Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 10
Chân Trời Sáng Tạo - Ngữ văn 10
Anh hùng và nghệ sĩ
Tìm hiểu đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ"
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="dunghoi" data-source="post: 31345" data-attributes="member: 19"><p><strong>Nỗi buồn chinh phụ</strong></p><p></p><p style="text-align: center"><span style="color: red"> <span style="font-size: 15px">NỖI BUỒN CHINH PHỤ</span></span></p> <p style="text-align: center"></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="color: darkred"><p style="text-align: right"><p style="text-align: center"> (Trích bản dịch CHINH PHỤ NGÂM KHÚC)</p> </p><p></span></span></p><p> <p style="text-align: right"><span style="color: seagreen"> Đoàn Thị Điểm</span></p><p></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple">“ Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn là kiệt tác trong nền văn học cổ điển của nước nhà. Bản dịch “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) là tác phẩm dịc đặc sắc vừa truyền đạt tư tưởng sâu sắc của tác giả vừa phô diễn vẻ mĩ lệ của tiếng Việt.</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Đoạn trích diễn tả nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ, khía cạnh nổi bật của chủ đề tác phẩm: oán ghét chiến tranh và đòi quyền sống cho người phụ nữ.</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Chiến tranh phong kiến đã xô đẩy người chinh phu biền biệt ngoài chiến địa. Người chinh phụ vò võ đợi chờ, nỗi thương nhớ chất chồng trong lòng , tràn ra cả không gian xa cách:</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Lòng này gửi gió đông có tiện</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Nghìn vàng xin gửi đến non Yên</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Non Yên dù chẳng tới miền</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời </span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Cảnh buồn người thiết tha lòng</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun..”</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Một chút ngờ vực “ Lòng này gửi gió đông có tiện”, một cử chỉ trân trọng “ Nghìn vàng xin gửi đến non Yên” đã thể hiện được tình cảm thiêng liêng trong lòng người chinh phụ. Hình ảnh ước lệ ( non Yên – một địa danh ở Trung Quốc) khiến cho cách biểu đạt sang trọng , cổ kính làm tôn vẻ đẹp của tâm hồn người chinh phụ . Nỗi nhớ trong lòng người đã tràn ra cả cả không gian rộng lớn:</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời”</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Trong hình ảnh khoa trương ấy có cả thời gian thương nhớ “ đằng đẵng”, có cả không gian chia li rộng lớn mà chỉ kích thước của vũ trụ “ đường lên bằng trời” thì mới sánh kịp. Mà nói thời gian “ đằng đẵng”, nói không gian xa cách vô tận “ bằng trời” là để làm nổi bật nỗi cô đơn trong lòng người chinh phụ:</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Mỗi từ ở đây, ngoài nghĩa riêng , nó còn thấm đẫm tâm trạng của người chinh phụ. Từ “ thăm thẳm” ngầm ý oán trách, từ “ đau đáu” như hiện lên nỗi thèm khát mà vô vọng trong trái tim yêu thương của người chinh phụ. Tình và cảnh xâm nhập, thẩm thấu lẫn nhau tạo ra hình ảnh của nỗi lòng thương nhớ não nề:</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Cảnh buồn người thiết tha lòng</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Gợi