Xà lim số 1, Lao Thừa Thiên 29/4/1939. Tố Hữu
“Từ ấy” - tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937 – 1946) hiện có 72 bài thơ. Bài “Tâm tư trong tù” là bài thơ số 30, được Tố Hữu viết tại nhà lao Thừa Thiên vào cuối tháng 4 năm 1939, mở đầu cho phần “Xiềng xích” của tập “Từ ấy”.
Viết theo thể thơ tự do, 4 câu đầu được nhắc lại 2 lần trở thành điệp khúc gợi tả cảnh thân tù với bao nỗi buồn cô đơn và lòng khao khát tự do. Câu cảm thán vang lên bồi hồi đầy ám ảnh:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”
“Cảnh thân tù” là sàn lim với “mảnh ván ghép sầm u”, là nơi “lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ”, là chốn “âm u” của địa ngục trần gian! Đối lập với “cảnh thân tù” là “tiếng đời lăn náo nức” – âm thanh của cuộc sống, là tiếng gọi của tự do. Một chữ “nghe” được nhắc lại nhiều lần, nhịp điệu thơ tha thiết ngân vang. Lòng yêu đời, yêu cuộc sống, niềm khao khát tự do càng trở nên sôi sục, mạnh mẽ:
“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
(…) Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài”
Người chiến sĩ trẻ lần đầu bị thực dân Pháp bắt bớ, giam cầm. Hầu như suốt đêm ngày thao thức “lắng nghe” những âm thanh, “những tiếng đời lăn náo nức” lay gọi. Tâm tư xao xuyến, bồi hồi, mênh mang. Trong hoàng hôn, tiếng dơi đập cánh nghe sao mà “vội vã”. Và giữa đêm khuya, một tiếng “lạc ngựa”, một cái “rùng chân”, một “tiếng guốc đi về”, tiếng “gió xối” - tất cả là âm thanh cuộc đời, gần gũi, thân quen, nhưng giờ đây trong cảnh thân tù những âm thanh ấy mang một ý nghĩa vô cùng mới mẻ, đó là tiếng gọi tự do, là tiếng lòng sôi sục, trẻ trung và căng đầy nhựa sống.
“Tâm tư trong tù” là sự thể hiện một cách chân thật, cảm động những suy ngẫm về tự do, để tự vượt mình, tự khẳng định mình của người chiến sĩ cách mạng trong xiềng xích uất hận. Phút mơ hồ về “một trời rộng rãi”, về một “cuộc đời sây hoa trái”, về “hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày” đã bị nhà thơ tự phủ định. Cả một dân tộc đang quằn quại trong xích xiềng nô lệ “đọa đày trong những hố thẳm không cùng”. Đất nước đang bị thực dân Pháp thống trị. Dù ở trong song sắt hay ở ngoài song sắt nhà tù, mỗi con người Việt Nam đều là vong quốc nô. Nhận thức mới về tự do được diễn tả qua hai hình ảnh tương phản đầy ý nghĩa:
“Tôi chiều nay, giam cấm hận trong lòng,
Chỉ là một giữa loài người đau khổ.
Tôi chỉ một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to”
“Con chim non bé nhỏ” ấy đang bay đi trong bão táp. Cũng như trong bài thơ “Trăng trối” viết tại nhà tù Lao Bảo cuối năm 1940, Tố Hữu tự nhận mình là “tên lính
“Từ ấy” - tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937 – 1946) hiện có 72 bài thơ. Bài “Tâm tư trong tù” là bài thơ số 30, được Tố Hữu viết tại nhà lao Thừa Thiên vào cuối tháng 4 năm 1939, mở đầu cho phần “Xiềng xích” của tập “Từ ấy”.
Viết theo thể thơ tự do, 4 câu đầu được nhắc lại 2 lần trở thành điệp khúc gợi tả cảnh thân tù với bao nỗi buồn cô đơn và lòng khao khát tự do. Câu cảm thán vang lên bồi hồi đầy ám ảnh:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”
“Cảnh thân tù” là sàn lim với “mảnh ván ghép sầm u”, là nơi “lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ”, là chốn “âm u” của địa ngục trần gian! Đối lập với “cảnh thân tù” là “tiếng đời lăn náo nức” – âm thanh của cuộc sống, là tiếng gọi của tự do. Một chữ “nghe” được nhắc lại nhiều lần, nhịp điệu thơ tha thiết ngân vang. Lòng yêu đời, yêu cuộc sống, niềm khao khát tự do càng trở nên sôi sục, mạnh mẽ:
“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
(…) Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài”
Người chiến sĩ trẻ lần đầu bị thực dân Pháp bắt bớ, giam cầm. Hầu như suốt đêm ngày thao thức “lắng nghe” những âm thanh, “những tiếng đời lăn náo nức” lay gọi. Tâm tư xao xuyến, bồi hồi, mênh mang. Trong hoàng hôn, tiếng dơi đập cánh nghe sao mà “vội vã”. Và giữa đêm khuya, một tiếng “lạc ngựa”, một cái “rùng chân”, một “tiếng guốc đi về”, tiếng “gió xối” - tất cả là âm thanh cuộc đời, gần gũi, thân quen, nhưng giờ đây trong cảnh thân tù những âm thanh ấy mang một ý nghĩa vô cùng mới mẻ, đó là tiếng gọi tự do, là tiếng lòng sôi sục, trẻ trung và căng đầy nhựa sống.
“Tâm tư trong tù” là sự thể hiện một cách chân thật, cảm động những suy ngẫm về tự do, để tự vượt mình, tự khẳng định mình của người chiến sĩ cách mạng trong xiềng xích uất hận. Phút mơ hồ về “một trời rộng rãi”, về một “cuộc đời sây hoa trái”, về “hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày” đã bị nhà thơ tự phủ định. Cả một dân tộc đang quằn quại trong xích xiềng nô lệ “đọa đày trong những hố thẳm không cùng”. Đất nước đang bị thực dân Pháp thống trị. Dù ở trong song sắt hay ở ngoài song sắt nhà tù, mỗi con người Việt Nam đều là vong quốc nô. Nhận thức mới về tự do được diễn tả qua hai hình ảnh tương phản đầy ý nghĩa:
“Tôi chiều nay, giam cấm hận trong lòng,
Chỉ là một giữa loài người đau khổ.
Tôi chỉ một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to”
“Con chim non bé nhỏ” ấy đang bay đi trong bão táp. Cũng như trong bài thơ “Trăng trối” viết tại nhà tù Lao Bảo cuối năm 1940, Tố Hữu tự nhận mình là “tên lính
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: