Tìm hiểu bài thơ Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên)

Trinhpham

New member
Xu
93
Tây bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá thành những con tàu,
Khi Tở quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng.
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng
Nơi máu đỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân.
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đuờng
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.
Con gặp lại nhận dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng đập cánh tay đưa.
Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng cho anh con cởi lại cho con.
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em liên lạc
Sáng bản Na, chiều em qua bản bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
Cón nhớ quê mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xuôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả mùi hương.
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tình hãy vỗ dùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhụa nóng của cần lao.
Nhựa nóng của mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, ngưòi mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mắt hồng em trong suối lớn mùa xuân.



Tác giả

Phan Ngọc Hoan, bút danh Chế Lan Viên (1820 – 1989).

Tác phẩm: “Điêu tàn” (1937), “Ánh sáng và phù sa” (1960), “Hoa ngày thường – chim báo bão” (1967), “Những bài thơ đánh giặc” (1972),… : “Hoa trên đá…” (1984)…

Thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng và vẻ đẹp trí tuệ, sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập, sáng tạo ra những hình ảnh đẹp mới lạ và ngôn ngữ sắc sảo.

Xuất xứ và ý tưởng chính của bài thơ

1. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút từ tập thơ “Ánh sáng và phù sa” xuất bản năm 1960.

2. Bài thơ thể hiện sự gắn bó với đất nước và nhân dân trong kháng chiến cũng như trong kiến thiết hoà hình là để đền ơn đáp nghĩa, để trở về cội nguồn hạnh phúc cũng là tìm thấy nguồn vui trong lao động sáng tạo nghệ thuật.

Những vần thơ đẹp và hay

1. Khổ thơ đề từ

“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc,
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”

Tây Bắc trong bài thơ là biểu tượng cho mọi miền đất nước thân yêu, là “nơi máu rỉ, tâm hồn ta thấm đất” trong kháng chiến, cũng là nơi “tình em đang mong, tình mẹ đang chờ”, là mảnh đất xanh màu hy vọng “nay dạt dào đã chín trái đầu xuân”. Và con tàu, chính là lòng ta, tâm hồn ta mang sức mạnh và niềm vui khát vọng lên đường khi “Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát”. Lên đường đến với mọi miền đất nước, để “ta lấy lại vàng ta”, tìm thấy tâm hồn đích thực của mình, cũng là để khơi nguồn cảm hứng sáng tạo thi ca.

2. Trở lại Tây Bắc

- Là mảnh đất anh hùng:

“Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng.
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân”

- Trở lại Tây Bắc là trở về cội nguồn tình thương, như cỏ non, như chim én đón xuân về, như trẻ thơ đói lòng gặp sữa mẹ,…

- Trở lại Tây Bắc là để đền ơn đáp nghĩa đối với những tấm lòng nhân hậu thủy chung: là em giao liên giữa rừng sâu “mười năm tròn chưa mất một phong thư”; là anh du kích với “chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn… đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”. Là bà mế Tây Bắc “năm con đau mế thức một mùa dài – Con với mế không phải hòn máu cắt – Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”. Là cô gái Tây Bắc “vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng… Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.

- Trở lại Tây Bắc là để đo lòng mình, khám phá chiều sâu tâm hồn mình về tình yêu nước, thương dân, về ân nghĩa thủy chung ở đời:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở,
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Vần thơ giầu chất triết lý, kết tinh những trải nghiệm ứng xử, sự chắt lọc tình đời, tình người qua mỗi trái tim, mỗi tâm hồn trong sáng.

