Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Tính chất dân chủ tư sản trong phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Tớ nhớ cậu" data-source="post: 155970" data-attributes="member: 304816"><p style="text-align: center"><strong> TÍNH CHẤT DÂN CHỦ TƯ SẢN TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX</strong></p> <p style="text-align: center"><strong></strong> </p> <p style="text-align: center"> </p><p>Hai bản hiệp ước Hác Măng (1883) và bản hiệp ước Patơnốt (1884) đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình Nguyễn đối với thực dân Pháp xâm lược nhưng đồng thời cũng đánh dấu một thời kỳ mới trong cuộc đấu tranh chống bè lũ cướp nước và bán nước. Tiêu biểu nhất trong thời kỳ cuối thế kỷ 19 là phong trào Cần Vương (1885-1896) và phong trào nông dân Yên Thế (1883-1913) với nội dung chủ yếu nhằm hướng đến mục tiêu giải phóng dân tộc. Sang đầu thế kỷ 20 với những điều kiện lịch sử mới đã nảy sinh cuộc vận động yêu nước mang nội dung mới hướng đến giải quyết vấn đề dân tộc và đồng thời lân đầu tiên chủ trương hướng tới giải quyết vấn đề dân chủ. Chính nội dung dân tộc, dân chủ trong thời kỳ này đã phong trào đấu tranh đầu thế kỷ 20 trở thành phong trào yêu nước và cách mạng mang đậm tính chất dân chủ tư sản.</p><p> </p><p> Thông qua việc đánh giá, phân tích 2 xu hướng tiêu biểu: xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh cùng với các phong trào Đông Du (1904-1909), cuộc vận động Duy Tân ( 1906-1908 ), phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ( 1906-1907 ) sẽ là cơ sở để làm rõ tính chất dân chủ tư sản trong phong trào yêu nước và cách mang đầu thế kỷ 20.</p><p> </p><p><strong><em>I.</em></strong><strong><em> Điều kiện lịch sử nảy sinh phong trào yêu nước và cách mạng mang tính chất dân chủ tư sản:</em></strong></p><p> </p><p> Phong trào yêu nước dưới ngọn cờ phong kiến tuy diễn ra sôi nổi, quyết liệt xong không thể đưa cách mang Việt Nam đi đến thắng lợi. Phong trào Cần Vương thất bại đồng thời chấm dứt vai trò lãnh đạo của con đường phong kiến.Yêu cầu lịch sử đặt ra cho dân tộc là phải tìm một con đường cứu nước mới tiếp tục giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.Việc tìm kiếm con đường mới để giải phóng dân tộc đặt ra cho dân tộc ta như một tất yếu của lịch sử. Nhưng với một truyền thống yêu nước nồng nàn, tuy gặp thất bại với con đường cứu nước cũ nhưng sẵn sàng đứng dưới bất kỳ ngọn cờ nào giúp họ thoát khỏi mọi ách áp bức giành được độc lập, tự do. Mặt khác các sĩ phu phong kiến cố gắng vượt qua sự bế tắc của thời đại mình, vẫn nung nấu một tấm lòng cứu nước, cứu dân. “<em>Làm thế nào và đi theo con đường nào”</em> vừa là câu hỏi, vừa là động cơ thúc giục các sĩ phu yêu nước </p><p> </p><p>đầu thế kỉ 20 mạnh dạn tiếp thu những tư tưởng tiến bộ tư bên ngoài truyền vào. Điều đó lý giải tại sao phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với nội dung mới mẻ lại có thể thâm nhập vào phong trào yêu nước đầu 20. Đây là nhân tố quan trọng để khuynh hương cứu nước mang tính chất tính sâu rộng.</p><p> </p><p> Trong khi đó trên thế giới vào thế kỷ 17-18, các nước châu Âu đã hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ tư sản như: cách mang tư sản Hà Lan (1566-1648), cách mang tư sản Anh (1642-1688), cách mang tư sản Pháp (1789-1792). Đến thế kỷ 20 tuy con đường dân chủ tư sản đã trở nên lỗi thời ở Tây Âu, bộc lộ những mặt tiêu cực nhưng so với các nước phương Đông nó vẫn còn hết sức mới mẻ, đầy sức hấp dẫn và đặc biệt nó mang tính chất tiến bộ hơn hẳn so với ngọn cờ phong kiến, đủ sức lôi kéo các nhà yêu nước Việt Nam đang bế tắc trong đường lối cứu nước. Con đường dân chủ tư sản khi vào Việt Nam bản thân nó đã chứa đựng nhiệm vụ dân chủ nhưng khi vào đến nước ta với điệu kiện mới (sự tồn tại song song của hai mâu thuẫn), do đó, nó đồng thời tiến lên giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì vậy mà phong trào đấu tranh thời kỳ này mang tên phong trào yêu nước và cách mạng, một điểm mới so với phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19.