nhớ một câu Kiều “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhưng đó là câu thơ đã có tính khái quát, triết lí, lạnh. Câu thơ này là một hiện tượng cụ thể của một nỗi lòng , nỗi lòng đã hoàn toàn phơi ra bên ngoài cảnh vật: “ Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”. Chao ôi, “ cành cây sương đượm” đã buốt giá, “ tiếng trùng” đã ảo não , lại còn mưa phun vào tiếng trùng! Âm thanh của một cõi lòng tan nát. Khi “ tiếng trùng mưa phun” rung lên thì ta không còn nghe tiếng của “ lòng này” nữa mà tâm trạng của người chinh phụ càng lẫn khuất trong hình ảnh, âm điệu của thiên nhiên làm xao động lòng người:</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Giọt sương phủ bụi chim gù</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Sâu tường kêu vẳng , chuông chùa nện khơi</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Lá màn lay ngọn gió xuyên</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm…”</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên ngoài mà hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên trong , âm thanh nào cũng là âm thanh của thiên nhiên mà âm thanh nào cũng là âm thanh của lòng người. Một hệ thống hình ảnh thiên nhiên đã họa lên nỗi lòng của người chinh phụ , nhớ thương mòn mỏi, héo hắt. Những hình ảnh so sánh bất ngờ, độc đáo mà chỉ có sự đồng cảm với nỗi đau của người chinh phụ thì mới có cái nhìn, cái nghe kì lạ như vậy.</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu </span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Hình ảnh so sánh nào cũng lạ , cũng táo bạo . Hình ảnh nào cũng đau đớn “ sương như búa…”, “ tuyết dường cưa…”, khi đau đớn nặng nề ( búa bổ) khi thì đau đớn dai dẳng (cưa xẻ ). “ Gốc liễu”, “ cành ngô” là những vật yếu mềm , hiện thân của người phụ nữ bị nỗi sầu muộn tàn phá cả thể xác lẫn tinh thần . Không còn phân biệt được những hình ảnh đó là bên trong hay bên ngoài , cũng như không còn phân biệt được những âm thanh cô đơn này là bên ngoài hay bên trong:</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Giọt sương phủ bụi chim gù</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Tiếng chim gù ( gọi bạn) đơn phương trong bụi bị “ sương phủ”, tiếng chim gù nghe lạnh thấu xương. Sắc độ của âm thanh được phân biệt trong hai từ “ vẳng” và “ nện”. “ Vẳng” là dành cho tiếng côn trùng “ sâu tường”, và “ nện” là dành cho tiếng “ chuông chùa”, tiếng chuông chùa đã làm thổn thức trái tim cô quạnh của người chinh phụ. Không một âm thanh nào trong đêm trăng là không dội vang vào lòng người chinh phụ. Song để ý một chút ta có thể nhận ra sắc độ của âm thanh, có những âm thanh nỉ non, thê thiết của “ tiếng trùng mưa phùn”, của tiếng “ chim gù” phủ sương , của tiếng dế não nùng, lại có những âm thanh dữ dội của “ chuông chùa nện khơi”, của “ gió thốc ngoài hiên” biểu hiện sức sống mãnh liệt của người chinh phụ. Chính sức sống mãnh liệt đó làm run rẩy cây cỏ, tiếng trùng trong đêm trăng, làm lay động lá màn đơn chiếc của nàng . Và kì lạ thay, nỗi sầu muộn đã tàn phá dung nhan của nàng , làm đau đớn trái tim yêu thương của nàng, nhưng không thể hủy diệt được sức sống mãnh liệt của nàng, không thể hủy diệt được tình yêu của nàng, nàng vẫn hiện diện như một bông hoa trong đêm trăng.