3. Khúc hát lên đường:

- Nhịp điệu dồn dập, âm điệu rộn ràng, phấn chấn say mê:

“Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga
… Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”

- Mang ước vọng tìm thấy nguồn thơ, tìm thấy cái tâm đích thực của lòng ta:

“Tây Bắc ơi, người mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa,
Nay trở về ta lấy lại vàng ta”

- Nếu khi chưa lên đường “Tàu đói những vành trăng” thì nay, con tàu đã ôm bao “mộng tưởng” và kỳ diệu thay “mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng?” Có hạnh phúc nào, niềm vui nào bát ngát hơn “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, khi:

“Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”

“Mặt hồng em” là một hình tượng đẹp thể hiện cuộc sống muôn màu muôn vẻ, là hiện thực phong phú của đất nước ta, của nhân dân ta; với người nghệ sĩ, đó là những sáng tạo thi ca đích thực.

4. Kết luận

Chế Lan Viên đã có một lối nói rất thơ, rất tài hoa. Cấu trúc bài thơ, sáng tạo hình ảnh, chất cảm xúc hòa quyện với chất trí tuệ tạo nên những vần thơ hay, mới lạ, độc đáo.

Bài học về tình yêu nước, sự gắn bó với đất nước và nhân dân là những bài học sâu sắc, cảm động. Khát vọng được trở về trong lòng nhân dân, để tự khẳng định mình, làm cho tâm hồn thêm trong sáng, để khơi nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật là những ý tưởng rất đẹp được Chế Lan Viên thể hiện bằng trải nghiệm, bằng thái độ sống và sáng tạo của chính mình. Nửa thế kỷ trôi qua, bài thơ “Tiếng hát con tàu” đã cho thấy cái đẹp của thơ ca bất tử với thời gian.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Cảm ơn maddoom đã đóng góp ý kiến cho bài biết nhé. Bài viết của Trinhpham tuy không được sâu cho lắm nhưng có thể đây là những gì bạn ấy hiểu sau khi tìm hiểu "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên. Bài thơ này thực sự rất khó hiểu. Các bạn có thể đóng góp thêm ý kiến của mình để chúng ta có thể tìm hiểu bài thơ một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.

Tham khảo

Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên
TIẾNG HÁT CON TÀU

Chế Lan Viên
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .


Tiếng hát con tàu được Chế Lan Viên viết năm 1960 và in trong tập Ánh sáng và
phù sa . Đó là thời điểm miền Bắc sau những năm kháng chiến thắng lợi, vừa mới
trải qua thời kì khôi phục kinh tế, bắt đầu bước vào kế hoạch năm năm lần thứ
nhất . Hoàn cảnh đặc biệt đó đã làm nảy sinh trong giới văn nghệ sĩ một ý thức
nghệ thuật gắn liền với công cuộc xây dựng cuộc sống mới của nhân dân, tự
nguyện đi đến những vùng miền khó khăn của đất nước , hòa nhập vào cuộc sống
của nhân dân bởi chỉ có như vậy mới tìm lại niềm hạnh phúc, mới tìm thấy ngọn
nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật .


II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .


Tiếng hát con tàu không đơn thuần chỉ là một bài thơ lấy sự kiện chính trị làm
điểm xuất phát và tập trung thể hiện tư tưởng chủ đạo là cổ vũ động viên thanh
niên lên đường xây dựng Tổ quốc . Bài thơ còn là tấm lòng của những người gắn
bó sâu nặng nghĩa tình với nhân dân, với đất nước . Lời mời gọi lên Tây Bắc trở
thành lời giục giã, lời mời gọi những tâm hồn hãy đến với đời sống cần lao và
rộng lớn của nhân dân . Từ một vấn đề thời sự, bài thơ đã mở ra những suy tưởng
về cuộc sống, về nghệ thuật .


Nhan đề “Tiếng hát con tàu” của bài thơ mang tính biểu tượng bởi thực tế chưa hề
có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc . Hình tượng con tàu trong bốn câu thơ đề từ
là biểu tượng cho tâm hồn nhà thơ đang khát khao lên đường, vượt ra khỏi cuộc
sống chật hẹp, quẩn quanh đi đến với cuộc đời rộng lớn . Tây Bắc ngoài ý nghĩa
cụ thể chỉ địa danh một miền đất xa xôi của Tổ quốc, còn là một biểu tượng của
cuộc sống lớn của nhân dân và đất nước, là cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ
thuật .