</p><p> </p><p> Tuy nhiên để môt phong trào yêu nước mang tính chất dân chủ tư sản có thể nảy nở cần có những điêu kiện về kinh tế - xã hội - tư tưởng. </p><p> </p><p> Sau khi hoàn thành cuộc bình định nước ta bằng quân sự thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) những chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội đã có tác động quan trọng, tạo nên bước chuyển biến mạnh mẽ chưa từng có đối với Việt Nam.</p><p> </p><p><em> Về kinh tế:</em></p><p> </p><p> Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa nhằm vơ vét, bóc lột nhiều nhất tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ mạt. Do vị trí địa lý của Việt Nam cách xa chính quốc nên thực dân Pháp chủ trương thực hiện chính sách khai thác chứ không phải thuộc địa di dân như ở Angieri hay thuộc địa khai khẩn của thực dân Anh ở Ấn Độ.</p><p> </p><p> + Trong nông nghiệp: cùng với việc vơ vét lúa gạo để xuất khẩu, bọn thực dân Pháp tăng cường việc cướp đoạt ruộng đất lập đồn điền, thực dân Pháp trở thành kẻ sở hữu tối cao về ruộng đât, xóa bỏ quyền sở hữu của triều đình phong kiến đã tồn tại gần một thiên niên kỷ. </p><p> </p><p> + Trong công nghiệp: thực dân Pháp khai thác dựa trên 4 nguyên tắc: khai thác những nghành nào mà cần vốn ít, thu hồi vốn nhanh; đầu tư cho những nghành nào mà không làm tổn hại đến nền kinh tế chính quốc; đầu tư vào những nghành nào mà cột chặt nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế chính quốc; đầu tư vào những nghành mà nước Pháp và thế giới có nhu cầu lớn. Do đó Pháp hạn chế công nghiệp nặng, chủ yếu là nghành khai mỏ; phát triển một số cơ sở công nghiệp nhẹ.</p><p> </p><p> + Về thương nghiệp, Pháp chủ trương độc chiếm thị trường Việt Nam.</p><p> Song song với cuộc khai thác trên thì một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang hình thái thực dân du nhập vào nước ta và trong một chừng mực nhất định đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo con đương tư bản chủ nghĩa . Đây là nhân tố kinh tế quan trọng để tạo nên những chuyển biến về mặt xã hội.</p><p> </p><p> <em>Về xã hội:</em></p><p> </p><p> Dưới tác động của những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa cùng với phương thức bóc lột kinh tế mang hình thái thực dân (sự kết hợp giữa phương thức sản xuất phong kiến và hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa) đã khiến xã hội Việt Nam có nhiều biến chuyển: Các giai cấp cũ đều bị phân hóa, nông dân và thợ thủ công bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn trong khi đó bộ phận giai cấp địa chủ được thực đân Pháp bợ đỡ cả về kinh tế và chính trị.</p><p> </p><p> Bên cạnh giai cấp cũ giờ đây xuất hiện thêm những giai tầng mới: giai cấp công nhân, tầng lớp tư sản và tiểu tư sản. Công nhân ngay từ khi ra đời đã trở thành giai cấp. Tuy nhiên giai cấp công nhân có xuất thân từ nông dân, trình độ thấp lại chưa có một hệ tư tưởng dẫn đường. Do đó mặc dù đã trở thành giai cấp nhưng công nhân Việt Nam chưa thể bước lên vũ đài chính trị. Cùng với giai cấp công nhân còn xuất hiện </p><p> </p><p>tầng tư sản và tiểu tư sản thành thị nhưng phát triển chậm chạm do chính sách áp bức của thực dân Pháp. Tuy nhiên sự phát triển chung của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong một chừng mực nhất định đã tạo cơ sở thuận lợi để các tư tưởng tư bên ngoài có thể truyền bá vào nước ta.