Tìm hiểu đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ"

Bút Nghiên

ButNghien.com
TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
(trích: “Chinh phụ ngâm”)
(Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm)



I/ Tìm hiểu chung

1.Tác giả

-Đặng Trần Côn(?-?), sinh tại làng Nhân Mục-Nhân Chính-Thanh Xuân-Hà Nội

-Làm chức can gián vua

-Sáng tác: thơ, phú chữ Hán.

2. Dịch giả

-Đoàn Thị Điểm (1705-1748), quê làng Giai Phạm- Văn Giang-Hưng Yên.

-ý kiến khác: Phan Huy ích (1750-1822), quê làng Thu Hoạch-Thiên Lộc-Hà Tĩnh.

3.Tác phẩm: “Chinh phụ ngâm”

-Hoàn cảnh ra đời:

+Hoàn cảnh sáng tác:đầu đời Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, nhiều trai tráng phải giã từ người thân ra trận.

+Hoàn cảnh dịch: Đ.T.Điểm vừa cưới chồng xong thì chồng đã phải đi sứ Trung Quốc. Thời gian cô đơn này, bà đã dịch “Chinh phụ ngâm”

-Nội dung: oán ghét chiến tranh phong kiến; khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.

Mạch tự tình của tác phẩm: Phần1: đôi vợ chồng trẻ đang hạnh phúc thì chiến tranh xảy ra. Người chinh phu lên đường. Buổi chia tay “bước đi một bước giây giây lại dừng”. Phần 2: người chinh phụ ở nhà chờ đợi mỏi mòn theo năm tháng. Nàng sống lẻ loi, khát khao hạnh phúc lứa đôi. Phần 3: tưởng tượng và hi vọng của người chinh phụ ngày chiến tranh kết thúc, người chinh phu hiển vinh trở về.

-Hình thức:

+Thể loại: ngâm khúc

+Thể thơ: nguyên bản: trường đoản cú; bản dịch: song thất lục bát với phép đối và cả vần chân, vần lưng tạo âm điệu dồi dào phù hợp với diễn tả nội tâm.

II/ Văn bản

1. Khái quát

- Nhìn chung về nghệ thuật miêu tả tâm trạng:

+ Thơ tự sự kể lại các sự vật, sự kiện khách quan, Vd: “Lục Vân Tiên”, bài ca dao “Mười cái trứng”. Trái lại, thơ trữ tình chủ yếu miêu tả diễn biến nội tâm của con người. “Chinh phụ ngâm” là tác phẩm thơ trữ tình. Dù có kể sự vật, sự việc gì thì tác phẩm cũng để nói lên tâm trạng con người. Vd:

“ Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại châu chan.”

Hai câu thơ không chỉ tả việc đốt hương, soi gương mà muốn bộc lộ nội tâm của người chinh phụ. Từ “gượng” điệp lại hai lần diễn tả sự miễn cưỡng, chán chường. Bởi vì trí óc nàng đang còn “mê mải” đâu đó, tâm hồn nàng đang buồn đau đến mức “lệ châu chan”.

+ Nội tâm con người là điều vô hình, người khác không thể nghe hay nhìn thấy được. Nhiệm vụ của nhà văn là tả sao cho cái vô hình đó hiện hữu, có thể cảm nhận được. Đó là nghệ thuật miêu tả tâm trạng và “Chinh phụ ngâm” đã rất thành công trong nghệ thuật này

-Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần 2 tác phẩm, từ câu 193 tới 228, nói lên nỗi cô đơn của người chinh phụ trong thời gian không có tin tức của người chồng.

-Bố cục: 3 phần

+16 câu đầu: nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh một mình một bóng

+8 câu tiếp: nỗi nhớ thương chồng ở phương xa khiến lòng nàng càng thêm ảm đạm.

2.Đọc hiểu

2.1. 16 câu đầu: Những ngày tháng cô đơn

a. 8 câu đầu (1 – 8)


- Tả tâm trạng qua hành động: người chinh phụ đi ra đi vào, cuốn lên buông xuống tấm rèm nhiều lần: “Dạo hiên vắng...đòi phen.”. Đó là hành động lặp đi lặp lại, không có mục đích rõ ràng, thể hiện tâm trạng nặng nề, tù túng, nóng ruột.

