Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 10
Cánh Diều - Ngữ văn 10
Thơ tự do
Tìm hiểu về thơ Đường
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 18888" data-attributes="member: 699"><p><strong>II.Các thể thơ trong Đường thi</strong></p><p><strong></strong></p><p>Ðường Thi Tam Bách Thủ ( Ba trăm bài thơ Ðường) là cuốn hợp tuyển gồm những được cho là tiêu biểu của thi ca đời Ðường. Ta có thể căn cứ vào sự phân loại trong sách này, lấy thể thơ làm tiêu chuẩn, chia thơ Ðường ra làm sáu loại sau : ngũ ngôn cổ thi, thất ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật thi, thất ngôn luật thi, ngũ ngôn tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú. Trong mỗi loại, ở phần dưới, là những bài nhạc-phủ làm theo thể thơ thuộc loại ấy.</p><p></p><p><strong>1</strong><strong>.Cổ thể hay Cổ phong </strong></p><p></p><p>Thể thơ này không có luật lệ nhất định. Không hạn định số câu. Cách gieo vần rất rộng rãi, uyển chuyển. Có thể dùng độc vận (một vần), liên vận (nhiều vần) hay không hiệp vận. Vận chính là các vận thuộc cùng một vận bộ. Vận thông là các vận thuộc hai vận bộ khác nhau, có âm thanh tương tự. Vận chuyển là những vận có âm vốn không giống nhau. Ngoài ra, thể này không phải theo niêm, luật, cũng không bắt buộc phải có đối ngẫu.</p><p></p><p>Những bài thơ làm theo thể này gọi là cổ thi, bắt đầu xuất hiện vào đời Hán. Có ngũ ngôn cổ thi và thất ngôn cổ thi; trong đó có thể xen những câu dài hoặc ngắn hơn. Trước kia người ta cho rằng thể ngũ ngôn cổ thi khởi đầu từ các bài Hà Lương tặng đáp của Tô Vũ và Lý Lăng. Thực ra những bài này là ngụy tác của người đời sau. Một thuyết khác cho rằng Cổ thi thập cửu thủ ( Mười chín bài cổ thi) do Mai Thặng đời Hán Vũ Đế làm ra những bài cổ thi đầu tiên. Hiện nay người ta công nhận thuyết ấy, nhưng nghi ngờ những bài này đều không phải là của Mai Thặng, mà có lẽ là tác phẩm của nhiều người. Còn thể thất ngôn cổ thi, cho đến nay người ta vẫn cho rằng khởi đầu từ bài thơ Bách Lương làm theo lối liên cú đời Hán Vũ Đế. Sử chép rằng năm thứ 3 niên hiệu Nguyên Phong (108 trước Công nguyên), vua Hán Vũ Đế xây đài Bách Lương, rồi xuống chiếu cho quần thần làm thơ thất ngôn, hễ ai làm được thì được lên ngồi trên đài này.</p><p></p><p><strong>2.Cận thể hay Kim thể </strong></p><p><strong></strong></p><p>Người đời Ðường gọi lối thơ tuyệt cú và lối thơ luật là cận thể hay kim thể, để phân biệt cổ thể hay cổ phong nói trên. Thơ cận thể thật ra đã xuất hiện trong đời Lục Triều, sau công trình biện biệt tứ thanh của nhóm Thẩm Ướt (Thẩm Ước là tác giả sách Tứ thanh phổ, người thời Vĩnh Minh (483-493), đời Tề), và việc phân định vận của nhóm Lục Pháp Ngôn (Lục Pháp Ngôn là tác giả sách Thiết vận, người đời Tùy Văn Đế (581-640). ). Nhưng đến đời Ðường, mới có sự phân biệt rõ rệt thơ cổ với thơ cận thể . </p><p> </p><p><strong>3.Luật thi </strong></p><p></p><p>Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng : “ Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của thi như sau :</p><p></p><p>a) Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết;</p><p></p><p>b) Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo;</p><p></p><p>c) Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm.</p><p></p><p>Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.</p><p></p><p>Về đối ngẫu , Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là : Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối.</p><p></p><p>Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là :</p><p></p><p>1<em>) Chính danh đối, như thiên địa đối với nhật nguyệt;</em></p><p><em></em></p><p><em>2) Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao; </em></p><p><em></em></p><p><em>3) Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách;</em></p><p><em></em></p><p><em>4) Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu; </em></p><p><em></em></p><p><em>5) Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng ;</em></p><p><em></em></p><p><em>6) Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì </em></p><p><em></em></p><p><em>(theo sách Thi uyển loại cách)</em></p><p></p><p>Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoăc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật ; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một.</p><p></p><p>Tuy nhiên, người ta thấy rằng ngoại trừ khi ứng chế hoặc ứng thí, người đời Ðường thường dùng thể luật thi một cách uyển chuyển, rộng rãi.</p><p></p><p>Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc hoặc tám câu toàn đối, hoặc sáu câu, hoặc hai câu đối nhau, không nhất định.</p><p></p><p>Về niêm, cũng có những bài không giữ đúng lệ ( thất niêm ).</p><p></p><p>Về luật, sự sử dụng “ảo cú” làm cho quy tắc bớt chặt chẽ, câu thơ có âm điệu biến đổi bất thường. Ảo cú là câu thơ trong đó có chữ đáng bằng đổi thành trắc, hay đáng trắc đổi ra bằng, không theo cách thường. Thí dụ :</p><p></p><p>Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt,</p><p>Tùy quân trực đáo Dạ Lang tây.</p><p>(Lý Bạch)</p><p></p><p>( Lòng sầu ta gởi cùng trăng sáng,</p><p>Theo gót người đi đến Dạ Lang.)</p><p></p><p>Ánh giai bích thảo tự xuân sắc,</p><p>Cách diệp hoàng ly không hảo âm.</p><p>(Ðỗ Phủ)</p><p></p><p>(Soi thềm, cỏ biếc còn tươi thắm;</p><p>Cánh lá, oanh vàng vẫn hót hay.)</p><p></p><p>Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên.</p><p></p><p>Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau : các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết).</p><p></p><p>Khoảng đời Thanh, Kim Thánh Thán phê bình luật thi đời Ðường, có đề xướng cách “phân giải” như sau : </p><p></p><p>8 câu chia làm 2 giải : 4 câu đầu gọi là tiền giải, 4 câu sau gọi là hậu giải. “ Hai câu 3, 4 chuyên thừa cho hai câu 1, 2, mà các câu 1, 2 thì có dụng ý cao trội hơn và còn nghiêm ngặt hơn, so với các câu 3, 4 ; hai câu 5, 6 chuyển xuống thành hai câu 7, 8, mà các câu 7, 8 thì hàm sâu xa hơn và còn mật thiết hơn, so với các câu 5, 6. Ðâu có thể lấy hai chữ “khởi”, “kết” mà bôi bỏ đi hết bao nhiêu tâm huyết của cổ nhân !” (Kim Thánh Thán tuyển phê Ðỗ thi) </p><p> </p><p><strong>4.Tuyệt cú </strong></p><p></p><p>Trong dân ca đời Lục Triều, đã thấy những bài bốn câu năm chữ hoặc bảy chữ. Các nhà thơ mới phỏng theo đó mà làm ra những bài bốn câu ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn. Ðến đời Ðường, lối thơ bốn câu này rất thịnh hành và được gọi là “tuyệt cú”. Sau khi có luật thi, lối tuyệt cú vô hình trung đồng hóa trong thể thơ này. Vì thế người ta thường ngộ nhận tuyệt cú là bài thơ do sự cắt bài luật thi mà thành. “Tứ nghĩa là bốn ; tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành”. (Dương Quảng Hàm, Văn học Việt-Nam). Do đó thơ tuyệt cú cũng phải tuân theo nhưng quy tắc về niêm, luật, vận như luật thi, và cũng có hai thể ngũ ngôn và thất ngôn.</p><p></p><p>Chính vì sự mơ hồ trong vấn đề nguồn gốc của lối thơ tuyệt cú mà phát sinh ra một cách cắt nghĩa khác về chữ “tuyệt” : “ Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một địa vị đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiển thâm, ẩn hiện, chính kỳ, phục khởi đủ cả, cho nên gọi là tuyệt.” (Bùi Kỷ, Quốc văn cụ thể).</p><p></p><p>Trong một bài tuyệt cú, câu 1 là khởi, câu 2 là thừa, câu 3 là chuyển, câu 4 là hợp. Bài Khuê oán của Vương Xương Linh là thí dụ điển hình của bố cục thơ này.</p><p></p><p>Khi làm thơ tuyệt cú, các nhà thơ đời Ðường cũng có thái độ như khi làm luật thi, nghĩa là không chịu sự câu thúc chặt chẽ của quy tắc.</p><p></p><p>Tóm lại, lối thơ cận thể với trật tự cẩn nghiêm, tề chỉnh, nói lên ảnh hưởng của Nho giáo, là một thành công lớn của người đời Ðường và là một bước tiến quan trọng của thi ca Trung Quốc. </p><p></p><p><strong>5.Nhạc phủ </strong></p><p></p><p></p><p>Nhạc phủ là một loại thơ làm theo nhiều thể khác nhau và có công dụng trong ca nhạc. Ðời Ðường, nhạc phủ gồm có những bài thơ cổ phong, luật thi và nhất là tuyệt cú. Vương Thế Trinh đời Thanh nói rằng : “Thơ tuyệt cú của ba trăm năm đời Ðường chính là nhạc phủ của ba trăm năm đời Ðường”.</p><p></p><p>Những bài thơ dùng trong ca nhạc đã có từ lâu, từ thời của Kinh thi và có thể trước nữa. Nhưng chỉ từ đời Hán Vũ Đế, danh từ “nhạc phủ” mới được dùng để chỉ thể thơ. Ðời Hán Huệ-đế, nhà vua thiết lập một cơ quan gọi là Nhạc phủ lệnh. Ðến đời Hán Vũ Đế (140- 86 trước Công nguyên), Nhạc phủ có qui mô mở rộng hơn, với Lý Diên Niên làm chức Hiệp luật đô úy. Từ đó trở đi, Nhạc phủ được dùng để chỉ loại thơ có thể hợp nhạc, và trở nên một thể thơ. Cuối đời Ðông Hán, vào thời Kiến An (196-220), ba cha con họ Tào (Tào Tháo, Tào Phi Tào Thực) làm ra nhiều bài nhạc phủ cổ áo, bi tráng, nổi tiếng một thời. Ðến thời Nam Bắc triều, các điệu nhạc mới của ngoại quốc du nhập nhiều. Nhạc phủ xưa không còn hợp với âm luật mới nữa ; nhưng vẫn còn nhiều nhà thơ dựa theo những bài nhạc phủ cũ để làm ra những bài mới, tuy gọi là nhạc phủ, song thực ra không còn được dùng trong ca nhạc.</p><p></p><p>Xét về nhạc phủ đời Ðường, ta thấy có thể chia ra làm bốn loại sau :</p><p></p><p><em>1) Những bài ca giao miếu, giống như Tụng trong Kinh Thi, không có giá trị về mặt văn chương. Thí dụ : bài Phong Thái sơn nhạc của Trương Thuyết.</em></p><p><em></em></p><p><em>2) Những bài thơ làm theo đề mục cũ của nhạc phủ, tuy có hay về mặt văn chương, nhưng không còn được dùng trong ca nhạc. Thí dụ : các bài Tương tiến tửu, Quan san nguyệt của Lý Bạch.</em></p><p><em></em></p><p><em>3) Những bài tân nhạc phủ có ý phúng dụ giống phong cách đời xưa, cũng không thể hợp nhạc. Thí dụ : 50 bài Tân nhạc phủ của Bạch Cư Dị.</em></p><p><em></em></p><p><em>4) Những bài thơ nổi tiếng được các linh quan của Lê viên phổ nhạc. Loại này có giá trị nhất, vì đích thực là nhạc phủ, lại vừa là kiệt tác xét về mặt văn chương. Ðó là những bài thơ tuyệt cú của Vương Chi Hoán, Vương Xương Linh, Vương Hàn, Cao Thích, Vương Duy … </em></p><p><em></em></p><p></p><p><strong>III.Nguyên nhân sự hưng thịnh của thơ Đường</strong></p><p></p><p>Tất cả các nhà phê bình văn học đều công nhận rằng đời Đường ( 618 – 907 ) là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc. Bộ Toàn Đường Thi ấn hành năm 1707 gồm 900 quyển, hợp thành 30 tập, chép 48.900 bài thơ của hơn 2.200 thi nhân đời Đường ( Đời Tống, Kế Hữu Công sọan bộ Đường Thi kỷ sự, gồm 81 quyển, chép thơ của 1.150 tác giả. Đời Minh, Cao Bính soạn bộ Đường thi phẩm vựng, gồm 90 quyển, chép hơn 5.700 bài thơ của 620 tác giả, sau lại bổ sung hơn 900 bài của 61 tác giả, làm thành 10 quyển thập di. Năm thứ 44, niên hiệu Khang Hy, đời Thanh ( 1705 ), vua Thánh Tổ dùng bộ Đường ấn thống thiêm làm căn bản, đem Toàn Đường thi tập chứa trong nội phủ ra, sai soạn thành bộ Toàn Đường thi ấn hành vào năm 1707 ) . Nếu đem số thơ này so với tổng số thơ làm ra trong bảy,tám trăm năm của tám đời (Đông Hán,, Ngụy, Tấn, Tề, Lương, Trần, Tùy ), thì thấy nhiều gấp mấy lần. Nhưng đó chỉ là xét về lượng. Thực ra trong lịch sử thi ca Trung Quốc, thơ đời Đường sở dĩ được người ta chú ý đến nhất, yêu chuộng nhất, chính là vì thời ấy đã xuất hiện những nhà thơ vĩ đại, có khuynh hướng sáng tác khác nhau, và nghệ thuật đạt đến mức thuần thục, hoàn hảo, khiến cho thơ của những đời kế tiếp chỉ là những bài mô phỏng, những thi sĩ đời sau chỉ là những đệ tử truyền thuật, và hễ nói đến thơ Tàu,người ta hầu như chỉ nói đến thơ Đường.