năng biểu hiện, bởi quan niệm con người luôn chỉ là một phần của thiên nhiên, là tiểu vũ trụ trong đại
vũ trụ mênh mông. Nguyễn Du miêu tả Thúy Kiều: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh; Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Thiên nhiên còn làm thước đo tình cảm của con người: Ba thu dồn lại một ngày dài ghê
(Nguyễn Du)); Chỉ một ngày nữa thôi, em sẽ, Trở về, nắng cũng mong, cây, Cũng nhớ, ngõ cũng chờ, và bướm, Cũng thêm màu trên đôi cánh đang bay (Chế Lan Viên). Các màu sắc miêu tả thế giới cũng được định vị bằng màu sắc của thiên nhiên: xanh
cốm, xanh da trời, xanh nõn chuối, xanh bói cá, xanh cánh trả, vàng mơ, vàng gà con, vàng cam, vàng nghệ, vàng chanh, vàng hoa mai, hồng đào, hồng phấn... Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, không phải ngôn ngữ dân tộc nào cũng có kiểu kết cấu tạo từ màu sắc dựa trên màu sắc thiên nhiên giống như vậy. Con người sống hài hòa với thiên nhiên là một nếp sống đáng trân trọng, đẹp đẽ. Thiên nhiên như người bạn: Xem sách chim rừng vào cửa đậu, Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi Hồ Chí Minh); Người đi rừng núi trông theo bóng Người (Tố Hữu). Thiên nhiên như chốn trở về, hướng tới cái yên tĩnh của tâm hồn, xa cách với cái ồn ào xô bồ của đời sống thành thị, về với thiên nhiên là hứa hẹn sự cân bằng nội tâm, hài hòa và thanh thản. Người Việt thiên về cái vừa phải, trung tính, nhã nhặn: Về kích thước của mọi sự vật nói chung, người Việt Nam thích mọi sự vật phải vừa phải, không thích to quá hoặc nhỏ quá.Người Việt thích cái bé bé, xinh xinh. Các chàng trai khi tìm người yêu cũng phải thốt lên:
Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu, anh thấy em nhỏ xíu anh thương (ca dao); Một gian nhà nhỏ đi về có nhau (Nguyễn Bính).
Trong giao tiếp, và cách thổ lộ tình cảm, người Việt tránh nói thẳng, ưa sự kín đáo, nhẹ nhàng, dịu dàng, tinh tế, đề cao sự tế nhị. Những cách tỏ tình lòng vòng: Tre non đủ lá đan sàng hay chưa?, Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?; Tóc đến lưng vừa chừng em bới, Để chi dài bối rối dạ anh (ca dao) là phổ biến. Tình cảm có thể rất sâu sắc, nồng nàn nhưng cách biểu lộ không mạnh mẽ, ồn ào mà nhẹ nhàng, kín đáo. Những bài thơ kiểu Hương thầm (Phan Thị Thanh Nhàn), Núi Đôi (Vũ Cao), Quê hương (Giang Nam)... là thí dụ.
Người Việt Nam ưa thực tiễn, linh hoạt. Vì tính thực tiễn cao, cho nên lòng yêu đời, ham sống, ý chí lạc quan của người Việt thật mãnh liệt: Ao trường vẫn nở hoa sen, Bờ ao vẫn chú dế mèn vuốt râu (Trần Đăng Khoa). Tính linh hoạt khiến người Việt dễ dàng thích nghi với những thay đổi của điều kiện sống. Ngôn từ dân tộc cũng có những đặc thù riêng biệt. Câu văn tiếng Việt trầm bổng như âm nhạc nhờ thanh điệu cao thấp. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, quấn quýt, êm ái phù hợp thị hiếu dân tộc.

3 Tính dân tộc của văn học là một phạm trù lịch sử

Tính dân tộc của văn học là một phạm trù lịch sử. Nét độc đáo của một dân tộc được hình thành trong cả một quá trình lịch sử lâu dài. Trong quá trình phát triển không ngừng của cuộc sống, có những đặc thù dân tộc vẫn được giữ vẹn toàn theo năm tháng, nhưng vẫn có yếu tố dần dần bị gạt bỏ và được bổ sung thêm bằng những yếu tố mới nảy sinh. Ví như tục ăn trầu, mặc áo chùng thâm, tóc vấn đuôi gà... không còn xuất hiện trong cuộc sống hiện đại, nhưng lòng nhẫn nại, sự thuỷ chung, bình dị, hồn nhiên, tính linh hoạt... vẫn là đặc điểm truyền thống lâu bền của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, văn học dân tộc chỉ có thể phát triển lành mạnh, đậm đà trên cơ sở kế thừa các truyền thống, bởi vì truyền thống giữa gìn các tư tưởng và tình cảm thẩm mĩ, kinh nghiệm nghệ thuật của ông cha, khêu gợi cảm hứng sáng tác mới. Ông Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Truyền thống là vốn quý báu vô cùng, di sản của biết bao thế hệ, bông hoa thơm nhất của dân tộc... Muốn viết văn mà không học tập vốn văn nghệ của dân tọc thì làm sao được ”