</p><p> </p><p> Tuy nhiên thực dân Pháp lại cấu kết với bọn địa chủ phong kiến nhằm cột chặt nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên, tự cấp: nông nghiệp vẫn ở trong tình trạng độc canh, năng suất lao động lại thấp, lại chưa đấp ứng nhu cầu xuất khẩu cao do đó làm cho đời sống của người nông dân vô cùng cực khổ: các nghành nghề thủ công nghiệp truyền thống đang có yếu tố tích cực bị tan rã, nền kinh tế tư sản dân tộc không có cơ hội phát triển bóp nghẹt sự phát triển của tầng lớp tư sản và tiểu tư sản trong khi giai cấp công nhân cũng thoát khỏi cuộc sống cục khổ. Mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay gắt. Trong đó tầng lớp tư sản luôn mong muốn có bối cảnh chính trị độc lập để phát triển nền kinh tế dân tộc. Như vậy, sự xuất hiện của tầng lớp tư sản và tiểu tư sản là cơ sở xã hội quan trọng cho sự nảy nở của khuynh hướng dân chủ tư sản.</p><p> </p><p> <em>Về tư tưởng:</em></p><p> </p><p> Giữa lúc đó cuộc biến Pháp “Bách nhật duy tân” năm 1898 ở Trung Quốc diễn ra đã trở thành cuộc cải cách có ý nghĩa quan trọng nhằm đấu tranh chống lại chế độ phong kiến. Tuy thất bại nhưng nó có ảnh hưởng lớn đến xã hội Việt Nam. Năm 1868 với cuộc “Minh Trị duy tân” đã đưa Nhật Bản thoát khỏi nguy cơ một nước thuộc địa trở thành một đế quốc giàu mạnh, trở thành một tấm gương sáng cho các sĩ phu yêu nước Việt Nam. Thời kỳ này những luồng tư tưởng lớn như Vôn-te, Rut-xô, Mông-te-xkio cùng những tư tưởng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu qua các tân thư, tân văn, tân báo tràn vào Việt Nam phù hợp với những biến đổi đang diễn ra trong xã hội nước ta, được các sĩ phu yêu nước phong kiến tư sản hóa đón nhận và từ đó phát động phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20.</p><p><strong><em></em></strong></p><p><strong><em>(còn tiếp)</em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Tớ nhớ cậu, post: 155970, member: 304816"] [CENTER][B] TÍNH CHẤT DÂN CHỦ TƯ SẢN TRONG PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX [/B] [/CENTER] Hai bản hiệp ước Hác Măng (1883) và bản hiệp ước Patơnốt (1884) đánh dấu sự đầu hàng hoàn toàn của triều đình Nguyễn đối với thực dân Pháp xâm lược nhưng đồng thời cũng đánh dấu một thời kỳ mới trong cuộc đấu tranh chống bè lũ cướp nước và bán nước. Tiêu biểu nhất trong thời kỳ cuối thế kỷ 19 là phong trào Cần Vương (1885-1896) và phong trào nông dân Yên Thế (1883-1913) với nội dung chủ yếu nhằm hướng đến mục tiêu giải phóng dân tộc. Sang đầu thế kỷ 20 với những điều kiện lịch sử mới đã nảy sinh cuộc vận động yêu nước mang nội dung mới hướng đến giải quyết vấn đề dân tộc và đồng thời lân đầu tiên chủ trương hướng tới giải quyết vấn đề dân chủ. Chính nội dung dân tộc, dân chủ trong thời kỳ này đã phong trào đấu tranh đầu thế kỷ 20 trở thành phong trào yêu nước và cách mạng mang đậm tính chất dân chủ tư sản. Thông qua việc đánh giá, phân tích 2 xu hướng tiêu biểu: xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh cùng với các phong trào Đông Du (1904-1909), cuộc vận động Duy Tân ( 1906-1908 ), phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ( 1906-1907 ) sẽ là cơ sở để làm rõ tính chất dân chủ tư sản trong phong trào yêu nước và cách mang đầu thế kỷ 20. [B][I]I.