</p><p></p><p>Về thi ca, Đường là thời đại nổi trội đặc biệt, có thể nói là không tiền khoáng hậu. Nhưng cái gì đã tạo nên sự hưng thịnh của Đường Thi, đó là một vấn đề khó biện giải thỏa đáng. Vì thế mà các luận giả đành phải liệt kê ra một số sự kiện, coi đó là những nhân tố góp phần tạo lập nên sự hưng thịnh này.</p><p></p><p><strong>1. Lòng trọng văn của vua chúa </strong></p><p></p><p>Hầu hết các vua nhà Đường đều yêu chuộng thơ văn. Đường Thái Tông khi còn là Tần Vương, đã mở Văn học quán, làm nơi hội họp các văn nhân. Khi lên ngôi, lại thiết kế Hoàng văn quán, thâu thập hơn 20 vạn cuốn sách, rồi cùng nghiên cứu, thảo luận với 18 quan Bác sĩ, trong đó có Đỗ Như Hối, Phòng Huyền Linh, Khổng Dĩnh Đạt, Ngu Thế Nam . Sách Tân Đường thư chép rằng, Thái Tông thường làm những bài cung thể diễm thi, rồi sai Ngu Thế Nam họa. Ngu Thế Nam bèn tâu can rằng : “ Tác phẩm của bệ hạ rất hay, nhưng thể không nhã chính. Hể bề trên ưa thích cái gì, thì kẽ dưới sẽ yêu thích nhiều hơn. Thần e rằng những bài thơ này một khi đã lưu truyền rồi, thiên hạ sẽ hùa theo mà làm “.</p><p></p><p>Những sách như Cổ Kim thi thoại, Tiểu thuyết cựu văn, Toàn Đường thi có chép một số giai thoại chứng tỏ Đường Thái Tông là một người rất yêu thơ. Khi Vũ hậu lâm triều, cũng từng xuống chiếu sưu tầm các sách thất lạc, để phát triển văn học. Đời Đường Trung Tông, vào ngày rằm tháng giêng hằng năm, nhà vua tổ chức ngày hội văn rất long trọng, quần thần đều phải dâng thơ chúc tụng. Đường Huyền Tông là một nhà thơ có tài, rất sủng bái Lý Bạch. Bạch Cư Dị được Hiến Tông phong làm chức học sĩ nhờ có bài thơ phúng giáng. Nguyên Chẩn được Mục Tông bổ làm Từ bộ lang trung cũng chỉ vì mấy bài ca. Văn Tông rất thích thơ ngũ ngôn, có đặt ra mười hai quan thi học sĩ. Tóm lại trong đời Đường, thi ca vì được vua chúa yêu chuộng, đã trở nên bậc thang đưa lên chổ vinh hoa, phú quí. Do đó, từ kinh thành cho đến đồng nội, núi rừng, người ta đua nhau đọc thơ, làm thơ, gây nên một phong trào thi ca bồng bột, mãnh liệt. Bị lôi cuốn trong trào lưu ấy, có người làm thơ vì mục đích giàu sang, nhưng cũng có người vì thực lòng yêu thơ ; và chính tự nơi những người này, đã xuất hiện những thi nhân lỗi lạc.</p><p></p><p><strong>2. Việc dùng thơ trong khoa cử </strong></p><p></p><p>Đầu đời Đường, khoa thi tiến sĩ vẫn giữ thể thức của đời Tùy, chỉ hỏi về sách ( kế hoạch ). Đến năm thứ 2, niên hiệu Vĩnh Long ( 681 ), đời Đường Cao Tông, quan Khảo công viên ngoại lang Lưu Tư Lập tâu rằng :</p><p></p><p>“ Các tiến sĩ chỉ đọc các sách cũ, chứ không có thực tài “.</p><p></p><p>Vua bèn xuống chiếu, sửa đổi thể thức ra bài thi trong khoa thi tiến sĩ : thí sinh phải làm hai bài tạp văn ( thi, phú ) để tỏ ra thông hiểu âm luật, rồi sau mới thi sách. Thơ đã được vua chúa yêu thích, từ đây lại được dùng trong khoa cử. Người có tài thơ rất dễ có dịp tiến thân, lại có danh dự cao hơn những người chiếm ngôi cao bằng những đường lối khác. Từ thời Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông trở đi, khoa thi tiến sĩ được tôn trọng đặc biệt. Các danh sĩ phần nhiều trúng tuyển khoa này. Các quan công khanh nào mà không xuất thân tiến sĩ, đều không được xem là tôn quí. Xem thế có thể nói rằng đa số quan lại đời Đường đều là những người làm thơ, nếu không muốn nói là thi sĩ. Tuy nhiên cũng nên biết rằng hai thi hào Lý Bạch, Đỗ Phủ đều không đậu khoa thi này.</p><p></p><p><strong>3. Sự hoàn thành các thể thơ mới </strong></p><p></p><p>Trong văn học Trung Quốc, người ta phân biệt thi với phú. Những bài Kinh Thi mới gọi là thi, còn những bài trong Sở từ ( trong đó có Ly tao ) thì thuộc lãnh vực phú. Chí Ngu, tác giả sách Văn chương lưu biệt luận cho rằng tất cả những thể thơ có từ ba đến chín chữ đều bắt nguồn từ Kinh Thi. Nhưng thực ra tứ ngôn ( 4 chữ ) mới là thể thơ chính của Kinh Thi. Đến đời Hán, mới xuất hiện thể ngũ ngôn và thất ngôn cổ phong. Đời Đường là thời kì hoàn thành một thể mới gọi là cận thể hay kim thể, phân biệt với cổ phong hay cổ thể nói trên bằng cách luật nghiêm ngặt, chặt chẽ. Thơ cận thể hoàn chỉnh ở đời Đường, tiếp tục thịnh hành trong các thời đại sau. Mãi đến hồi đầu thế kỷ này, với sự du nhập của văn hóa Tây phương và sự thay thế văn ngôn bằng bạch thoại, thì thể thơ này mới suy tàn, nhường chổ cho một thể thơ mới khác mà người Tàu gọi là tân thể thi.</p><p><strong></strong></p><p><strong>4. Sự phát triển của sinh hoạt trí thức và nghệ thuật </strong></p><p></p><p>Về mặt tư tưởng, đặc điểm của đời Đường là sự tịnh thịnh của ba giáo thuyết Nho, Đạo và Phật. Tình trạng này có ảnh hưởng đối với khuynh hướng sáng tác của thi nhân và đem lại hứng vị dị biệt cho tác phẩm.</p><p></p><p>Nho giáo được tôn sùng từ thời nhà Hán với Đổng Trọng Thư, nay lại càng hưng thịnh. Năm 619, Đường Cao Tổ lập miếu thờ Chu Công, Khổng Tử ở Quốc Tử học. Đường Thái Tông mở Văn học quán, cùng với 18 học sĩ trong đó có Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, thảo luận về nghĩa kinh. Phong Khổng Tử làm tiên thánh, Nhan Tử làm tiên sư. Năm 647, lạ xuống chiếu cho Tả Khâu Minh, Bốc Tử Hạ … cả thảy 21 người được phối hưởng tại miếu Tuyên Ni ; sai Khổng Dĩnh Đạt cùng một số nhà Nho soạn bộ Ngữ kinh chính nghĩa, gồm 170 quyển. Đó là bộ sách dùng trong khoa cử nhà Đường và Đời Tống. Loại thơ phúng thích xã hội như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị đã thấm nhuần cái tinh thần bao biếm cũng nhu7 tư tưởng tích cực của Khổng Tử.