VỘI VÀNG
Xuân Diệu
A.Yêu cầu
Nắm được những vấn đề sau:
- Một Xuân Diệu sôi nổi, táo bạo, tinh tế, yêu cuộc sống đến đam mê
- Khám phá phát hiện một thiên đường đang lồ lộ bày ra trên mặt đất.
- Bút pháp nghệ thuật độc đáo
B. Kiến thức cơ bản
I. Tìm hiểu chung bài thơ
Những điều ta cảm nhận được từ "Đây mùa thu tới" đến đây được Xuân Diệu trình bày và phân tích rõ trong "Vội vàng" theo kiểu tự bạch tâm sự.
Bài thơ viết về lẽ sống, quan điểm nhân sinh, phát biểu trực tiếp cho tư tưởng của Xuân Diệu: khao khát giao cảm hết mình với đời. Nhà thơ phát hiện ra một thế giới tràn đầy xuân sắc, một thế giới vận động, biến đổi tiếp tục theo dòng chảy thời gian thế giới ấy phải được thụ hưởng tích cực nhất, nhiệt tình đầy ham muốn đam mê nhất. Đồng thời ở bài thơ này nhà thơ muốn vĩnh cửu hoá cuộc sống ở thời hiện tại.
- Ta bắt gặp một Xuân Diệu say đắm đam mê, một tâm hồn rạo rực đầy sức sống trẻ trung khoẻ khoắn và lành mạnh.
Nhân vật trữ tình chính là thế giới tâm hồn của nhà thơ được thể hiện một cách trực tiếp, những khát khao ham muốn cháy bỏng đa cung bậc. Nếu ở đoạn đầu bài thơ là ý thức cưỡng lại thời gian thì tới giữa bài thơ là nỗi âu lo về sự bào mòn của thời gian, cuối bài thơ là lòng ham muốn vô biên tuổi trẻ và tình yêu.
- Giọng điệu của bài thơ gấp gáp khẩn trương sôi nổi, nhịp thở nhanh thể hiện thông qua hình thức điệp ngữ liên tiếp và cấu trúc vắt dòng của thơ hiện đại. Bài thơ là sản phẩm đặc trưng cho phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu. Hình ảnh thiên nhiên trong vội vàng rộn rã đầy xuân tình, xuân ý.
Bút pháp nghệ thuật: tượng trưng
II. Phân tích
1. Ham muốn khát khao giao cảm với đời
Bốn câu đầu
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho h¬ơng đừng bay đi
Nhịp thơ chậm đều phù hợp với thể thơ ngũ ngôn. Điệp ngữ "Tôi muốn" được nhắc lại hai lần bộc lộ ham muốn của nhà thơ muốn vĩnh cửu hoá thời gian ở thì hiện tại. Khổ thơ bộc lộ ước muốn lạ kỳ của thi sĩ ấy là ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên. Một ước muốn không thể: ước muốn tắt nắng, buộc gió, thật là những ham muốn kỳ dị chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật tự nhiên? làm sao có thể vĩnh cửu hoá những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy. Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta thấy được một lòng yêu bồng bột vô bờ đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này. Bốn câu thơ như một mệnh lệnh muốn đoạt quyền tạo hoá, nhà thơ đã đặt mình ngang tầm vũ trụ để từ đó ý thức về sự có mặt của cái tôi cá nhân trước cuộc đời.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường nơi mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Tất cả thế giới ấy được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy nhục cảm nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy sắc dục. Xuân tình - cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong "Vội vàng" như một mảnh vờn tình ái, vạn vật đương lúc dậy tình, vừa như một mâm tiệc với thực đơn đầy quyến rũ, lại vừa như một ngời tình đầy khêu gợi ái ân. Nhà thơ cất lên một chuỗi tiếng reo vui khi bước chân vào mảnh vờn với những cảnh sắc mê li.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Cả đoạn thơ là cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc một thiên nhiên rạo rực xuân tình.