Bài thơ mở đầu bằng một lời mời gọi thiết tha :


Chuyến tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng ?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vầng trăng .


Ta bắt gặp chủ thể trữ tình tự phân thân để đối thoại với chính mình với hàng loạt
những câu hỏi nâng cao dần cấp độ để bộc lộ khát vọng lên đường . Không chỉ là
lời hối thúc bản thân, câu thơ còn là lời động viên, thuyết phục mọi người đi đến
với những miền đất lạ xa xôi, hòa nhập vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân . Chế
Lan Viên đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên đường của mọi
người :


Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô ? Tàu đói những vầng trăng .


Nhà thơ nói với người khác và cũng là tự nhủ với chính lòng mình . Cuộc kháng
chiến trường kì gian khổ đã kết thúc thắng lợi, đất nước bước vào công cuộc tái
thiết , xây dựng cuộc sống mới đang rất cần sự đóng góp của mỗi người . Cuộc
sống lớn đó là ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật . Song nghệ thuật không
thể nảy sinh khi người nghệ sĩ không mở rộng lòng mình đón nhận tất cả những
vang vọng của cuộc đời . Từ sự chiêm nghiệm về cuộc đời thơ của chính mình,
Chế Lan Viên đã đưa ra những lời khuyên đầy tâm huyết : hãy đi ra khỏi cái tôi
chật hẹp của mình mà hòa nhập với mọi người , hãy vượt ra khỏi chân trời của cái
tôi nhỏ bé để đến với chân trời của tất cả . Đi theo con đường ấy, có thể tìm kiếm
được nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hồn của chính mình trong cuộc sống
rộng lớn của nhân dân :


Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia


Chính vì lẽ đó mà tâm hồn thơ Chế lan Viên muốn hóa thân thành con tàu tâm
tưởng, khao khát lên đường , hăm hở say sưa, háo hức trong hành trìng trở về với
cuộc đời rộng lớn, về với nhân dân . Khát vọng đến với cuộc sống rộng lớn , đến
với nhân dân trở thành cảm hứng, tình cảm chân thành của nhà thơ . Khát vọng ấy
đã một lần vang lên trong thơ ông :

Ôi chim én có bay không, chim én ?
Đến những đảo xa, đến những đảo mờ
Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ .


Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, khát vọng lên đường ấy mỗi lúc càng được bộc lộ
cụ thể hơn, say mê hơn và rạo rực hơn : “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, “Tàu
hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội . Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”, “Mắt ta nhớ mặt
người, tai ta nhớ tiếng” … Khát vọng ấy càng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết
khi có sự gặp gỡ giữa đòi hỏi của nhân dân, đất nước với nhu cầu tình cảm của nhà
thơ “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi” . Ở đây tiếng gọi của cuộc sống lớn, của
nhân dân , đất nước đã thực sự trở thành sự thôi thúc bên trong của chính nhà thơ
Ai đó đã từng nói : “Ra đi là trở về” . Lên Tây Bắc cũng chính là để nhà thơ trở về
với mảnh đất anh hùng đã từng gắn bó máu thịt với cuộc đời ông , để chứng kiến
những thành quả bước đầu của thành quả cách mạng :

Trên Tây Bắc ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân


Máu rỏ xuống và cây mọc lên, đơm hoa kết trái . Hai ý thơ đối nghịch cho ta thấy
sức sống vĩ đại của miền Tây Bắc : từ trong cái chết , sự sống vẫn tiếp tục nẩy
mầm xanh . Động từ “rỏ”không gây ấn tượng mạnh nhưng lại có sức lan tỏa sâu
trong lòng người đọc .Máu “rỏ” chứ không phải là máu tuôn, máu xối . Nó cho
thấy sự hi sinh thầm lặng nhưng bền bỉ, lâu dài của người dân Tây Bắc nói riêng
và của người Việt Nam nói chung . Mất mát hi sinh là lớn nhưng nó không đủ sức
để thiêu chột đi ý chí và khát vọng . Chỉ cần giữ được niềm tin vào cuộc sống thì
cuộc đời này vẫn đáng yêu, đáng sống và nó lại thôi thúc con người mang khát
khao cống hiến .