</p><p></p><p>Trong các đời Tần Hán. Đạo gia có ảnh hưởng lớn. Đến đời Đường, hầu như trở thành quốc giáo. Năm 620, Đường Cao Tổ ( Lý Uyên ) tin thuyết của Cát Thiện, người Tấn Châu, tôn Lão Tử ( Lý Nhĩ ) làm tổ và lập miếu thờ. Năm 666, Cao tông truy tôn Lão Tử làm Huyền Nguyên Hoàng đế. Năm 741, Huyền Tông giáng chiếu lập miếu thờ Lão Tử ở hai kinh và các châu. Năm 743, truy tôn Lão Tử làm Đại Thánh Tổ Huyền Nguyên Hoàng đế. Vua lại tự chú thích Đạo Đức Kinh, coi là sách đứng đầu các kinh. Phong Trang Tử làm Nam Hoa chân nhân, và gọi tác phẩm của các nhà này là chân kinh. Sùng huyền quán được thiết lập, là nơi học sinh khảo cứu chân kinh để ứng thí. Đạo sĩ rất được tôn trọng, thụât luyện đan rất thịnh hành. Nhiều vương hầu, công chúa, quan chức,văn nhân là đệ tử của Đạo gia. Nhiều vua chết vì dùng đan dược, như Thái Tông, Hiến Tông ( phát bệnh cuồng nộ, bị hoạn quan giết ), Vũ Tông, Tuyên Tông. Số công chúa,các vương chết vì phục dược có đến mấy trăm người. Các văn nhân như Lư Chiếu Lân, Lý Kỳ, Lý Bạch, Sử Quang Huy, Bạch Cư Dị, Lục Qui Mông đều ưa thích đan dược. Cả đến Hàn Dũ bình sinh bài xích Lão Trang, mà cuối đời cũng vì dùng thuốc Đạo gia mà vong thân. Ảnh hưởng của Đạo giáo với thi ca rất lớn lao. Những bài thơ thần tiên của Lý Bạch, tự nhiên cùa Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên và duy mỹ của Lý Thương Ẩn là những tác phẩm tiêu biểu của loại thơ có màu sắc Đạo gia. Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ thời Đông Hán, và rất hoạt động trong thời Nam Bắc triều, nhưng đến đời Đường mới thật thịnh đạt. Trong thời Trinh Quán, Huyền Trang rời Trường An, theo đường bộ du hành tại Ấn Độ trong 14 năm ( 630 – 644 ), đi qua 128 nước, đem về 650 bộ kinh, rồi cùng các đệ tử phiên dịch. Đường Thái Tông đích thân làm bài Tam Tạng thánh giáo tự để tỏ lòng sủng ái. Đời Đường Cao Tông, Nghĩa Tỉnh vượt biển Nam Hải sang Ấn Độ, đi qua hơn 30 nước, đem về hơn 400 bộ kinh. Đời Hiến Tông, vua thân tự đón xương Phật để cầu phúc ; vì can ngăn việc này, Hàn Dũ bị biếm. Đến đời Văn Tông, trong nước có đến hơn bốn vạn ngôi chùa và hơn bảy chục vạn tăng ni. Chỉ có đời Vũ Tông là đạo Phật bị bài xích. Năm 845, vua hạ chiếu hủy tượng, phá chùa. Nhưng đến các đời vua sau, Phật giáo lại hưng khởi. Tóm lại ở đời Đường, Phật giáo nhờ sự tôn sùng của vua chúa và công trình dịch kinh của chư tăng, đã lan rộng, thấm sâu trong các tầng lớp nhân dân. Trong số các thi nhân nổi tiếng Giả Đảo đã từng làm tăng, Vương Duy là nhân vật quan trọng trong Nam phái thiền tông. Tuy không có ảnh hưởng nhiều như Nho và Đạo, Phật giáo cũng đem lại cho thi ca đời Đường những sắc thái và ý tưởng đặc biệt.</p><p></p><p>Về hội họa, đời Đường có ba họa phái lớn với ba nhà nổi tiếng là : Vương Duy, Ngô Đạo Tử và Lý Tư Huấn. Vương Duy chuyên vẽ tranh sơn thủy, mở đầu cho phái họa Nam Tông. Trong cuốn học họa bí quyết, ông viết : “ Trong đạo họa, phép về thủy mặc hơn hết. Hình ảnh trong gương tăng màu sắc nhân vật ; hình ảnh dưới trăng là bức trăng thủy mặc. Hình ảnh sông núi dưới bóng trăng là địa lý trong thiên văn ; hình ảnh trăng sao trên mặt nước là thiên văn trong địa lý “. Dưới ngọn bút của Vương Duy, thi và họa hòa đồng với nhau, phô bày vẽ đẹp : “ Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi ( Trong thơ có họa, trong họa có thơ ) . Ngô Đạo Tử và Lý Tư Huấn có khuynh hướng hội họa trái ngược nhau. </p><p></p><p>Truyện chép rằng, khi ở đất Thục lánh nạn An Lộc Sơn, Đường Huyền Tông có sai Ngô, Lý ve về phong cảnh xứ này. Ngô Đạo Tử ngồi trong điện Đại Đồng, chỉ trong một ngày đã vẽ xong cảnh vật miền sông Gia Lăng dài ba trăm dặm, vì chỉ chú ý đến những điểm nào gợi hứng nhất. Trái lại Lý Tư Huấn chủ trương mô phỏng thiên nhiên, đã để ra hàng tháng trời vẽ tỉ mỉ, cặn kẽ từng tảng đá, gợn sóng, ngọn cỏ lá cây. Cả hai bức tranh dâng lên, đều được Huyền Tông khen ngợi. Ngô Đạo Tử được người đời gọi là Họa Thánh ; Lý Tư Huấn là tổ của họa phái Bắc Tông. Từ thời ấy trở đi, các họa sĩ Trung Quốc không nhiều thì ít, đều là môn đệ của hai nhà này.</p><p></p><p>Cùng với các ngành hội họa, nghề làm đồ sứ rất tiến bộ trong đời Đường. Cách trình bày rất mỹ thuật với đặc điểm là dùng ba màu : nền trắng, hình vẽ màu vàng hay lục.</p><p></p><p>Nghề in cũng rất cải tiến. Đời Hán người ta đã khắc kinh truyện trên những tấm bia. Người đời Đường nhân đó mới có ý nghĩa khắc chữ lên mặt đá, rồi bôi mực mà in : chữ trắng nổi bậc trên nền đen. Đến thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông ( 770 ), người ta dùng gổ thay đá để in Tứ Thư, Ngũ kinh, Phương pháp ấn loát này rất thông dụng trong các đời Đường Tống.</p><p></p><p><strong>5. Sự thịnh vượng của tình trạng, chính trị, kinh tế xã hội </strong>:</p><p></p><p>Sách Cựu Đường thư chép rằng, năm thứ 8 niên hiệu Trinh Quán ( 634 ) trong tiệc yến tại cung Vị Ương, có Hiệt Lợi khả hãn của Đột Quyết múa và tù trưởng Nam Việt là Phùng Trí Đới vịnh thơ, Đường Cao Tổ cười nói :” Hồ Việt một nhà từ xưa chưa từng có cảnh tượng này “.</p><p></p><p>Đường Thái Tông ( Lý Thế Dân ) biết dùng các hiền thần như Phùng Huyền Linh, Đỗ Như Hối,Ngụy Trưng và các võ tướng như Lý Tĩnh, Lý Tích làm cho đời Đường thành một thời đại hưng thịnh cả về văn trị lẫn võ công. Thi hành chế độ phủ binh, tạo nên một quân lục hùng hậu, khiến cương thổ mở rộng, uy thanh lan tràn đến nhiều nước khác. Quốc thế thịnh hơn cả đời Hán : ngoại quốc gọi người Tàu là “Đường nhân” ( người Đường ). Chế độ quân điền và phép tô dung địêu được ban hành, khiến cho nông nghiệp mở mang, công thương nghiệp phát triển. Trường an và Lạc Dương là hai trung tâm trọng yếu về thương mại và công nghệ. Xét chung thì như vậy ; thực ra thì chỉ có thời Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông, là hoàn toàn thịnh trị, như thơ Đỗ Phủ nói : “Ức tích Khai Nguyên toàn thịnh nhật “ ( Nhớ ngày toàn thịnh thời Khai Nguyên ). Sau đó từ loạn An Lộc Sơn trở