- Tả tâm trạng qua ngoại cảnh: chim thước là vật báo tin may; đèn là vật tả nỗi cô đơn, thường được dùng trong ca dao và thơ cổ, Vd: “Đèn thương nhớ ai /Mà đèn không tắt?”. Nó thể hiện sự mong ngóng tin tức của người chồng, mong có người chia sẻ nỗi cô đơn. Câu hỏi tu từ : hỏi “đèn” chính là mong muốn tha thiết có kẻ hiểu thấu tâm can mình.


- Trực tiếp thể hiện tâm trạng: người chinh phụ hỏi đèn nhưng rồi tự trả lời bằng 2 lần phủ định triệt để. Đèn không thể biết được tâm trạng nàng, dù có biết cũng không hiểu thấu được. Nó khẳng định một sự thực: nàng hoàn toàn cô đơn, không ai chia sẻ. Dường như không kìm nén được, nàng đã bộc lộ bằng những câu than vãn đau đớn. Từ “bi thiết” là một tính động từ nhấn mạnh nỗi buồn đau xen trộn của nàng. Ta cảm tưởng như ống kính máy quay đang kề sát chân dung người chinh phụ để chớp lấy cân cảnh sắc thái tâm trạng tinh vi. Đó là tâm trạng buồn rầu tới chẳng thiết nói năng: “Buồn...lời”. Câu thơ đã nêu lên quy luật tất yếu của nỗi buồn. Khi buồn tới độ cao trào, con người trở nên câm lặng trước mọi vật. Tới câu 8, ống kính lại đưa ra xa để bao quát căn phòng. Trong lòng người thì bão tố mà cảnh vật thì tĩnh mịnh đơn côi tới buồn bã! Sao nhìn cảnh ấy không thương cho được!

b. 8 câu tiếp (9 – 16)

- Thời điểm là đêm tối về sáng, chứng tỏ người chinh phụ đã thức cả đêm dài. Nàng như đang đếm thời gian nhưng càng chờ càng thấy dài: “Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”. Tác giả đã dùng biện pháp so sánh kết hợp với từ láy để nhấn mạnh cảm thức về thời gian ở người chinh phụ. Tác giả so sánh với hình ảnh cụ thể để miêu tả độ dài, độ sâu vô tận của thời gian và nỗi sầu. Từ láy “đằng đẵng” mô tả độ nhích chậm chạp của thời gian. Nếu ở trên không gian bị trống vắng hoá thì ở dưới dải cao su thời gian lại bị kéo dãn ra vô tận không có điểm dừng. Từ láy “dằng dặc” đối với từ láy “đằng đẵng” ở trên cho ta thấy thêm một khía cạnh của tâm trạng, dường như không chỉ buồn chán mà còn tù túng, bế tắc. Câu thơ đã diễn tả đúng một quy luật của nỗi nhớ: càng nhớ thời gian càng như dài ra.

- Hành động: đốt hương, soi gương, gẩy đàn. Đó là những thú vui tao nhã nhưng nó không giúp nàng xua đi nỗi buồn “Hương gượng đốt...phím loan ngại chùng”. Từ “gượng” xuất hiện 3 lần nhấn mạnh sự miễn cưỡng, gượng gạo, chán chường của nàng. Tâm trạng của nàng không chỉ chán chường mà còn mang nỗi sợ: sợ chia lìa đôi lứa. Hai từ “kinh”, “sợ” xuất hiện trong một dòng thơ như một cơn sóng dữ ào lên rồi lênh láng trong lòng người chinh phụ.