Bao trùm trong Tiếng hát con tàu là niềm khát khao mãnh liệt và niềm hạnh phúc
lớn lao của nhà thơ khi được trở về với nhân dân :


Con gặp lại nhân dân hư nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa


Thể hiện niềm hạnh phúc lớn lao đó, tác giả sử dụng liên tiếp những hình ảnh so
sánh . Những hình ảnh này vừa có vẻ đẹp thơ mộng, mượt mà : “nai về suối cũ, cỏ
đón giêng hai, chim én gặp mùa”, vừa có sự hoà hợp giữa nhu cầu và khát vọng
của bản thân với hiện thực : “trẻ thơ đói lòng gặp sữa, chiếc nôi ngừng bỗng gặp
cánh tay đưa” đã nhấn mạnh niềm hạnh phúc tột độ và ý nghĩa sâu xa của việc trở
về với nhân dân . Đối với nhà thơ, được trở về với nhân dân không chỉ là niềm vui,
niềm khát khao mà còn là một lẽ tự nhiên, phù hợp với qui luật . Về với nhân dân
là về với ngọn nguồn bất tận của sự sống , về với những gì thân thiết và sâu nặng
của lòng mình .


Khát vọng được trở về với nhân dân được tác giả thể hiện thông qua những cảm
xúc chân thành, những tình cảm cụ thể, những kỉ niệm sâu sắc gắn liền với những
con người tiêu biểu cho sự hi sinh, cưu mang đùm bọc của nhân dân trong kháng
chiến . Nhân dân ở đây không còn là một khái niệm chung chung trừu tượng nữa
mà hiện ra qua những hình ảnh, những con người cụ thể, gần gũi, xiết bao thương
mến . Nhân dân, đó là “anh con, người anh du kích” với “chiếc áo nâu anh mặc
đêm công đồn, chiếc áo nâu suốt một đời vá rách, đêm cuối cùng anh gửi lại cho
con”; là “em con thằng em liên lạc, Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ” ; là bà
mế già “lửa hồng soi tóc bạc, Năm con đau mế thức mọt mùa dài” ... Với những
điệp ngữ : “con nhớ anh con”, “con nhớ em con”, “con nhớ mế” ... , bài thơ chồng
chất, ăm ắp những kỉ niệm được gọi ra từ niềm hoài niệm về nhân dân của nhà thơ .
Cách xưng hô của chủ thể trữ tình bộc lộ một tình cảm thân tình, ruột thịt với
những con người đã từng gắn bó mật thiết với mình trong những năm kháng chiến .
Đọc những câu thơ này, có thể thấy được sự sự rung động vừa sâu sắc, tha thiết,
vừa say mê, mãnh liệt của một hồn thơ trong những giây phút bừng sáng của sự
giác ngộ một chân lí đời sống và cũng là chân lí của nghệ thuật : phải trở về thuỷ
chung gắn bó với nhân dân . Tổ quốc và nhân dân đã hồi sinh cho một hồn thơ đã
từng một thời tự giam mình trong cái tôi cô đơn, đóng khép .
Từ những kỉ niệm ân tình, những hoài niệm về nhân dân, tác giả đã nâng lên thành
những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra từ những trải
nghiệm của chính mình :

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng uêy đương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn !
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương .


Khổ thơ là tấm lòng nhà thơ trải dài theo nỗi nhớ . Nỗi nhớ ấy day dứt trong tâm
trí nhà thơ . Đó là nỗi nhớ về những bản làng điệp trùng mây núi . Nhà thơ đã đi
qua nhiều nơi, nhưng nơi nào chẳng để thương để nhớ trong tâm hồn nhà thơ, để
rồi “khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn” .


