Tìm hiểu bài Độc Tiểu Thanh ký

Bút Nghiên

ButNghien.com
Tìm hiểu bài "Độc Tiểu Thanh ký" (Nguyễn Du)

Bài liên quan:

Tác giả Nguyễn Du

Thơ Nguyễn Du: Long thành cầm giả ca


I.ĐẶT VẤN ĐỀ:

1. Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX – không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện.

2. “Thanh Hiên thi tập” là những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con người – nạn nhân của chế độ phong kiến.

3. Trong đó, Đọc Tiểu Thanh ký là một trong những sáng tác đưọc nhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du và làm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo cao cả của nhà thơ.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

A. Định hướng phân tích:


1. Độc Tiểu Thanh ký có nghĩa là “độc tập Tiểu Thanh ký” của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ, chĩ còn lại một số bài thơ tập hợp trong “phần dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh cũng đã để lại niềm thuơng cảm sâu sắc cho Nguyễn Du.

2. Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.

B. Chi tiết:

1. Hai câu đề: Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu Thanh :

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

a) Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tưọng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vưòn hoa cạnh Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa. Nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ giữa “vườn hoa – gò hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đất đều dễ khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ở Truyện Kiều. Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dâng một nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.

b) Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn, như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ thư). Một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh 300 năm trước, câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn. Cách đọc ấy cũng nói lên được sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Không phải là tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽ thấm vào trong hồn nhà thơ.

2. Hai câu thực:

Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậm ngùi trong hai câu đề :

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

a) Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh anh (thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh.

b) Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân : son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn nhẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi ngưòi! Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.

3. Hai câu luận:

Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến :

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

a) Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du.

b) Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự cho mình cũng ở trong số những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã). Ở đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.

c) Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những ngưòi mắc “kỳ oan” đã đưọc bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.

4. Hai câu kết:

Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế :

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Ngưòi đời ai khóc Tố Như chăng)

a) Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mối hồ nghi khó giải tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du tìm đến để rửa những oan khiên bằng giọt nưóc mắt đồng cảm. Còn nhà thơ tự cảm thấy sự cô độc lẻ loi trong hiện tại. Câu hỏi người đời sau ẩn chứa một khát khao tìm gặp tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời. (Đó cũng là tâm trạng của Khuất Nguyên – “người đời say cả một mình ta tỉnh”, cách Nguyễn Du hai nghìn năm; của Đỗ Phủ, cách Nguyễn Du một nghìn năm : “Gian nan khổ hận phồn sương mấn”)

b) Nhà thơ tự thể hiện mình bằng tên chữ “Tố Như” không phải mong “lưu danh thiên cổ” mà chỉ là tâm sự của một nỗi lòng tha thiết với cuộc đời. Câu thơ còn là tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc ngưòi xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại một bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần của những ngưòi tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám của một xã hội rẻ rúng tài năng.

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:

1. Đã hơn hai trăm năm trôi qua, bài thơ của Nguyễn Du vẫn còn lưu giữ một tấm lòng với con người sâu sắc và chân thành. Đó là tình cảm không biên giới, vượt thời gian, xuất phát từ gốc rễ “thương người như thể thương thân” của dân tộc.

2. Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên tuổi Tố Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã đổi thay, nhiều niềm vui của dân tộc đang nhân lên trước cánh cửa vào thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du – nỗi buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần nhân bản dân tộc ấy :

Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

( Sưu tầm )
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
câu chuyện về nàng Tiểu Thanh này...ko biết mọi người đọc chưa.

Tiểu Thanh là vợ lẽ của Phùng sinh ở Hổ Lâm , quê ở Quảng Lăng . Vì cùng họ với chồng nên tránh nhắc tới họ, chỉ gọi tên chữ là Tiểu Thanh. Nàng bẩm sinh thông minh khác thường. Lúc mười tuổi, được một ni già truyền dạy Tâm kinh cho; chỉ đọc một vài lần đã hiểu rõ mọi điều, đọc thuộc cũng không sót một chữ. Ni già bảo: "Cô bé này trí tuệ phát triển sớm nhưng phúc mỏng, xin cho nhận làm đệ tử. Nếu không được thế, xin đừng cho nó biết chữ, may ra có thể sống được đến ba mươi tuổi". Người nhà cho là nói xằng và chế giễu ni già.