</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm”</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Nếu như hai khổ thơ đầu, âm điệu tha thiết của tình cảm được thể hiện ở những từ láy như “ đằng đẵng”, “ thẳm thẳm”, “ đau đáu”, “ thiết tha” thì ở hai khổ thơ tiếp theo tâm trạng của nhân vật trữ tình được biểu hiện ở thanh điệu; những thanh trắc khô khốc như “ búa”, “ bổ”, “ tuyết”, “ héo”, “ nện”, “ thốc”…phô diễn được xung đột nội tâm của người chinh phụ: sự tàn phá ghê gớm của hoàn cảnh khắc nghiệt và sự trỗi dậy của tinh thần người thiếu phụ đòi được sống, được yêu thương. Và những vần thơ thần bút đã hiện lên cùng với tinh thần ham sống, đam mê, khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ:</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> “ Hoa giãi nguyệt , nguyệt in một tấm</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Thiên nhiên đã bày ra một cuộc ái ân thật là mê li. Những ẩn dụ “ hoa”, “ nguyệt” đã tạo ra “ trường liên tưởng” về một quá khứ tình cảm êm đẹp, về chuyện buồng the ân ái nồng nàn. Nhạc điệu cũng chuyển , tha thiết hơn, nồng nàn hơn bằng những điệp ngữ, điệp từ, bằng sự hòa âm, hòa điệu tạo ra sự trùng điệp mê li. Bằng những hình ảnh hoa nguyệt gợi cảm lạ lùng, bằng nhạc điệu đầy cám dỗ , tác giả đã họa lên nỗi lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Và đây cũng là những dòng thơ thể hiện một cách rực rỡ vẻ mĩ lệ của tiếng Việt.</span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"></span></em></span></p><p><span style="font-size: 15px"><em><span style="color: purple"> Đoạn thơ “ Nỗi buồn chinh phụ” đã thể hiện một cách rực rỡ tài hoa của tác giả và dịch giả “ Chinh phụ ngâm “. Tình cảm nhân bản, nồng nàn. Tư tưởng sâu sắc, thái độ căm ghét chiến tranh, phản kháng chiến tranh được bộc lộ một cách kín đáo, tế nhị( chỉ bóng gió mà thái độ oán trách vẫn lộ ra. “ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu”). Bút pháp biến hóa, nhạc điệu thay đổi rất hay ( âm điệu của từ láy ở hai khổ thơ đầu , âm điệu và thanh sắc ở khổ ba, bốn và điệp từ, điệp ngữ ở đoạn kết). Đoạn thơ gây xúc động đối với người đọc là những biểu hiện sống mãnh liệt của người phụ nữ bị chiến tranh vùi dập. Nỗi nhớ chồng ( chinh phụ) tha thiết, vô vọng . Thương nhớ, sầu muộn trong chia lìa ảm đạm đã tàn phá cả tinh thần và thể xác của người chinh phụ, nhưng không có gì có thể dập tắt được ngọn luwarcuar sự sống, của tình yêu và những khát vọng về hạnh phúc lứa đôi trong lòng người chinh phụ.</span></em></span></p><p>(sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="dunghoi, post: 31345, member: 19"] [b]Nỗi buồn chinh phụ[/b] [CENTER][COLOR=red] [SIZE=4]NỖI BUỒN CHINH PHỤ[/SIZE][/COLOR] [/CENTER] [SIZE=4][COLOR=darkred][RIGHT][CENTER] (Trích bản dịch CHINH PHỤ NGÂM KHÚC)[/CENTER] [/RIGHT] [/COLOR][/SIZE] [RIGHT][COLOR=seagreen] Đoàn Thị Điểm[/COLOR][/RIGHT] [SIZE=4][I][COLOR=purple]“ Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn là kiệt tác trong nền văn học cổ điển của nước nhà. Bản dịch “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) là tác phẩm dịc đặc sắc vừa truyền đạt tư tưởng sâu sắc của tác giả vừa phô diễn vẻ mĩ lệ của tiếng Việt. Đoạn trích diễn tả nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ, khía cạnh nổi bật của chủ đề tác phẩm: oán ghét chiến tranh và đòi quyền sống cho người phụ nữ. Chiến tranh phong kiến đã xô đẩy người chinh phu biền biệt ngoài chiến địa. Người chinh phụ vò võ đợi chờ, nỗi thương nhớ chất chồng trong