[/I][/B][B][I] Điều kiện lịch sử nảy sinh phong trào yêu nước và cách mạng mang tính chất dân chủ tư sản:[/I][/B] Phong trào yêu nước dưới ngọn cờ phong kiến tuy diễn ra sôi nổi, quyết liệt xong không thể đưa cách mang Việt Nam đi đến thắng lợi. Phong trào Cần Vương thất bại đồng thời chấm dứt vai trò lãnh đạo của con đường phong kiến.Yêu cầu lịch sử đặt ra cho dân tộc là phải tìm một con đường cứu nước mới tiếp tục giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.Việc tìm kiếm con đường mới để giải phóng dân tộc đặt ra cho dân tộc ta như một tất yếu của lịch sử. Nhưng với một truyền thống yêu nước nồng nàn, tuy gặp thất bại với con đường cứu nước cũ nhưng sẵn sàng đứng dưới bất kỳ ngọn cờ nào giúp họ thoát khỏi mọi ách áp bức giành được độc lập, tự do. Mặt khác các sĩ phu phong kiến cố gắng vượt qua sự bế tắc của thời đại mình, vẫn nung nấu một tấm lòng cứu nước, cứu dân. “[I]Làm thế nào và đi theo con đường nào”[/I] vừa là câu hỏi, vừa là động cơ thúc giục các sĩ phu yêu nước đầu thế kỉ 20 mạnh dạn tiếp thu những tư tưởng tiến bộ tư bên ngoài truyền vào. Điều đó lý giải tại sao phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với nội dung mới mẻ lại có thể thâm nhập vào phong trào yêu nước đầu 20. Đây là nhân tố quan trọng để khuynh hương cứu nước mang tính chất tính sâu rộng. Trong khi đó trên thế giới vào thế kỷ 17-18, các nước châu Âu đã hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ tư sản như: cách mang tư sản Hà Lan (1566-1648), cách mang tư sản Anh (1642-1688), cách mang tư sản Pháp (1789-1792). Đến thế kỷ 20 tuy con đường dân chủ tư sản đã trở nên lỗi thời ở Tây Âu, bộc lộ những mặt tiêu cực nhưng so với các nước phương Đông nó vẫn còn hết sức mới mẻ, đầy sức hấp dẫn và đặc biệt nó mang tính chất tiến bộ hơn hẳn so với ngọn cờ phong kiến, đủ sức lôi kéo các nhà yêu nước Việt Nam đang bế tắc trong đường lối cứu nước. Con đường dân chủ tư sản khi vào Việt Nam bản thân nó đã chứa đựng nhiệm vụ dân chủ nhưng khi vào đến nước ta với điệu kiện mới (sự tồn tại song song của hai mâu thuẫn), do đó, nó đồng thời tiến lên giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì vậy mà phong trào đấu tranh thời kỳ này mang tên phong trào yêu nước và cách mạng, một điểm mới so với phong trào yêu nước cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên để môt phong trào yêu nước mang tính chất dân chủ tư sản có thể nảy nở cần có những điêu kiện về kinh tế - xã hội - tư tưởng. Sau khi hoàn thành cuộc bình định nước ta bằng quân sự thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) những chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội đã có tác động quan trọng, tạo nên bước chuyển biến mạnh mẽ chưa từng có đối với Việt Nam. [I] Về kinh tế:[/I] Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa nhằm vơ vét, bóc lột nhiều nhất tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ mạt. Do vị trí địa lý của Việt Nam cách xa chính quốc nên thực dân Pháp chủ trương thực hiện chính sách khai thác chứ không phải thuộc địa di dân như ở Angieri hay thuộc địa khai khẩn của thực dân Anh ở Ấn Độ. + Trong nông nghiệp: cùng với việc vơ vét lúa gạo để xuất khẩu, bọn thực dân Pháp tăng cường việc cướp đoạt ruộng đất lập đồn điền, thực dân Pháp trở thành kẻ sở hữu tối cao về ruộng đât, xóa bỏ quyền sở hữu của triều đình phong kiến đã tồn tại gần một thiên niên kỷ. + Trong công nghiệp: thực dân Pháp khai thác dựa trên 4 nguyên tắc: khai thác những nghành nào mà cần vốn ít, thu hồi vốn nhanh; đầu tư cho những nghành nào mà không làm tổn hại đến nền kinh tế chính quốc; đầu tư vào những nghành nào mà cột chặt nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế chính quốc; đầu tư vào những nghành mà nước Pháp và thế giới có nhu cầu lớn. Do đó Pháp hạn chế công nghiệp