Mẹ Tiểu Thanh là một cô giáo tư thục nên nàng được theo học tập. Những người thường giao du đều là con nhà giàu sang nên nàng học được nhiều tài nghệ, tinh thông âm nhạc. Giang Đô là đất sinh ra nhiều gái đẹp, từng có thời các cô gái tinh anh và tài hoa tụ tập thưởng trà, đánh cờ, nhộn nhịp họp thành nhóm đông hoặc từng đôi một. Tiểu Thanh tuỳ cơ ứng biến, đối đáp trôi chảy, lúc nào cũng vượt ngoài dự liệu của mọi người nên ai cũng chỉ sợ không gặp được nàng. Dù thông thuộc phép tắc lễ nghi, nhưng vốn là người đã có phong tư hình dáng đẹp tuyệt vời, nàng vẫn thích trang điểm cho thật kiều diễm, tính trời cho thế mà !

Năm 16 tuổi, về làm thiếp của Phùng sinh. Chàng là một công tử hào phóng, ba hoa, ngây ngô, xốc nổi, kém phong độ. Vợ cả lại là người hay ghen hiếm thấy. Nàng luôn cố hạ mình song vẫn không giải nổi lòng hờn ghen.

Một hôm, theo vợ cả đi chơi núi Thiên Lam, bà ta hỏi nàng: "Ta nghe nói Tây Phương có nhiều Phật, sao người đời chỉ chuyên lễ bái Quan Thế Âm Bồ Tát?". Tiểu Thanh đáp: "Vì Bồ Tát từ bi". Bà ta biết là châm chọc mình, cười nói: "Ta cũng sẽ đối xử từ bi với nàng!". Bèn bảo Tiểu Thanh dời đến một biệt thự trên núi Cô Sơn và răn đe: "Không có lệnh ta thì dù chàng có gửi thư tới cũng không được cho mang vào!". Nàng nghĩ: "Mụ ấy đem ta đến chỗ hoang vắng này, tất sẽ bí mật dò la chỗ sơ suất của ta để kiếm chuyện bịa tội mà hãm hại ta đây!". Bởi vậy nàng luôn cố giữ mình cho kín kẽ.

Có lần bà cả ra ngoài du ngoạn, gọi Tiểu Thanh cùng lên thuyền. Hễ thấy các chàng trai ăn chơi cắp cung phóng ngựa ở trên hai con đê, là các cô gái dưới thuyền nhìn đông, ngó tây, chỉ trỏ nhảy nhót cười đùa. Riêng Tiểu Thanh vẫn thản nhiên ngồi im. Có một phu nhân thân thích với bà cả , tài đức vẹn toàn, thường đến chỗ Tiểu Thanh học đánh cờ, hết sức thương yêu Tiểu Thanh. Phu nhân dùng mấy cốc lớn chuốc rượu bà cả, nhân khi liếc thấy bà ta đã say mèm bèn thong thả bảo Tiểu Thanh: "Thuyền có lầu, nàng theo ta lên đó một lát". Lên lầu, nhìn hồi lâu ra phía xa, phu nhân vỗ nhẹ vào lưng Tiểu Thanh rồi nói: "Tuổi xuân quý lắm, chớ làm khổ mình! Chương Đài Liễu cũng có lúc còn biết tựa lầu hồng mà nhìn chàng trai họ Hàn cưỡi ngựa đi qua dưới lầu, sao nàng cứ giống như một ni cô quỳ trên chiếc nệm cỏ bồ, coi mọi vật như hư vô vậy?". Tiểu Thanh đáp: "Mũi kiếm của Giả Bình Chương đáng sợ lắm!". Phu nhân cười nói: "Nàng nhầm rồi! Kiếm của Bình Chương cùn, "Bình Chương đàn bà" mới ghê gớm!". Một chốc, phu nhân lại từ tốn khuyên bo: "Nàng vừa thông thuộc phép tắc lễ nghi, có nhiều tài nghệ, phong thái hình dung xinh đẹp thế kia, sao để cho thân mình rơi vào xứ sở của La Sát ? Ta tuy không phải là nữ hiệp sĩ, song cũng đủ sức cứu nàng khỏi lửa. Ta vừa nói đến chuyện Chương Đài Liễu, chẳng lẽ nàng không phải là người hiểu được lòng người khác sao? Chẳng lẽ thiên hạ lại thiếu những chàng trai họ Hàn sao? Vả lại, giả dụ bà ấy đối xử tử tế với nàng thì rốt cuộc nàng cũng chỉ làm con hầu suốt đời dâng rượu thịt cho lão tướng quân họ Đảng mà thôi!". Tiểu Thanh đáp: "Xin phu nhân đừng nói nữa! Lúc còn bé thiếp đã từng nằm mơ thấy mình tự tay bẻ một bông hoa, từng cánh của bông hoa đó theo gió tả tơi rơi xuống nước, số mệnh thiếp cũng chỉ như thế mà thôi! Ác nghiệp kiếp trước chưa hết, sao có thể nảy ra ý gì khác. Sổ nhân duyên chốn âm gian chẳng phi là "Ngọc Như ý" của thiếp, còn tạo ra một nỗi nhục nữa làm gì? Chỉ tổ khiến cho miệng chúng chế giễu mà thôi!". Phu nhân than thở: "Nàng nói cũng đúng, ta không ép nàng nữa. Song nàng vẫn phải bảo trọng. Nếu bà ta có nói năng ngọt ngào, cho nàng ăn uống tử tế, thì đó lại là điều càng đáng phi lo nghĩ. Sớm tối nàng có cần gì thì cứ nói với ta, chớ ngại". Đoạn hai người nhìn nhau, nước mắt đẫm áo. Lau nước mắt, hai người quay về chỗ cũ. Chốc lát, phu nhân cáo biệt. Cứ mỗi lần phu nhân kể chuyện Tiểu Thanh với bà con thân thích, không ai là không thở than đau xót.