2.2. 8 câu cuối (17 – 28)

- Dường như trong tâm trạng chán chường, người chinh phụ bắt gặp ngọn gió đông, trong nàng loé lên một nguồn hi vọng. Nàng van nài cả gió đông để gửi thương nhớ tới nơi chồng “Lòng này gửi gió đông...non Yên”. Câu hỏi ở đầu cùng việc sử dụng nhiều từ trang trọng: có tiện, nghìn vàng, xin thể hiện sự nhún mình, sự năn nỉ ngọn gió. Nhưng đó là mong ước phi thực tế, hi vọng loé lên rồi vụt tắt ngay. Chỉ có nỗi nhớ là hiện thực “Non Yên...đường lên bằng trời.”. Nỗi nhớ được cụ thể hoá bằng hình ảnh độc đáo: “đường lên bằng trời”. Tác giả còn dùng từ láy “thăm thẳm” chỉ độ sâu để miêu tả nỗi nhớ. Nó cho thấy nỗi nhớ sâu sắc, kéo dài đến mức đã lặn vào tâm hồn người chinh phụ. 4 câu thơ là sự hi vọng nhưng thất vọng nhanh chóng, là việc tìm cách liên lạc với người chinh phu song bất lực. Đọng lại là nỗi nhớ nhung, đau xót của người chinh phụ.

- Hình ảnh gợi ra không gian mênh mông, vô tận của chiến địa. “Non Yên” chính là hình ảnh tượng trưng cho nơi chiến trận, nó chẳng rõ là đâu, lại xa xôi, bất trắc. Đó còn là không gian buồn bã, lạnh lẽo bao trùm “Cảnh buồn người thiết tha lòng...Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.” Cái lạnh như ăn mòn mọi thứ. Qua biện pháp ẩn dụ cùng việc sử dụng các động từ mạnh, ta cảm thấy từ giọt sương, tiếng trùng đến mưa xuân cũng như ẩn tàng một sức mạnh ghê gớm. ở đây, thiên nhiên và con người đã soi chiếu vào nhau, cùng mang chung nỗi sầu. Đúng như Nguyễn Du đã nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu./Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Từ “thiết tha” được đảo lên trước từ lòng để nhấn mạnh tâm trạng người chinh phụ. Giờ đây, nỗi buồn đã chuyển thành nỗi đau trong lòng người chinh phụ.

- Lối thơ vắt dòng: “Ngoài rèm thước chẳng mách tin...Đèn có biết dường bằng chẳng biết.”; “Nghìn vàng xin gửi tới non Yên...Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu.”; “Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm...Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!”. Hình thức này làm những câu thơ có sự liên kết với nhau đồng thời góp phần diễn tả nỗi buồn triền miên, kéo dài lê thê không dứt.

-> Đó là trường tâm trạng thể hiện nhiều cung bậc: tù túng, cô đơn, buồn rầu, chán chường, kinh sợ,...Nó là hình ảnh điện tâm đồ trong trái tim người chinh phụ.

-> Giá trị nhân đạo: đồng cảm với khao kháthạnh phúc lứa đôi, gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa.

III/Tổng kết

- ND: Qua trường tâm trạng của người chinh phụ, đoạn trích thể hiện sự đồng cảm với khao khát hạnh phúc lứa đôi và gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa.

-NT: Tiêu biểu nhất là nghệ thuật miêu tả nội tâm con người.

“Cả khúc ngâm đọng lại thành mối sầu thiên cổ mà không nhàm chán vì sự diễn biến tinh vi, đa dạng của thế giới nội tâm nhân vật. Tiếng nói độc thoại của người chinh phụ hấp dẫn lòng người vì giá trị nhân văn cao cả được khắc hoạ bằng nghệ thuật cổ điển tuyệt vời.”

(Sưu tầm)
 
Nỗi buồn chinh phụ

NỖI BUỒN CHINH PHỤ
(Trích bản dịch CHINH PHỤ NGÂM KHÚC)​

Đoàn Thị Điểm


“ Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn là kiệt tác trong nền văn học cổ điển của nước nhà. Bản dịch “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) là tác phẩm dịc đặc sắc vừa truyền đạt tư tưởng sâu sắc của tác giả vừa phô diễn vẻ mĩ lệ của tiếng Việt.

Đoạn trích diễn tả nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ, khía cạnh nổi bật của chủ đề tác phẩm: oán ghét chiến tranh và đòi quyền sống cho người phụ nữ.