lòng , tràn ra cả không gian xa cách: “ Lòng này gửi gió đông có tiện Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun..” Một chút ngờ vực “ Lòng này gửi gió đông có tiện”, một cử chỉ trân trọng “ Nghìn vàng xin gửi đến non Yên” đã thể hiện được tình cảm thiêng liêng trong lòng người chinh phụ. Hình ảnh ước lệ ( non Yên – một địa danh ở Trung Quốc) khiến cho cách biểu đạt sang trọng , cổ kính làm tôn vẻ đẹp của tâm hồn người chinh phụ . Nỗi nhớ trong lòng người đã tràn ra cả cả không gian rộng lớn: “ Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” Trong hình ảnh khoa trương ấy có cả thời gian thương nhớ “ đằng đẵng”, có cả không gian chia li rộng lớn mà chỉ kích thước của vũ trụ “ đường lên bằng trời” thì mới sánh kịp. Mà nói thời gian “ đằng đẵng”, nói không gian xa cách vô tận “ bằng trời” là để làm nổi bật nỗi cô đơn trong lòng người chinh phụ: “ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong Mỗi từ ở đây, ngoài nghĩa riêng , nó còn thấm đẫm tâm trạng của người chinh phụ. Từ “ thăm thẳm” ngầm ý oán trách, từ “ đau đáu” như hiện lên nỗi thèm khát mà vô vọng trong trái tim yêu thương của người chinh phụ. Tình và cảnh xâm nhập, thẩm thấu lẫn nhau tạo ra hình ảnh của nỗi lòng thương nhớ não nề: “ Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun” Gợi nhớ một câu Kiều “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhưng đó là câu thơ đã có tính khái quát, triết lí, lạnh. Câu thơ này là một hiện tượng cụ thể của một nỗi lòng , nỗi lòng đã hoàn toàn phơi ra bên ngoài cảnh vật: “ Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”. Chao ôi, “ cành cây sương đượm” đã buốt giá, “ tiếng trùng” đã ảo não , lại còn mưa phun vào tiếng trùng! Âm thanh của một cõi lòng tan nát. Khi “ tiếng trùng mưa phun” rung lên thì ta không còn nghe tiếng của “ lòng này” nữa mà tâm trạng của người chinh phụ càng lẫn khuất trong hình ảnh, âm điệu của thiên nhiên làm xao động lòng người: “ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng , chuông chùa nện khơi Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên Lá màn lay ngọn gió xuyên Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm…” Hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên ngoài mà hình ảnh nào cũng là hình ảnh bên trong , âm thanh nào cũng là âm thanh của thiên nhiên mà âm thanh nào cũng là âm thanh của lòng người. Một hệ thống hình ảnh thiên nhiên đã họa lên nỗi lòng của người chinh phụ , nhớ thương mòn mỏi, héo hắt. Những hình ảnh so sánh bất ngờ, độc đáo mà chỉ có sự đồng cảm với nỗi đau của người chinh phụ thì mới có cái nhìn, cái nghe kì lạ như vậy. “ Sương như búa, bổ mòn gốc liễu Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô” Hình ảnh so sánh nào cũng lạ , cũng táo bạo . Hình ảnh nào cũng đau đớn “ sương như búa…”, “ tuyết dường cưa…”, khi đau đớn nặng nề ( búa bổ) khi thì đau đớn dai dẳng (cưa xẻ ). “ Gốc liễu”, “ cành ngô” là những vật yếu mềm , hiện thân của người phụ nữ bị nỗi sầu muộn tàn phá cả thể xác lẫn tinh thần . Không còn phân biệt được những hình ảnh đó là bên trong hay bên ngoài , cũng như không còn phân biệt được những âm thanh cô đơn này là bên ngoài hay bên trong: Giọt sương phủ bụi chim gù Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi Tiếng chim gù ( gọi bạn) đơn phương trong bụi bị “ sương phủ”, tiếng chim gù nghe lạnh thấu xương. Sắc độ của âm thanh được phân biệt trong hai từ “ vẳng” và “ nện”. “ Vẳng” là dành cho tiếng côn trùng “ sâu tường”, và “ nện” là dành cho tiếng “ chuông chùa”, tiếng chuông chùa đã làm thổn thức trái tim cô quạnh của người chinh phụ. Không một âm thanh nào trong đêm trăng là không dội vang vào lòng người chinh phụ. Song để ý một chút ta có thể nhận ra sắc độ của âm thanh, có những âm thanh nỉ non, thê thiết của “ tiếng trùng mưa phùn”, của tiếng “ chim gù” phủ sương , của tiếng dế não nùng, lại có những âm thanh dữ dội của “ chuông chùa nện khơi”, của “ gió thốc ngoài hiên” biểu hiện sức sống mãnh liệt của người chinh phụ. Chính sức sống mãnh liệt đó làm run rẩy cây cỏ, tiếng trùng trong đêm trăng, làm lay động lá màn đơn chiếc của nàng . Và kì lạ thay, nỗi sầu muộn đã tàn phá dung nhan của nàng , làm đau đớn trái tim yêu thương của nàng, nhưng không thể hủy diệt được sức sống mãnh liệt của nàng, không thể hủy diệt được tình yêu của nàng, nàng vẫn hiện diện như một bông hoa trong đêm trăng. “ Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm” Nếu như hai khổ thơ đầu, âm điệu tha thiết của tình cảm được thể hiện ở những từ láy như “ đằng đẵng”, “ thẳm thẳm”, “ đau đáu”, “ thiết tha” thì ở hai khổ thơ tiếp theo tâm trạng của nhân vật trữ tình được biểu hiện ở thanh điệu; những thanh trắc khô khốc như “ búa”, “ bổ”, “ tuyết”, “ héo”, “ nện”, “ thốc”…phô diễn được xung đột nội tâm của người chinh phụ: sự tàn phá ghê gớm của hoàn cảnh khắc nghiệt và sự trỗi dậy của tinh thần người thiếu phụ đòi được sống, được yêu thương. Và những vần thơ thần bút đã hiện lên cùng với tinh thần ham sống, đam mê, khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ: “ Hoa giãi nguyệt , nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu” Thiên nhiên đã bày ra một cuộc ái ân thật là mê li. Những ẩn dụ “ hoa”, “ nguyệt” đã tạo ra “ trường liên tưởng” về một quá khứ tình cảm êm đẹp, về chuyện buồng the ân ái nồng nàn. Nhạc điệu cũng chuyển , tha thiết hơn, nồng nàn hơn bằng những điệp ngữ, điệp từ, bằng sự hòa âm, hòa điệu tạo ra sự trùng điệp mê li. Bằng những hình ảnh hoa nguyệt gợi cảm lạ lùng, bằng nhạc điệu đầy cám dỗ , tác giả đã họa lên nỗi lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Và đây cũng là những dòng thơ thể hiện một cách rực rỡ vẻ mĩ lệ của tiếng Việt. Đoạn thơ “ Nỗi buồn chinh phụ” đã thể hiện một cách rực rỡ tài hoa của tác giả và dịch giả “ Chinh phụ ngâm “. Tình cảm nhân bản, nồng nàn. Tư tưởng sâu sắc, thái độ căm ghét chiến tranh, phản kháng chiến tranh được bộc lộ một cách kín đáo, tế nhị( chỉ bóng gió mà thái độ oán trách vẫn lộ ra. “ Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu”). Bút pháp biến hóa, nhạc điệu thay đổi rất hay ( âm điệu của từ láy ở hai khổ thơ đầu , âm điệu và thanh sắc ở khổ ba, bốn và điệp từ, điệp ngữ ở đoạn kết). Đoạn thơ gây xúc động đối với người đọc là những biểu hiện sống mãnh liệt của người phụ nữ bị chiến tranh vùi dập. Nỗi nhớ chồng ( chinh phụ) tha thiết, vô vọng . Thương nhớ, sầu muộn trong chia lìa ảm đạm đã tàn phá cả tinh thần và thể xác của người chinh phụ, nhưng không có gì có thể dập tắt được ngọn luwarcuar sự sống, của tình yêu và những khát vọng về hạnh phúc lứa đôi trong lòng người chinh phụ.[/COLOR][/I][/SIZE] (sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 10
Chân Trời Sáng Tạo - Ngữ văn 10
Anh hùng và nghệ sĩ
Tìm hiểu đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ"
Top