đi, tình hình xã hội tiếp tục suy đồi. Tác phẩm của các nhà thơ xã hội như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị phản ánh rất rõ thực trạng này. </p><p></p><p><strong><em><p style="text-align: right">(Sưu tầm)</p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 18888, member: 699"] [B]II.Các thể thơ trong Đường thi [/B] Ðường Thi Tam Bách Thủ ( Ba trăm bài thơ Ðường) là cuốn hợp tuyển gồm những được cho là tiêu biểu của thi ca đời Ðường. Ta có thể căn cứ vào sự phân loại trong sách này, lấy thể thơ làm tiêu chuẩn, chia thơ Ðường ra làm sáu loại sau : ngũ ngôn cổ thi, thất ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật thi, thất ngôn luật thi, ngũ ngôn tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú. Trong mỗi loại, ở phần dưới, là những bài nhạc-phủ làm theo thể thơ thuộc loại ấy. [B]1[/B][B].Cổ thể hay Cổ phong [/B] Thể thơ này không có luật lệ nhất định. Không hạn định số câu. Cách gieo vần rất rộng rãi, uyển chuyển. Có thể dùng độc vận (một vần), liên vận (nhiều vần) hay không hiệp vận. Vận chính là các vận thuộc cùng một vận bộ. Vận thông là các vận thuộc hai vận bộ khác nhau, có âm thanh tương tự. Vận chuyển là những vận có âm vốn không giống nhau. Ngoài ra, thể này không phải theo niêm, luật, cũng không bắt buộc phải có đối ngẫu. Những bài thơ làm theo thể này gọi là cổ thi, bắt đầu xuất hiện vào đời Hán. Có ngũ ngôn cổ thi và thất ngôn cổ thi; trong đó có thể xen những câu dài hoặc ngắn hơn. Trước kia người ta cho rằng thể ngũ ngôn cổ thi khởi đầu từ các bài Hà Lương tặng đáp của Tô Vũ và Lý Lăng. Thực ra những bài này là ngụy tác của người đời sau. Một thuyết khác cho rằng Cổ thi thập cửu thủ ( Mười chín bài cổ thi) do Mai Thặng đời Hán Vũ Đế làm ra những bài cổ thi đầu tiên. Hiện nay người ta công nhận thuyết ấy, nhưng nghi ngờ những bài này đều không phải là của Mai Thặng, mà có lẽ là tác phẩm của nhiều người. Còn thể thất ngôn cổ thi, cho đến nay người ta vẫn cho rằng khởi đầu từ bài thơ Bách Lương làm theo lối liên cú đời Hán Vũ Đế. Sử chép rằng năm thứ 3 niên hiệu Nguyên Phong (108 trước Công nguyên), vua Hán Vũ Đế xây đài Bách Lương, rồi xuống chiếu cho quần thần làm thơ thất ngôn, hễ ai làm được thì được lên ngồi trên đài này. [B]2.Cận thể hay Kim thể [/B] Người đời Ðường gọi lối thơ tuyệt cú và lối thơ luật là cận thể hay kim thể, để phân biệt cổ thể hay cổ phong nói trên. Thơ cận thể thật ra đã xuất hiện trong đời Lục Triều, sau công trình biện biệt tứ thanh của nhóm Thẩm Ướt (Thẩm Ước là tác giả sách Tứ thanh phổ, người thời Vĩnh Minh (483-493), đời Tề), và việc phân định vận của nhóm Lục Pháp Ngôn (Lục Pháp Ngôn là tác giả sách Thiết vận, người đời Tùy Văn Đế (581-640). ). Nhưng đến đời Ðường, mới có sự phân biệt rõ rệt thơ cổ với thơ cận thể . [B]3.Luật thi [/B] Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường Ẩm Thẩm Thể nói rằng : “ Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm”. Có thể giải thích thêm về thể cách của thi như sau : a) Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết; b) Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo; c) Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm. Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối. Về đối ngẫu , Lưu Hiệp đời Lục Triều, tác giả sách Văn Tâm Ðiêu Long, đã phân biệt bốn cách là : Ngôn đối, Sự đối, Chính đối và Phản đối. Ngôn đối là đối bằng lời suông. Sự đối là đối bằng điển cố. Hai câu mỗi câu trình bày một sự việc nhưng nói lên cùng một ý, là chính đối. Nếu hai sự việc đó trái ngược nhau, thì gọi là phản đối. Sự đối và phản đối khó làm hơn và có giá trị hơn là ngôn đối và chính đối. Ðến thời Sơ Ðường, Thượng Quan Nghi phân biệt sáu cách đối là : 1[I]) Chính danh đối, như thiên địa đối với nhật nguyệt; 2) Ðồng loại đối, như hoa diệp đối với thảo mao; 3) Liên châu đối, như tiêu tiêu đối với hách hách; 4) Song thanh đối, như hoàng hòe đối với lục liễu; 5) Ðiệp vận đối, như bàng hoàng đối với phóng khoáng ; 6) Song nghĩ đối, như xuân thụ đối với thu trì (theo sách Thi uyển loại cách)[/I] Một bài luật thi hoàn chỉnh dùng vào việc ứng chế, ứng thí, có thể định nghĩa là một bài thơ tám câu hoăc năm chữ ngũ ngôn luật thi hoặc bảy chữ thất ngôn luật thi, phải theo những qui tắc nhất định về niêm, luật ; bốn câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau từng đôi một. Tuy nhiên, người ta thấy rằng ngoại trừ khi ứng chế hoặc ứng thí, người đời Ðường thường dùng thể luật thi một cách uyển chuyển, rộng rãi. Ngoài những bài có bốn câu giữa đối nhau, cũng có những bài hoặc hoặc tám câu toàn đối, hoặc sáu câu, hoặc hai câu đối nhau, không nhất định. Về niêm, cũng có những bài không giữ đúng lệ ( thất niêm ). Về luật, sự sử dụng “ảo cú” làm cho quy tắc bớt chặt chẽ, câu thơ có âm điệu biến đổi bất thường. Ảo cú là câu thơ trong đó có chữ đáng bằng đổi thành trắc, hay đáng trắc đổi ra bằng, không theo cách thường. Thí dụ : Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt, Tùy quân trực đáo Dạ Lang tây. (Lý Bạch) ( Lòng sầu ta gởi cùng trăng sáng, Theo gót người đi đến Dạ Lang.) Ánh giai bích thảo tự xuân sắc, Cách diệp hoàng ly không hảo âm. (Ðỗ Phủ) (Soi thềm, cỏ biếc còn tươi thắm; Cánh lá, oanh vàng vẫn hót hay.) Về vận, bài luật thi bắt buộc phải dùng vận chính (không được dùng vận thông, vận chuyển), căn cứ vào cuốn qui định vận bộ do triều đình ban hành. Ðời Ðường Huyền Tông có cuốn “Vận Anh”, cải biên theo cuốn “Thiết Vận” của Lục Pháp Ngôn đời Tùy, rồi cuốn “Ðường Vận” của Tôn Miễn, bổ khuyết sách trên. Về việc dàn ý, bài luật thi vốn có bố cục như sau : các câu 1, 2 là khởi (khai), các câu 3, 4 là thừa, các câu 5, 6 là chuyển, các câu 7, 8 là hợp (hạp). Ngoài