Điệp ngữ "này đây" dồn dập phân đều ở tất cả các câu thơ biểu thị sự phong phú dường như bất tận của thiên nhiên. Đi liền với điệp ngữ "này đây" là những hình ảnh tơi ròng sự sống. Làm sao mà không say trong chập chờn ong bớm khi ngày xuân đang ở độ tràn đầy (tuần tháng mật), bên yến anh quấn quít để hưởng khúc tình si. Làm sao không xao xuyến đến nao lòng trước cái mát mẻ, thanh tân của sắc hương hoa đồng nội xanh rì và lá non bên cành tơ phơ phất. Những hình ảnh thơ chân thực tơi nguyên và ròng ròng sức sống. Nhà thơ lãng mạn đón nhận sự sống bằng cặp mắt xanh non và cao hơn níu giữ sự sống bằng cả tấm lòng, bằng cả ý muốn chủ quan của mình. Thơ xa nào đã mấy ai dám bộc lộ tiếng nói chủ thể cương quyết và dứt khoát nh¬ sự lên tiếng của Xuân Diệu. Sự sống quanh ta đang độ vào xuân thật hấp dẫn, thật say lòng ng¬ời khiến thi sĩ cũng ngất ngây khi mà "Mỗi buổi sớm thần vui gõ cửa". Và thật bất ngờ, thật táo bạo khi nhà thơ cất lên: "Tháng giêng ngon nh¬ một cặp môi gần". Một phát hiện mang tính khám phá của thi sĩ. Hình ảnh thơ sao mà khoái cảm đến thế. Nhà thơ đã vật chất hoá một khái niệm thời gian (tháng giêng) trong quan hệ so sánh đầy bất ngờ: "ngon như một cặp môi gần". Câu thơ truyền cho ta cảm giác thật cụ thể "ngon" "môi gần". Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam cha có ai táo bạo trong lối nghĩ và so sánh như Xuân Diệu "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần" đây là cảm giác của ái ân tình tự, cảm giác này làm ta thấy tháng giêng mơn mởn tơi ngon đầy sức sống thanh tâm kia sao mà quyến rũ. Tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình khả ái trinh nguyên. Không có tình yêu tha thiết, yêu cuộc sống tới mức cuồng nhiệt làm sao có được những vần thơ cháy bỏng ấy.
Cả đoạn thơ nhà thơ gửi vào đó một thông điệp: Không phải đi tìm thiên đường sự sống đâu xa mà chính sự sống này tự nó đang bày ra trớc mắt ta tất cả sức hấp dẫn vốn có. Ta có cảm nhận được hay không phụ thuộc vào thái độ sống của ta. Như vậy trong nội tại khổ thơ đã ngầm bộc lộ một quan niệm nhân sinh hết sức tiến bộ. Hình ảnh diễn đạt trong đoạn thơ cũng đầy mới mẻ và sáng tạo. Có thể nói nếu đặt đoạn thơ này bên cạnh những vần thơ luật đường của thơ ca trung đại ta thấy ngay được cái mới lạ, cái khác biệt của thơ mới.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng lôgic ngầm của nó. Thi sĩ muốn tắt nắng, buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này. Hương sắc là cái sinh khí của sự sống, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của sự sống. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân thì vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, "ngon" nhất là độ xuân, còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái "ngon" kia khi còn tơi trẻ. Mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam xuất hiện quan điểm này.
2. Cảm xúc lo âu về sự bào mòn của thời gian đối với sự sống
Tác giả sử dụng cấu trúc ngữ pháp hiện đại: "Tôi sung sớng. Nh¬ng vội vàng một nửa". Câu thơ gồm bảy âm tiết nhưng được ngắt ra làm hai vế. Dấu chấm câu đặt giữa dòng tạo sự vô tình của câu thơ bộc lộ hai trạng thái tâm lý trái ngược nhau của Xuân Diệu: sung s¬ớng và âu lo tr¬ớc sự bào mòn của thời gian. Nhà thơ nhận thức được rằng xuân vô cùng ngắn ngủi và thế là mảng thơ thứ ba này đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống và con người. Cái thế giới này lộng lẫy nhất, ngon nhất ở độ xuân còn con người cũng chỉ hưởng thụ cái non kia khi còn trẻ, mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy.
Hình ảnh xuân vừa là biểu tượng của sức sống vừa là biểu tượng của thời gian. Ở đây, thời gian đã được tâm lý hoá, tác giả gắn liền với tâm trạng âu lo của con ngời. Lối kết cấu hiện đại theo kiểu vắt dòng tạo ra nhịp điệu thời gian chảy trôi triền miên.
Đoạn thơ với cấu trúc điệp ngữ giải thích thể hiện ý thức nghiệm sinh của nhà thơ về sức sống với thời gian; giữa cái hữu hạn với cái vô hạn.
Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lơng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Có lẽ lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam có được quan niệm này. Con người trung đại yên trí với thời gian tuần hoàn với chu kỳ bốn mùa cũng như chu kỳ ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại đang sống với quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm sao có sự tuần hoàn. Nh¬ vậy điều đ¬ợc chú ý đầu tiên ở đây là tuổi trẻ.
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian sự có mặt của con người thật ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về sự hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem tới một nỗi ngậm ngùi mới mẻ:
Còn trời đất nh¬ng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Nhà thơ cũng đem đến một cảm nhận độc đáo về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt
Là người tiếp thu nhuần nhuyễn phép "tương giao" của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Tác giả huy động những giác quan vật chất để cảm nhận những cái tinh vi của cuộc sống.
Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: Mùi tháng năm.
Với Xuân Diệu thời gian được làm bằng hương bởi vậy mà ngay mở đầu bài thơ thi sĩ cứ muốn buộc gió lại để hương đừng bay đi. Một chữ "rớm"cho thấy khứu giác đã chuyển hoá thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ "vị"cho ta thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác và đây là một vị hoàn toàn phi vật chất: "Vị chia phôi". Có lẽ chữ "rớm " và chữ "vị" đều từ hình ảnh ẩn hiện của giọt lệ chia phôi mà ra. Vì sao thời gian lại mang các hương vị của hình thể chia phôi? Cái tinh tế của Xuân Diệu chính là ở đây. Nhà thơ luôn khắc khoải về sự bào mòn của thời gian, thời gian sẽ huỷ hoại tuổi trẻ. Đây là ý thức triết lý ngẫm suy suy tư ngẫm ngợi không chỉ bám riết tâm hồn thi sĩ mà dưường như còn thấm vào thời gian tạo vật. Thi sĩ cảm nhận thấy hiển hiện: mỗi một khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ. Thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn trên mỗi thời khắc đang diễn ra một cuộc chia tay giữa thời gian với con người, giữa thời gian với không gian và với chính thời gian. Cho nên khi thi sĩ luôn nghe thấy âm vang than thầm của sự tiễn biệt khắp sông núi, một lời than vĩnh viễn: "than thầm tiễn biệt" không gian đang tiễn biệt thời gian, và thời gian trôi đi sẽ khiến cho nhan sắc thiên nhiên bước vào sự tàn phai, một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi. Nhà thơ cảm nhận được bước đi của thời gian dưới nhiều dạng vẻ sao mà khắc nghiệt. Nhà thơ dường như nghe được, nhận biết đợc nội tâm của muôn loài tạo vật: sông núi, ngọn gió, tiếng chim…trước sự ra đi của thời gian. Đoạn thơ mang đậm chất ngẫm suy. Hình ảnh thơ cô đọng súc tích gợi sự liên tưởng, tưởng tượng cho độc giả. Từ ý thức về sự chảy trôi của thời gian, ý thức đợc cái hữu hạn của đời một con người nhà thơ muốn đề ra một giải pháp.