Nói đến tình yêu trong nỗi nhớ, câu thơ Chế Lan Viên lấp lánh rực rỡ những màu
sắc, bồi hồi, xôn xao những xúc động . Chế Lan Viên đã diễn tả thật hóm hỉnh,
độc đáo và sâu sắc mối quan hệ khăng khít , sự gắn bó chặt chẽ giữa những kẻ
đang yêu . Nhưng tình yêu ở đây không dừng lại trong giới hạn tình yêu đôi lứa
mà còn là sự kết tinh của những tình cảm sâu nặng với quê hương đất nước . Nói
về tình yêu nhưng lại hướng tới sự cắt nghĩa, lí giải làm bừng sáng cả đoạn thơ .
Chế Lan Viên đã nói tới phép màu của tình yêu . Chính tình yêu đã biến những
miền đất lạ trở thành thân thiết như quê hương ta, hoá thành máu thịt tâm hồn ta .
Câu thơ mang đậm chất triết lí nhưng triết lí đó được khơi nguồn từ tình cảm, từ
cảm xúc chân thành nên không khô khan, vẫn tự nhiên và dung dị . Đó là những
câu thơ hay nhất của đời thơ Chế Lan Viên .


III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .


Tiếng hát con tàu là bài thơ hay của Chế Lan Viên đã góp phần làm đẹp thêm bộ
phận thơ viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội . Bài thơ thể hiện một cái
nhìn mới của nhà thơ trước cuộc đời, trước con người . Nhưng có lẽ điều cô đọng
lại trong tác phẩm là những suy tư mang đậm màu sắc triết lí, lắng sâu trong tâm
hồn người đọc những rung động trước tình cảm gắn bó của nhà thơ với nhân dân,
với đất nước . Và cũng chính vì lẽ đó mà mỗi người nhận thức riêng cho mình một
con đường đi tới để được hoà mình vào cuộc sống mới, để được sống trong những
cảm xúc chân thành như của chính nhà thơ.

Nguồn: tuyển tập Chế Lan Viên*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nội dung:

- Bài thơ thể hiện khát vọng, niềm hân hoan trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, đất nước, cũng là tìm thấy nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho hồn thơ
- Hình ảnh “con tàu” là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với những miền xa xôi, đến với nhân dân với đất nước, cũng là đến với mơ ước, với ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. Do vậy “ Tây Bắc “ ở đây vừa là tên một vùng đất cụ thể vừa biểu tượng cho mọi miền xa xôi của tổ quốc, nơi có cuộc sống gian lao mà sâu nặng nghĩa tình, nơi khắc ghi những kỉ niệm không thể quên.

Nghệ thuật

- Bài thơ đậm chất suy tưởng triết lí- một nét nổi bật trong phong cách thơ CLV- Kết hợp cảm xúc và suy tưởng, nâng cảm xúc, tình cảm lên thành suy ngẫm triết lí , do vậy triết lí mà không khô khan trừu tượng trái lại rất gần gũi
- Hình ảnh thơ : Bên cạnh những hình ảnh thực, dung dị,bài thơ còn có nhiều hình ảnh được sáng tạo bằng liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, hòa trộn thực với ảo, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của người đọc​
 

ĐỌC HIỂU TIẾNG HÁT CON TÀU CỦA CHẾ LAN VIÊN


A.Hoàn cảnh sáng tác


1 .Hoàn cảnh chung

-Vào những năm 58 – 60 ng dân miền xuôi nô nức lên TB theo cuộc vận động của Đảng và NN để XD kinh tế
-Nhiều nhà văn cũng đã theo dòng người lên TB (NTuân,NKhải,…) để tìm nguồn cảm hứng cho sáng tạo nghệ thuật

2.Hoàn cảnh riêng

-Bấy giờ CLV 0 thể lên được vùng đất kháng chiến vì lí do sức khoẻ nên nhà thơ đã đến với TB = tâm hồn và tình cảm của mình, = khát vọng đươc hoá thân vào con tàu để :
+về với nhân dân TB
+về với kháng chiến gian khổ mà tình nghĩa
+về với những kỉ niệm 0 thể quên với con người,TNhiên TB
+trở về với tâm hồn trong sáng của chính mình
+ về với ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo

B . ý nghĩa nhan đề bài thơ


1.H/ả TB

1. -Gắn với nghĩa thực thì TB là 1 vùng đất , 1 địa danh ,nơi xa xôi, hẻo lánh,núi rừng hoang vu ,hiểm trở
+nơi đã từng diễn ra cuộc kháng chiến oanh liệt chống TD Pháp
+nay(1960) đang hồi sinh trở lại(dạt dào đã chín trái đầu xuân)
-Mang ý nghĩa biểu tượng cho mọi miền xa xôi của TQ .T/cảm của CLV là t/y đối với TB, với mọi miền TQ.Đó là 1 thứ t/c lớn lao,t/c cộng đồng

2.Hình tượng con tàu

Sự thật những năm này chưa có đường tàu và cũng chưa có con tàu nào lên TB .Vì vậy hình tượng con tàu ở nhan đề cũng như ở xuyên suốt bài thơ là h/ả lãng mạn mang ý nghĩa biểu tượng.Con tàu biểu tượng cho những cuộc lên đường,cho khát vọng đi xa vượt ra khỏi những gì chật hẹp,tù túng ,quẩn quanh để đên với cuộc sống rộng lớn của nhân dân,để đến với nơi khơi nguồn cho cảm hứng nghệ thuât và cũng là để về với chính tâm hồn mình
Ở phần đầu bài thơ t/g cũng đã nói rõ điều này:
“Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi sao chửa ra đi ? ”
“Đời nhỏ hẹp” là tình trạng chung của văn nghệ sĩ trước CMT8 .CLV cũng từng viết:
“Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con ”
(Người đi tìm hình của nước)

Giờ này trở về với nhân dân mượn con tàu vượt lên trên cuộc sống hiện tại nhỏ hẹp để vươn đến những tầm cao, tầm xa.

Ý nghĩa biểu tượng của “Tiếng hát con tàu”:

Nếu tâm hốn con người thao thức với TB (là TQ, là nhân dân thì cần phải trở về với nó.Muốn trở về thì “Lòng ta hoá những con tàu ”.CLV đã đặt ra một cái đẳng thức giữa TB ,TQ ,con tàu ngang = về mặt giá trị : TB=TQ=con tàu .Bởi vậy mà nhan đề bài thơ vừa có ý nghĩa biểu tượng, vừa có ý nghĩa bộc lộ cảm xúc. Bài thơ là khúc hát say mê,rạo rực của một tâm hồn thơ đã thoát khỏi cái khung chật hẹp của cái “tôi” nhỏ bé của bản thân để đến cới cuộc sống cần lao rộng lớn của nhân dân.Thực tế thì đây cũng là tiếng hát về lòng biết ơn, sự gắn bó với nhân dân, đất nước của một tâm hồn thơ đã tìm thấy ngọn nguồn nuôi dưỡng và chân trời nghệ thuật mới của mình


Như vậy “THCT” sẽ là lời mời gọi ,giục giã mà cũng chính là khúc hát lên đường say mê,lôi cuốn ,bay bổng và lãng mạn.Bởi vậy mà cuối bài thơ tác giả viết :

“ Lấy cả những cơn mơ ! Ai bảo con taù không mộng tưởng ?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng”

C.PHÂN TÍCH KHỔ THƠ ĐỀ TỪ

“TB ư ? ………………
………..chứ còn đâu?”

1 .Hình thức hỏi và tự trả lời

Bốn câu thơ như 1 cuộc đối thoại ,một lời hỏi đáp mà người hỏi va người đáp đều chính là nhà thơ.Có lẽ tác giả mượn bốn dòng thơ này để giải toả nỗi băn khoăn của lòng mình :
“TB ư?.................còn đâu ?”