các câu đầu và kết ra, trong những câu giữa, muốn nói gì cũng được, không có lệ nhất định. Chỉ trong những khoa thi về sau, bài luật thi mới có bố cục chật hẹp (phá, thừa, thực, luận, kết). Khoảng đời Thanh, Kim Thánh Thán phê bình luật thi đời Ðường, có đề xướng cách “phân giải” như sau : 8 câu chia làm 2 giải : 4 câu đầu gọi là tiền giải, 4 câu sau gọi là hậu giải. “ Hai câu 3, 4 chuyên thừa cho hai câu 1, 2, mà các câu 1, 2 thì có dụng ý cao trội hơn và còn nghiêm ngặt hơn, so với các câu 3, 4 ; hai câu 5, 6 chuyển xuống thành hai câu 7, 8, mà các câu 7, 8 thì hàm sâu xa hơn và còn mật thiết hơn, so với các câu 5, 6. Ðâu có thể lấy hai chữ “khởi”, “kết” mà bôi bỏ đi hết bao nhiêu tâm huyết của cổ nhân !” (Kim Thánh Thán tuyển phê Ðỗ thi) [B]4.Tuyệt cú [/B] Trong dân ca đời Lục Triều, đã thấy những bài bốn câu năm chữ hoặc bảy chữ. Các nhà thơ mới phỏng theo đó mà làm ra những bài bốn câu ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn. Ðến đời Ðường, lối thơ bốn câu này rất thịnh hành và được gọi là “tuyệt cú”. Sau khi có luật thi, lối tuyệt cú vô hình trung đồng hóa trong thể thơ này. Vì thế người ta thường ngộ nhận tuyệt cú là bài thơ do sự cắt bài luật thi mà thành. “Tứ nghĩa là bốn ; tuyệt nghĩa là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành”. (Dương Quảng Hàm, Văn học Việt-Nam). Do đó thơ tuyệt cú cũng phải tuân theo nhưng quy tắc về niêm, luật, vận như luật thi, và cũng có hai thể ngũ ngôn và thất ngôn. Chính vì sự mơ hồ trong vấn đề nguồn gốc của lối thơ tuyệt cú mà phát sinh ra một cách cắt nghĩa khác về chữ “tuyệt” : “ Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một địa vị đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà thiển thâm, ẩn hiện, chính kỳ, phục khởi đủ cả, cho nên gọi là tuyệt.” (Bùi Kỷ, Quốc văn cụ thể). Trong một bài tuyệt cú, câu 1 là khởi, câu 2 là thừa, câu 3 là chuyển, câu 4 là hợp. Bài Khuê oán của Vương Xương Linh là thí dụ điển hình của bố cục thơ này. Khi làm thơ tuyệt cú, các nhà thơ đời Ðường cũng có thái độ như khi làm luật thi, nghĩa là không chịu sự câu thúc chặt chẽ của quy tắc. Tóm lại, lối thơ cận thể với trật tự cẩn nghiêm, tề chỉnh, nói lên ảnh hưởng của Nho giáo, là một thành công lớn của người đời Ðường và là một bước tiến quan trọng của thi ca Trung Quốc. [B]5.Nhạc phủ [/B] Nhạc phủ là một loại thơ làm theo nhiều thể khác nhau và có công dụng trong ca nhạc. Ðời Ðường, nhạc phủ gồm có những bài thơ cổ phong, luật thi và nhất là tuyệt cú. Vương Thế Trinh đời Thanh nói rằng : “Thơ tuyệt cú của ba trăm năm đời Ðường chính là nhạc phủ của ba trăm năm đời Ðường”. Những bài thơ dùng trong ca nhạc đã có từ lâu, từ thời của Kinh thi và có thể trước nữa. Nhưng chỉ từ đời Hán Vũ Đế, danh từ “nhạc phủ” mới được dùng để chỉ thể thơ. Ðời Hán Huệ-đế, nhà vua thiết lập một cơ quan gọi là Nhạc phủ lệnh. Ðến đời Hán Vũ Đế (140- 86 trước Công nguyên), Nhạc phủ có qui mô mở rộng hơn, với Lý Diên Niên làm chức Hiệp luật đô úy. Từ đó trở đi, Nhạc phủ được dùng để chỉ loại thơ có thể hợp nhạc, và trở nên một thể thơ. Cuối đời Ðông Hán, vào thời Kiến An (196-220), ba cha con họ Tào (Tào Tháo, Tào Phi Tào Thực) làm ra nhiều bài nhạc phủ cổ áo, bi tráng, nổi tiếng một thời. Ðến thời Nam Bắc triều, các điệu nhạc mới của ngoại quốc du nhập nhiều. Nhạc phủ xưa không còn hợp với âm luật mới nữa ; nhưng vẫn còn nhiều nhà thơ dựa theo những bài nhạc phủ cũ để làm ra những bài mới, tuy gọi là nhạc phủ, song thực ra không còn được dùng trong ca nhạc. Xét về nhạc phủ đời Ðường, ta thấy có thể chia ra làm bốn loại sau : [I]1) Những bài ca giao miếu, giống như Tụng trong Kinh Thi, không có giá trị về mặt văn chương. Thí dụ : bài Phong Thái sơn nhạc của Trương Thuyết. 2) Những bài thơ làm theo đề mục cũ của nhạc phủ, tuy có hay về mặt văn chương, nhưng không còn được dùng trong ca nhạc. Thí dụ : các bài Tương tiến tửu, Quan san nguyệt của Lý Bạch. 3) Những bài tân nhạc phủ có ý phúng dụ giống phong cách đời xưa, cũng không thể hợp nhạc. Thí dụ : 50 bài Tân nhạc phủ của Bạch Cư Dị. 4) Những bài thơ nổi tiếng được các linh quan của Lê viên phổ nhạc. Loại này có giá trị nhất, vì đích thực là nhạc phủ, lại vừa là kiệt tác xét về mặt văn chương. Ðó là những bài thơ tuyệt cú của Vương Chi Hoán, Vương Xương Linh, Vương Hàn, Cao Thích, Vương Duy … [/I] [B]III.Nguyên nhân sự hưng thịnh của thơ Đường[/B] Tất cả các nhà phê bình văn học đều công nhận rằng đời Đường ( 618 – 907 ) là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc. Bộ Toàn Đường Thi ấn hành năm 1707 gồm 900 quyển, hợp thành 30 tập, chép 48.900 bài thơ của hơn 2.200 thi nhân đời Đường ( Đời Tống, Kế Hữu Công sọan bộ Đường Thi kỷ sự, gồm 81 quyển, chép thơ của 1.150 tác giả. Đời Minh, Cao Bính soạn bộ Đường thi phẩm vựng, gồm 90 quyển, chép hơn 5.700 bài thơ của 620 tác giả, sau lại bổ sung hơn 900 bài của 61 tác giả, làm thành 10 quyển thập di. Năm thứ 44, niên hiệu Khang Hy, đời Thanh ( 1705 ), vua Thánh Tổ dùng bộ Đường ấn thống thiêm làm căn bản, đem Toàn Đường thi tập chứa trong nội phủ ra, sai soạn thành bộ Toàn Đường thi ấn hành vào năm 1707 ) . Nếu đem số thơ này so với tổng số thơ làm ra trong bảy,tám trăm năm của tám đời (Đông Hán,, Ngụy, Tấn, Tề, Lương, Trần, Tùy ), thì thấy nhiều gấp mấy lần. Nhưng đó chỉ là xét về lượng. Thực ra trong lịch sử thi ca Trung Quốc, thơ đời Đường sở dĩ được người ta chú ý đến nhất, yêu chuộng nhất, chính là vì thời ấy đã xuất hiện những nhà thơ vĩ đại, có khuynh hướng sáng tác khác nhau, và nghệ thuật đạt đến mức thuần thục, hoàn hảo, khiến cho thơ của những đời kế tiếp chỉ là những bài mô phỏng, những thi sĩ đời sau chỉ là những đệ tử truyền thuật, và hễ nói đến thơ Tàu,người ta hầu như chỉ nói đến thơ Đường. Về thi ca, Đường là thời đại nổi trội đặc biệt, có thể nói là không tiền khoáng hậu. Nhưng cái gì đã tạo nên sự hưng thịnh của Đường Thi, đó là một vấn đề khó biện giải thỏa đáng. Vì thế mà các luận giả đành phải liệt kê ra một số sự kiện, coi đó là những nhân tố góp phần tạo lập nên sự hưng thịnh này. [B]1. Lòng trọng văn của vua chúa [/B] Hầu hết các vua nhà Đường đều yêu chuộng thơ văn. Đường Thái Tông khi còn là Tần Vương, đã mở Văn học quán, làm nơi hội họp các văn nhân. Khi lên ngôi, lại thiết kế Hoàng văn quán, thâu thập hơn 20 vạn cuốn sách, rồi cùng nghiên cứu, thảo luận với 18 quan Bác sĩ, trong đó có Đỗ Như Hối, Phòng Huyền Linh, Khổng Dĩnh Đạt, Ngu Thế Nam . Sách Tân Đường thư chép rằng, Thái Tông thường làm những bài cung thể diễm thi, rồi sai Ngu Thế Nam họa. Ngu Thế Nam bèn tâu can rằng : “ Tác phẩm của bệ hạ rất hay, nhưng thể không nhã chính. Hể bề trên ưa thích cái gì, thì kẽ dưới sẽ yêu thích nhiều hơn. Thần e rằng những bài thơ này một khi đã lưu truyền rồi, thiên hạ sẽ hùa theo mà làm “. Những sách như Cổ Kim thi thoại, Tiểu thuyết cựu văn, Toàn Đường thi có chép một số giai thoại chứng tỏ Đường Thái Tông là một người rất yêu thơ. Khi Vũ hậu lâm triều, cũng từng xuống chiếu sưu tầm các sách thất lạc, để phát triển văn học. Đời Đường Trung Tông, vào ngày rằm tháng giêng hằng năm, nhà vua tổ chức ngày hội văn rất long trọng, quần thần đều phải dâng thơ chúc tụng. Đường Huyền Tông là một nhà thơ có tài, rất sủng bái Lý Bạch. Bạch Cư Dị được Hiến Tông phong làm chức học sĩ nhờ có bài thơ phúng giáng. Nguyên Chẩn được Mục Tông bổ làm Từ bộ lang trung cũng chỉ vì mấy bài ca. Văn Tông rất thích thơ ngũ ngôn, có đặt ra mười hai quan thi học sĩ. Tóm lại trong đời Đường, thi ca vì được vua chúa yêu chuộng, đã trở nên bậc thang đưa lên chổ vinh hoa, phú quí. Do đó, từ kinh thành cho đến đồng nội, núi rừng, người ta đua nhau đọc thơ, làm thơ, gây nên một phong trào thi ca bồng bột, mãnh liệt. Bị lôi cuốn trong trào lưu ấy, có người làm thơ vì mục đích giàu sang, nhưng cũng có người vì thực lòng yêu thơ ; và chính tự nơi những người này, đã xuất hiện những thi nhân lỗi lạc. [B]2. Việc dùng thơ trong khoa cử [/B] Đầu đời Đường, khoa thi tiến sĩ vẫn giữ thể thức của đời Tùy, chỉ hỏi về sách ( kế hoạch ). Đến năm thứ 2, niên hiệu Vĩnh Long ( 681 ), đời Đường Cao Tông, quan Khảo công viên ngoại lang Lưu Tư Lập tâu rằng : “ Các tiến sĩ chỉ đọc các sách cũ, chứ không có thực tài “. Vua bèn xuống chiếu, sửa đổi thể thức ra bài thi trong khoa thi tiến sĩ : thí sinh phải làm hai bài tạp văn ( thi, phú ) để tỏ ra thông hiểu âm luật, rồi sau mới thi sách. Thơ đã được vua chúa yêu thích, từ đây lại được dùng trong khoa cử. Người có tài thơ rất dễ có dịp tiến thân, lại có danh dự cao hơn những người chiếm ngôi cao bằng những đường lối khác. Từ thời Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông trở đi, khoa thi tiến sĩ được tôn trọng đặc biệt. Các danh sĩ phần nhiều trúng tuyển khoa này. Các quan công khanh nào mà không xuất thân tiến sĩ, đều không được xem là tôn quí. Xem thế có thể nói rằng đa số quan lại đời Đường đều là những người làm thơ, nếu không muốn nói là thi sĩ. Tuy nhiên cũng nên biết rằng hai thi hào Lý Bạch, Đỗ Phủ đều không đậu khoa thi này. [B]3. Sự hoàn thành các thể thơ mới [/B] Trong văn học Trung Quốc, người ta phân biệt thi với phú. Những bài Kinh Thi mới gọi là thi, còn những bài trong Sở từ ( trong đó có Ly tao ) thì thuộc lãnh vực phú. Chí Ngu, tác giả sách Văn chương lưu biệt luận cho rằng tất cả những thể thơ có từ ba đến chín chữ đều bắt nguồn từ Kinh Thi. Nhưng thực ra tứ ngôn ( 4 chữ ) mới là thể thơ chính của Kinh Thi. Đến đời Hán, mới xuất hiện thể ngũ ngôn và thất ngôn cổ phong. Đời Đường là thời kì hoàn thành một thể mới gọi là cận thể hay kim thể, phân biệt với cổ phong hay cổ thể nói trên bằng cách luật nghiêm ngặt, chặt chẽ. Thơ cận thể hoàn chỉnh ở đời Đường, tiếp tục thịnh hành trong các thời đại sau. Mãi đến hồi đầu thế kỷ này, với sự du nhập của văn hóa Tây phương và sự thay thế văn ngôn bằng bạch thoại, thì thể thơ này mới suy tàn, nhường chổ cho một thể thơ mới khác mà người Tàu gọi là tân thể thi. [B] 4. Sự phát triển của sinh hoạt trí thức và nghệ thuật [/B] Về mặt tư tưởng, đặc điểm của đời Đường là sự tịnh thịnh của ba giáo thuyết Nho, Đạo và Phật. Tình trạng này có ảnh hưởng đối với khuynh hướng sáng tác của thi nhân và đem lại hứng vị dị biệt cho tác phẩm. Nho giáo được tôn sùng từ thời nhà Hán với Đổng Trọng Thư, nay lại càng hưng thịnh. Năm 619, Đường Cao Tổ lập miếu thờ Chu Công, Khổng Tử ở Quốc Tử học. Đường Thái Tông mở Văn học quán, cùng với 18 học sĩ trong đó có Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, thảo luận về nghĩa kinh. Phong Khổng Tử làm tiên thánh, Nhan Tử làm tiên sư. Năm 647, lạ xuống chiếu cho Tả Khâu Minh, Bốc Tử Hạ … cả thảy 21 người được phối hưởng tại miếu Tuyên Ni ; sai Khổng Dĩnh Đạt cùng một số nhà Nho soạn bộ Ngữ kinh chính nghĩa, gồm 170 quyển. Đó là bộ sách dùng trong khoa cử nhà Đường và Đời Tống. Loại thơ phúng thích xã hội như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị đã thấm nhuần cái tinh thần bao biếm cũng nhu7 tư tưởng tích cực của Khổng Tử. Trong các đời Tần Hán. Đạo gia có ảnh hưởng lớn. Đến đời Đường, hầu như trở thành quốc giáo. Năm 620, Đường Cao Tổ ( Lý Uyên ) tin thuyết của Cát Thiện, người Tấn Châu, tôn Lão Tử ( Lý Nhĩ ) làm tổ và lập miếu thờ. Năm 666, Cao tông truy tôn Lão Tử làm Huyền Nguyên Hoàng đế. Năm 741, Huyền Tông giáng chiếu lập miếu thờ Lão Tử ở hai kinh và các châu. Năm 743, truy tôn Lão Tử làm Đại Thánh Tổ Huyền Nguyên Hoàng đế. Vua lại