Chiến tranh phong kiến đã xô đẩy người chinh phu biền biệt ngoài chiến địa. Người chinh phụ vò võ đợi chờ, nỗi thương nhớ chất chồng trong lòng , tràn ra cả không gian xa cách:
“ Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun..”

Một chút ngờ vực “ Lòng này gửi gió đông có tiện”, một cử chỉ trân trọng “ Nghìn vàng xin gửi đến non Yên” đã thể hiện được tình cảm thiêng liêng trong lòng người chinh phụ. Hình ảnh ước lệ ( non Yên – một địa danh ở Trung Quốc) khiến cho cách biểu đạt sang trọng , cổ kính làm tôn vẻ đẹp của tâm hồn người chinh phụ . Nỗi nhớ trong lòng người đã tràn ra cả cả không gian rộng lớn:
“ Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời”

Trong hình ảnh khoa trương ấy có cả thời gian thương nhớ “ đằng đẵng”, có cả không gian chia li rộng lớn mà chỉ kích thước của vũ trụ “ đường lên bằng trời” thì mới sánh kịp. Mà nói thời gian “ đằng đẵng”, nói không gian xa cách vô tận “ bằng trời” là để làm nổi bật nỗi cô đơn trong lòng người chinh phụ:
“ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong

Mỗi từ ở đây, ngoài nghĩa riêng , nó còn thấm đẫm tâm trạng của người chinh phụ. Từ “ thăm thẳm” ngầm ý oán trách, từ “ đau đáu” như hiện lên nỗi thèm khát mà vô vọng trong trái tim yêu thương của người chinh phụ. Tình và cảnh xâm nhập, thẩm thấu lẫn nhau tạo ra hình ảnh của nỗi lòng thương nhớ não nề:
“ Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Gợi nhớ một câu Kiều “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhưng đó là câu thơ đã có tính khái quát, triết lí, lạnh. Câu thơ này là một hiện tượng cụ thể của một nỗi lòng , nỗi lòng đã hoàn toàn phơi ra bên ngoài cảnh vật: “ Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”. Chao ôi, “ cành cây sương đượm” đã buốt giá, “ tiếng trùng” đã ảo não , lại còn mưa phun vào tiếng trùng! Âm thanh của một cõi lòng tan nát. Khi “ tiếng trùng mưa phun” rung lên thì ta không còn nghe tiếng của “ lòng này” nữa mà tâm trạng của người chinh phụ càng lẫn khuất trong hình ảnh, âm điệu của thiên nhiên làm xao động lòng người:
“ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng , chuông chùa nện khơi
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm…”

Hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên ngoài mà hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên trong , âm thanh nào cũng là âm thanh của thiên nhiên mà âm thanh nào cũng là âm thanh của lòng người. Một hệ thống hình ảnh thiên nhiên đã họa lên nỗi lòng của người chinh phụ , nhớ thương mòn mỏi, héo hắt. Những hình ảnh so sánh bất ngờ, độc đáo mà chỉ có sự đồng cảm với nỗi đau của người chinh phụ thì mới có cái nhìn, cái nghe kì lạ như vậy.
“ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”

Hình ảnh so sánh nào cũng lạ , cũng táo bạo . Hình ảnh nào cũng đau đớn “ sương như búa…”, “ tuyết dường cưa…”, khi đau đớn nặng nề ( búa bổ) khi thì đau đớn dai dẳng (cưa xẻ ). “ Gốc liễu”, “ cành ngô” là những vật yếu mềm , hiện thân của người phụ nữ bị nỗi sầu muộn tàn phá cả thể xác lẫn tinh thần . Không còn phân biệt được những hình ảnh đó là bên trong hay bên ngoài , cũng như không còn phân biệt được những âm thanh cô đơn này là bên ngoài hay bên trong:
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi

Tiếng chim gù ( gọi bạn) đơn phương trong bụi bị “ sương phủ”, tiếng chim gù nghe lạnh thấu xương. Sắc độ của âm thanh được phân biệt trong hai từ “ vẳng” và “ nện”. “ Vẳng” là dành cho tiếng côn trùng “ sâu tường”, và “ nện” là dành cho tiếng “ chuông chùa”, tiếng chuông chùa đã làm thổn thức trái tim cô quạnh của người chinh phụ. Không một âm thanh nào trong đêm trăng là không dội vang vào lòng người chinh phụ. Song để ý một chút ta có thể nhận ra sắc độ của âm thanh, có những âm thanh nỉ non, thê thiết của “ tiếng trùng mưa phùn”, của tiếng “ chim gù” phủ sương , của tiếng dế não nùng, lại có những âm thanh dữ dội của “ chuông chùa nện khơi”, của “ gió thốc ngoài hiên” biểu hiện sức sống mãnh liệt của người chinh phụ. Chính sức sống mãnh liệt đó làm run rẩy cây cỏ, tiếng trùng trong đêm trăng, làm lay động lá màn đơn chiếc của nàng . Và kì lạ thay, nỗi sầu muộn đã tàn phá dung nhan của nàng , làm đau đớn trái tim yêu thương của nàng, nhưng không thể hủy diệt được sức sống mãnh liệt của nàng, không thể hủy diệt được tình yêu của nàng, nàng vẫn hiện diện như một bông hoa trong đêm trăng.
“ Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm”

Nếu như hai khổ thơ đầu, âm điệu tha thiết của tình cảm được thể hiện ở những từ láy như “ đằng đẵng”, “ thẳm thẳm”, “ đau đáu”, “ thiết tha” thì ở hai khổ thơ tiếp theo tâm trạng của nhân vật trữ tình được biểu hiện ở thanh điệu; những thanh trắc khô khốc như “ búa”, “ bổ”, “ tuyết”, “ héo”, “ nện”, “ thốc”…phô diễn được xung đột nội tâm của người chinh phụ: sự tàn phá ghê gớm của hoàn cảnh khắc nghiệt và sự trỗi dậy của tinh thần người thiếu phụ đòi được sống, được yêu thương. Và những vần thơ thần bút đã hiện lên cùng với tinh thần ham sống, đam mê, khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ:
“ Hoa giãi nguyệt , nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”

Thiên nhiên đã bày ra một cuộc ái ân thật là mê li. Những ẩn dụ “ hoa”, “ nguyệt” đã tạo ra “ trường liên tưởng” về một quá khứ tình cảm êm đẹp, về chuyện buồng the ân ái nồng nàn. Nhạc điệu cũng chuyển , tha thiết hơn, nồng nàn hơn bằng những điệp ngữ, điệp từ, bằng sự hòa âm, hòa điệu tạo ra sự trùng điệp mê li. Bằng những hình ảnh hoa nguyệt gợi cảm lạ lùng, bằng nhạc điệu đầy cám dỗ , tác giả đã họa lên nỗi lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Và đây cũng là những dòng thơ thể hiện một cách rực rỡ vẻ mĩ lệ của tiếng Việt.

Đoạn thơ “ Nỗi buồn chinh phụ” đã thể hiện một cách rực rỡ tài hoa của tác giả và dịch giả “ Chinh phụ ngâm “. Tình cảm nhân bản, nồng nàn. Tư tưởng sâu sắc, thái độ căm ghét chiến tranh, phản kháng chiến tranh được bộc lộ một cách kín đáo, tế nhị( chỉ bóng gió mà thái độ oán trách vẫn lộ ra. “ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu”). Bút pháp biến hóa, nhạc điệu thay đổi rất hay ( âm điệu của từ láy ở hai khổ thơ đầu , âm điệu và thanh sắc ở khổ ba, bốn và điệp từ, điệp ngữ ở đoạn kết). Đoạn thơ gây xúc động đối với người đọc là những biểu hiện sống mãnh liệt của người phụ nữ bị chiến tranh vùi dập. Nỗi nhớ chồng ( chinh phụ) tha thiết, vô vọng . Thương nhớ, sầu muộn trong chia lìa ảm đạm đã tàn phá cả tinh thần và thể xác của người chinh phụ, nhưng không có gì có thể dập tắt được ngọn luwarcuar sự sống, của tình yêu và những khát vọng về hạnh phúc lứa đôi trong lòng người chinh phụ.

(sưu tầm)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top