Hai tiếng TB vừa như ngỡ ngàng vừa như quen thuộc .TB ở đây 0 chỉ là TB mà còn biểu tượng cho những miền xa xôi của TQ,nơi đã ghi sâu những kỉ niệm kháng chiến ,nơi đang vẫy gọi ,nơi tình dân đang chờ những cánh tay và tấm long chung sức xây dựng . Là những nơi thấm đượm ân nghĩa và thật nhiêf kỉ niệm cao đẹp trong cuộc sống lao động và chiến đấu .


Khái quát sâu rộng hơn khi nhà thơ viết:

“Lòng ta đã hoá những con tàu”
Hay “ Tâm hồn ta là TB chứ còn đâu?”
Lời thơ còn có nghĩa nói lên nhiều niềm suy tư về đời sống và khái quát thành chân lí nghệ thuật :
+ Đất nước đã hồi sinh sau kháng chiến nơi nơi cất lên khúc hát XD : “Bốn bề lên tiếng hát ” .Cuộc sống lớn ấy là ngọn nguồn sang tạo nghệ thuật, thơ ca .
+Nhưng nghệ thuật và thơ ca không bao giờ tự đến:
“Chẳng có thơ đâu giữa long đóng khép ”
Nghệ thuật chỉ có thể nảy sinh khi nghệ sĩ mở rộng long mình để đón nhận và hoà nhập vào cuộc đời rộng lớn của đât nước, nhân dân.
+ Khi lòng nhà thơ đã hoá những con tàu và tiếng hát hoà chung với khúc hát bốn bề TQ ấy chỉ cần soi vào long mình ,nhà thơ cũng thấy cả TQ và nhân dân
Tâm hồn ta là “TB chứ còn đâu?”

Đồng nhất lòng mình với TQ , với đất nước phải chăng là cách để CLV bộc lộ dòng cảm xúc của mình?Trong một bài thơ khác ,ông cũng từng viết :

“Tâm hồn tôi khi TQ soi vào
Thấy ngàn núi trăm sông diễm lệ
Con ngọc trai đêm hè đáy bể
Uống thuỷ triều bỗng sáng hạt châu”
(Chim lượn trăm vòng)

Như vâỵ,cùng với ý nghĩa biểu tượng của “con tàu” ,những lời hỏi đáp về TB,hỏi và tự đáp, đáp bằng câu hỏi,nhà thơ như muốn tư nhắc nhở,tự giải toả, tự củng cố niềm tin cho chính bản thân mình.


2. Bốn câu đề từ có hai lần đồng nhất :Lần đầu nhà thơ đồng nhất “lòng ta ” với những “con tàu” ,lần thứ hai lại đồng nhất “tâm hồn ta ”với “TB”.Điều này có gì mâu thuẫn chăng?


+Khi đồng nhất tâm hồn với con tàu,sự đồng nhất ấy nhằm nhấn mạnh khát vọng to lớn,khả năng chiếm lĩnh hiện thực và sự mở rộng hồn thơ .Còn khi đồng nhất tâm hồn với TB ,là một cách hình tượng hoá kết quả sự trau luyện tâm hồn ,kết quả của quá trình hoà nhập vào nhân dân .

+Như vậy,con tàu là hiện thân của phương tiện ,của con đường vươn tới chân lí đời sống ,còn TB là hiện thân cho mục đích đã đạt được,cho tầm cao đã vươn tới.Hai hình ảnh có tác dụng khơi sâu niềm suy tưởng của nhà thơ ,đẩy niềm suy tưởng ấy đến tận cùng.
Bởi vậy cái điều tưởng chừng như nghịch lí khi tâm hồn đã hoá những con tàu lại cũng có thể là TB ấy lại nói lên một quy luật của tâm lí của đời sống tâm hồn con người,đó là cái sự thật của nội tâm dưới cái vẻ ngoài dường như vô lí kia .
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top