3. Cưỡng lại sự chảy trôi của thời gian
Ngay từ đầu bài thơ nhà thơ đã đưa ra giải pháp: "tắt nắng" "buộc gió" nhưng không thể tắt nắng, không thể buộc gió và cũng không thể cầm giữ được thời gian thì chỉ còn một cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, phải tranh thủ sống. Đốt mình lên mà sống. Đoạn thơ kết này bùng cháy ngọn lửa của tình yêu cuộc sống. Nó thắp sáng lên lời giải đáp cho quan niệm sống, tinh thần sống: "Mau đi thôi mùa cha ngả chiều hôm". Đến đây phần luận giải của tuyên ngôn "Vội vàng" đủ đầy luận lý. Nghĩa của tiêu đề "Vội vàng" cũng được giải thích. "Vội vàng" không phải tốc độ sống mà là cường độ sống trong từng giây từng phút giữa thế gian này.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đa và gió lượn
Ta muốn say cánh bớm với tình yêu
Ta muốn thân trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đủ đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tơi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Đoạn thơ là những cảm xúc mãnh liệt, những ham muốn mỗi lúc một cuồng nhiệt vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với tự nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể tả như thế Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống sung mãn của mình. Nếu chọn một đoạn thơ để minh hoạ cho chất giọng sôi nổi của Xuân Diệu thì đó chính là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy cả giọng nói và nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ đó. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau giao thoa và đập vào hồn người .
Ta muốn ôm
Đứng biệt lập thành một câu mệnh đề. Tiếp sau đó, điệp ngữ "Ta muốn" được lặp lại với mật độ thật dày thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm - riết- say - thâu - cắn. Có thể nói câu thơ "và non nước, và cây, và cỏ rạng" là không thể có với thi pháp thơ trung đại. Thậm chí với thơ xa đó là câu thơ vụng non về nghệ thuật. Tại sao lại nhiều liên từ "và" đến thế?. Với thơ mới đó là một sáng tạo. Những chữ "và" hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng các giọng nói, khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện một cách trực tiếp tươi sống cái cảm xúc ham hố tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ.
Câu thơ:
"Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tơi"
Cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như ở trên. Từ "cho" điệp lại với nhịp điệu tăng tiến nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thê:
Chếnh choáng - Đã đầy- No nê
Cái điều tác giả cần hưởng thụ là gì vậy ? Là sự sống trong đó: Mây đa, gió lợn, cánh bướm, tình yêu, non nước, cỏ rạng, xuân hồng. Động thái hưởng thụ này càng lúc càng nâng cao, càng vỡ mạnh đẩy cảm xúc lên tột đỉnh.
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong cuộc tình chếnh choáng men say mà ngời tình ở đây là sự sống mơn mởn xuân thì. Ta cảm thấy cả đoạn thơ như một ngọn lửa đang bừng cháy trước cuộc đời. Một Xuân Diệu vô cùng thành thật với mình, với đời, với ngời.
Một quan niệm sống, một triết lý sống đam mê mãnh liệt, đ¬ợc bộc lộ trọn vẹn trong suốt cả bài thơ mà đoạn thơ này là đỉnh điểm. Quan niệm sống ấy chỉ có được ở con người sống có trách nhiệm với đời, với người, với chính bản thân mình.
Sống biết hưởng thụ hạnh phúc trần thế, hưởng thụ hương vị cuộc sống, biết sống cho ra sống cũng là một cách cống hiến. Sống là hạnh phúc muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Ta có thể coi vội vàng là cách đến với hạnh phúc là chính hạnh phúc, là sự trả giá cho hạnh phúc. Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ.
III. Kết luận
"Vội vàng" là bài thơ thể hiện tư tưởng nhân văn của Xuân Diệu. Đó là lòng yêu đời yêu ngời, yêu cảnh, yêu tuổi trẻ yêu mùa xuân, đó là sự thích sống thèm sống của Xuân Diệu. Một Xuân Diệu đang tự đốt cháy mình lên giữa cuộc đời bằng quan niệm sống tích cực: sống toàn tâm, toàn ý, toàn hồn sống thức chọn mọi giác quan.
"Vội vàng" quả là lời tự bạch chân thành, bản tốc kí tâm trạng, tuyên ngôn nhân sinh gửi những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng.
(ST)