Nhưng kế thừa không phải là lặp lại giản đơn mà là sử dụng và cắt nghĩa lại, đổi mới, thậm chí nhiều khi đi ngược lại truyền thống cũ, để mở ra truyền thống mới. Thí dụ, hình ảnh vầng trăng xẻ nửa là hình ảnh truyền thống về sự chia li, nhưng trong bài thơ Hai nửa vầng trăng của Hoàng Hữu, một nửa vầng trăng còn có nghĩa là sự cô đơn không thể chia
sẻ.
Sự tiếp thu tinh hoa văn hóa của nước ngoài là rất cần thiết trong việc mở rộng những kinh nghiệm nghệ thuật nhân loại cho văn học dân tộc. Nhưng sự tiếp thu đích thực không bao giờ là sự sao chép nô lệ, mà là một sáng tạo. Sự tiếp thu sáng tạo này lại thể hiện bản
lĩnh của dân tộc. Lịch sử văn học Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong hơn mười thế kỉ Bắc thuộc, mặc dù bọn thống trị phong kiến Trung Hoa tìm mọi cách áp đặt văn hóa của chúng cho người Việt, nhưng ảnh hưởng của nó lại rất ít. Trái lại, chỉ sau khi Việt Nam giành độc lập vào thế kỉ thứ X thì việc tiếp thu trở thành nhu cầu và đã là một nhân tố không thể thiếu được để xây dựng nền văn hóa dân tộc. Về vấn đề này ông Trường Chinh đã nói: “Văn hóa dân chủ mới tiêu biểu cho tinh hoa của dân tộc... Song đồng thời nó sẵn sàng hấp thu những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ của văn hóa nước ngoài”
Như vậy rõ ràng là học tập tinh hoa văn hóa của nước ngoài là một cách làm giàu cho văn hóa dân tộc.

4 Vài nét về quan hệ giữa tính dân tộc và tính nhân loại của văn học


Con người ngoài cộng đồng dân tộc, còn có cộng đồng quốc tế và nhân loại. Tất cả các dân tộc đều sống trên trái đất, trong một bầu khí quyển, dưới một bầu trời cao, một ánh sáng mặt trời. Họ đều chịu sự tác động của các quy luật chung của tự nhiên và xã hội. Đó là cơ sở khách quan của tính nhân loại và tính quốc tế của văn nghệ, tạo thành những nét cộng đồng nhân loại trong văn nghệ các dân tộc. Lí luận macxít phủ nhận thuyết tính người chung chung, siêu giai cấp nhưng không phủ
nhận tính nhân loại. Tính nhân loại là những đặc thù mà bất cứ một con người nào cũng có thể có. Trong mỗi con người cụ thể, đều có những thuộc tính bản chất của con người (khác với động vật) như tính xã hội, vai trò chủ thể cải tạo thế giới và cải tạo bản thân, có khả năng cảm thụ thế giới và bản thân một cách sâu sắc, có khả năng sáng tạo, có một thế giới
tâm hồn và tư tưởng phong phú... Có thể nhận thấy là hầu hết các phẩm chất tốt đẹp của nhân loại đều gắn liền với hoạt động sản xuất xã hội của nó. Chính nhờ sản xuất xã hội (tức là sản xuất cho người khác) mà con người biết yêu quý người khác như yêu mình, coi sự phát triển toàn diện của một cá nhân là điều kiện cho sự phát triển của mọi người; biết yêu lao động, yêu thiên nhiên và mọi thành quả sáng tạo của con người... Trong quá trình phát triển lịch sử của nhân loại, con người ngày càng phát triển những phẩm chất cao nhất như phẩm giá cá nhân, tình cảm tôn giáo, sự thẳng thắn, lòng dũng cảm, yêu tự do, yêu hòa
bình, ghét bất công, biết hi sinh... Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những nét xấu trong tính cách: sự phản trắc, tàn nhẫn, cuồng tín, xa hoa, lười biếng, tham lam... Trong tương quan với tính nhân loại, tính dân tộc bộc lộ một phương diện giá trị khác.
Dân tộc là bộ phận của nhân loại, tính dân tộc là biểu hiện đặc thù của tính nhân loại, mở ra những khả năng phát triển khác nhau của nhân loại và nhờ vậy các dân tộc có thể làm phong phú cho nhau. Minh chứng cho điều này là các dân tộc khác nhau đều yêu chuộng tinh hoa văn nghệ của dân tộc khác, học tập ở dân tộc khác.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top