tự chú thích Đạo Đức Kinh, coi là sách đứng đầu các kinh. Phong Trang Tử làm Nam Hoa chân nhân, và gọi tác phẩm của các nhà này là chân kinh. Sùng huyền quán được thiết lập, là nơi học sinh khảo cứu chân kinh để ứng thí. Đạo sĩ rất được tôn trọng, thụât luyện đan rất thịnh hành. Nhiều vương hầu, công chúa, quan chức,văn nhân là đệ tử của Đạo gia. Nhiều vua chết vì dùng đan dược, như Thái Tông, Hiến Tông ( phát bệnh cuồng nộ, bị hoạn quan giết ), Vũ Tông, Tuyên Tông. Số công chúa,các vương chết vì phục dược có đến mấy trăm người. Các văn nhân như Lư Chiếu Lân, Lý Kỳ, Lý Bạch, Sử Quang Huy, Bạch Cư Dị, Lục Qui Mông đều ưa thích đan dược. Cả đến Hàn Dũ bình sinh bài xích Lão Trang, mà cuối đời cũng vì dùng thuốc Đạo gia mà vong thân. Ảnh hưởng của Đạo giáo với thi ca rất lớn lao. Những bài thơ thần tiên của Lý Bạch, tự nhiên cùa Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên và duy mỹ của Lý Thương Ẩn là những tác phẩm tiêu biểu của loại thơ có màu sắc Đạo gia. Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ thời Đông Hán, và rất hoạt động trong thời Nam Bắc triều, nhưng đến đời Đường mới thật thịnh đạt. Trong thời Trinh Quán, Huyền Trang rời Trường An, theo đường bộ du hành tại Ấn Độ trong 14 năm ( 630 – 644 ), đi qua 128 nước, đem về 650 bộ kinh, rồi cùng các đệ tử phiên dịch. Đường Thái Tông đích thân làm bài Tam Tạng thánh giáo tự để tỏ lòng sủng ái. Đời Đường Cao Tông, Nghĩa Tỉnh vượt biển Nam Hải sang Ấn Độ, đi qua hơn 30 nước, đem về hơn 400 bộ kinh. Đời Hiến Tông, vua thân tự đón xương Phật để cầu phúc ; vì can ngăn việc này, Hàn Dũ bị biếm. Đến đời Văn Tông, trong nước có đến hơn bốn vạn ngôi chùa và hơn bảy chục vạn tăng ni. Chỉ có đời Vũ Tông là đạo Phật bị bài xích. Năm 845, vua hạ chiếu hủy tượng, phá chùa. Nhưng đến các đời vua sau, Phật giáo lại hưng khởi. Tóm lại ở đời Đường, Phật giáo nhờ sự tôn sùng của vua chúa và công trình dịch kinh của chư tăng, đã lan rộng, thấm sâu trong các tầng lớp nhân dân. Trong số các thi nhân nổi tiếng Giả Đảo đã từng làm tăng, Vương Duy là nhân vật quan trọng trong Nam phái thiền tông. Tuy không có ảnh hưởng nhiều như Nho và Đạo, Phật giáo cũng đem lại cho thi ca đời Đường những sắc thái và ý tưởng đặc biệt. Về hội họa, đời Đường có ba họa phái lớn với ba nhà nổi tiếng là : Vương Duy, Ngô Đạo Tử và Lý Tư Huấn. Vương Duy chuyên vẽ tranh sơn thủy, mở đầu cho phái họa Nam Tông. Trong cuốn học họa bí quyết, ông viết : “ Trong đạo họa, phép về thủy mặc hơn hết. Hình ảnh trong gương tăng màu sắc nhân vật ; hình ảnh dưới trăng là bức trăng thủy mặc. Hình ảnh sông núi dưới bóng trăng là địa lý trong thiên văn ; hình ảnh trăng sao trên mặt nước là thiên văn trong địa lý “. Dưới ngọn bút của Vương Duy, thi và họa hòa đồng với nhau, phô bày vẽ đẹp : “ Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi ( Trong thơ có họa, trong họa có thơ ) . Ngô Đạo Tử và Lý Tư Huấn có khuynh hướng hội họa trái ngược nhau. Truyện chép rằng, khi ở đất Thục lánh nạn An Lộc Sơn, Đường Huyền Tông có sai Ngô, Lý ve về phong cảnh xứ này. Ngô Đạo Tử ngồi trong điện Đại Đồng, chỉ trong một ngày đã vẽ xong cảnh vật miền sông Gia Lăng dài ba trăm dặm, vì chỉ chú ý đến những điểm nào gợi hứng nhất. Trái lại Lý Tư Huấn chủ trương mô phỏng thiên nhiên, đã để ra hàng tháng trời vẽ tỉ mỉ, cặn kẽ từng tảng đá, gợn sóng, ngọn cỏ lá cây. Cả hai bức tranh dâng lên, đều được Huyền Tông khen ngợi. Ngô Đạo Tử được người đời gọi là Họa Thánh ; Lý Tư Huấn là tổ của họa phái Bắc Tông. Từ thời ấy trở đi, các họa sĩ Trung Quốc không nhiều thì ít, đều là môn đệ của hai nhà này. Cùng với các ngành hội họa, nghề làm đồ sứ rất tiến bộ trong đời Đường. Cách trình bày rất mỹ thuật với đặc điểm là dùng ba màu : nền trắng, hình vẽ màu vàng hay lục. Nghề in cũng rất cải tiến. Đời Hán người ta đã khắc kinh truyện trên những tấm bia. Người đời Đường nhân đó mới có ý nghĩa khắc chữ lên mặt đá, rồi bôi mực mà in : chữ trắng nổi bậc trên nền đen. Đến thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông ( 770 ), người ta dùng gổ thay đá để in Tứ Thư, Ngũ kinh, Phương pháp ấn loát này rất thông dụng trong các đời Đường Tống. [B]5. Sự thịnh vượng của tình trạng, chính trị, kinh tế xã hội [/B]: Sách Cựu Đường thư chép rằng, năm thứ 8 niên hiệu Trinh Quán ( 634 ) trong tiệc yến tại cung Vị Ương, có Hiệt Lợi khả hãn của Đột Quyết múa và tù trưởng Nam Việt là Phùng Trí Đới vịnh thơ, Đường Cao Tổ cười nói :” Hồ Việt một nhà từ xưa chưa từng có cảnh tượng này “. Đường Thái Tông ( Lý Thế Dân ) biết dùng các hiền thần như Phùng Huyền Linh, Đỗ Như Hối,Ngụy Trưng và các võ tướng như Lý Tĩnh, Lý Tích làm cho đời Đường thành một thời đại hưng thịnh cả về văn trị lẫn võ công. Thi hành chế độ phủ binh, tạo nên một quân lục hùng hậu, khiến cương thổ mở rộng, uy thanh lan tràn đến nhiều nước khác. Quốc thế thịnh hơn cả đời Hán : ngoại quốc gọi người Tàu là “Đường nhân” ( người Đường ). Chế độ quân điền và phép tô dung địêu được ban hành, khiến cho nông nghiệp mở mang, công thương nghiệp phát triển. Trường an và Lạc Dương là hai trung tâm trọng yếu về thương mại và công nghệ. Xét chung thì như vậy ; thực ra thì chỉ có thời Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông, là hoàn toàn thịnh trị, như thơ Đỗ Phủ nói : “Ức tích Khai Nguyên toàn thịnh nhật “ ( Nhớ ngày toàn thịnh thời Khai Nguyên ). Sau đó từ loạn An Lộc Sơn trở đi, tình hình xã hội tiếp tục suy đồi. Tác phẩm của các nhà thơ xã hội như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị phản ánh rất rõ thực trạng này. [B][I][RIGHT](Sưu tầm)[/RIGHT] [/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 10
Cánh Diều - Ngữ văn 10
Thơ tự do
Tìm hiểu về thơ Đường
Top