nặng, chủ yếu là nghành khai mỏ; phát triển một số cơ sở công nghiệp nhẹ. + Về thương nghiệp, Pháp chủ trương độc chiếm thị trường Việt Nam. Song song với cuộc khai thác trên thì một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mang hình thái thực dân du nhập vào nước ta và trong một chừng mực nhất định đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo con đương tư bản chủ nghĩa . Đây là nhân tố kinh tế quan trọng để tạo nên những chuyển biến về mặt xã hội. [I]Về xã hội:[/I] Dưới tác động của những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa cùng với phương thức bóc lột kinh tế mang hình thái thực dân (sự kết hợp giữa phương thức sản xuất phong kiến và hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa) đã khiến xã hội Việt Nam có nhiều biến chuyển: Các giai cấp cũ đều bị phân hóa, nông dân và thợ thủ công bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn trong khi đó bộ phận giai cấp địa chủ được thực đân Pháp bợ đỡ cả về kinh tế và chính trị. Bên cạnh giai cấp cũ giờ đây xuất hiện thêm những giai tầng mới: giai cấp công nhân, tầng lớp tư sản và tiểu tư sản. Công nhân ngay từ khi ra đời đã trở thành giai cấp. Tuy nhiên giai cấp công nhân có xuất thân từ nông dân, trình độ thấp lại chưa có một hệ tư tưởng dẫn đường. Do đó mặc dù đã trở thành giai cấp nhưng công nhân Việt Nam chưa thể bước lên vũ đài chính trị. Cùng với giai cấp công nhân còn xuất hiện tầng tư sản và tiểu tư sản thành thị nhưng phát triển chậm chạm do chính sách áp bức của thực dân Pháp. Tuy nhiên sự phát triển chung của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong một chừng mực nhất định đã tạo cơ sở thuận lợi để các tư tưởng tư bên ngoài có thể truyền bá vào nước ta. Tuy nhiên thực dân Pháp lại cấu kết với bọn địa chủ phong kiến nhằm cột chặt nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn là nền kinh tế tự nhiên, tự cấp: nông nghiệp vẫn ở trong tình trạng độc canh, năng suất lao động lại thấp, lại chưa đấp ứng nhu cầu xuất khẩu cao do đó làm cho đời sống của người nông dân vô cùng cực khổ: các nghành nghề thủ công nghiệp truyền thống đang có yếu tố tích cực bị tan rã, nền kinh tế tư sản dân tộc không có cơ hội phát triển bóp nghẹt sự phát triển của tầng lớp tư sản và tiểu tư sản trong khi giai cấp công nhân cũng thoát khỏi cuộc sống cục khổ. Mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay gắt. Trong đó tầng lớp tư sản luôn mong muốn có bối cảnh chính trị độc lập để phát triển nền kinh tế dân tộc. Như vậy, sự xuất hiện của tầng lớp tư sản và tiểu tư sản là cơ sở xã hội quan trọng cho sự nảy nở của khuynh hướng dân chủ tư sản. [I]Về tư tưởng:[/I] Giữa lúc đó cuộc biến Pháp “Bách nhật duy tân” năm 1898 ở Trung Quốc diễn ra đã trở thành cuộc cải cách có ý nghĩa quan trọng nhằm đấu tranh chống lại chế độ phong kiến. Tuy thất bại nhưng nó có ảnh hưởng lớn đến xã hội Việt Nam. Năm 1868 với cuộc “Minh Trị duy tân” đã đưa Nhật Bản thoát khỏi nguy cơ một nước thuộc địa trở thành một đế quốc giàu mạnh, trở thành một tấm gương sáng cho các sĩ phu yêu nước Việt Nam. Thời kỳ này những luồng tư tưởng lớn như Vôn-te, Rut-xô, Mông-te-xkio cùng những tư tưởng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu qua các tân thư, tân văn, tân báo tràn vào Việt Nam phù hợp với những biến đổi đang diễn ra trong xã hội nước ta, được các sĩ phu yêu nước phong kiến tư sản hóa đón nhận và từ đó phát động phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20. [B][I] (còn tiếp)[/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Tính chất dân chủ tư sản trong phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Top