Từ đó, đau thương uất ức, Tiểu Thanh thường viết một số bài thơ hoặc bài từ ngắn để kí thác tâm tình. Còn phu nhân thì theo chồng đi làm quan nơi xa. Ngày càng cảm thấy trống trải cô đơn, Tiểu Thanh đổ bệnh. Bà cả mời thầy thuốc đến chữa nhưng lại phái nô tì mang thuốc đến. Giả bộ cảm tạ, nô tì vừa đi khỏi, nàng liền hắt thuốc xuống đầu giường rồi cất tiếng than: "Dù chẳng thiết sống nữa, ta vẫn phải giữ cho thân trong sạch để về với Phật, làm gà chó của Lưu An , sao có thể bỏ mạng vì một chén thuốc độc được?". Bệnh Tiểu Thanh vẫn càng ngày càng nặng, không ăn uống được gì, mỗi ngày chỉ hớp được một chén nước lê. Nàng càng ra sức trang điểm, ăn mặc đẹp, thường quấn khăn ngồi nghiêng người trên giường. Có lần gọi ca kỹ tới vừa đàn tì bà vừa diễn xướng những ca khúc dân gian để tiêu khiển, mệt đến mức khi tỉnh khi mê, nàng vẫn không chịu sổ tóc nằm xuống.

Một hôm, bỗng nhiên Tiểu Thanh nói với u già: "Nhờ lão nói với anh chàng oan nghiệp mời đến cho ta một hoạ sĩ thật giỏi". Hoạ sĩ đến, nàng nhờ ông ta vẽ cho một bức tranh chân dung. Vẽ xong, Tiểu Thanh cầm gưng nhìn kỹ bóng mình rồi nói: "Đã giống hình dáng bên ngoài song chưa lột được thần. Hẵng tạm để đó đã". Lại vẽ một bức khác. Tiểu Thanh xem, nói: "Thần giống rồi song phong thái chưa sinh động. Thế là vì khi thấy thiếp, tay mắt ngài quá đoan trang rồi mọi thao tác trở nên cứng nhắc, câu nệ. Hẵng tạm để đó đã". Tiểu Thanh bảo hoạ sĩ cầm bút đứng cạnh, còn nàng thì cùng với u già chỉ chỉ trỏ trỏ, nhìn nhau nói cười, khi thì quạt lò pha trà, chọn lựa sách, khi thì pha các màu xanh đỏ... cho hoạ sĩ để khi gợi sự thể nghiệm và kích động trí tưởng tượng của ông ta. Hồi lâu mới bảo hoạ sĩ vẽ. Tranh vẽ xong, truyền được hết thần thái diễm lệ, mảnh mai của nàng. Tiểu Thanh cười nói: "Được rồi đấy!".

Hoạ sĩ ra về, nàng liền đem bức tranh đặt lên trước một chiếc giường hẹp, thắp hưng, bày lê, rót rượu rồi khấn rằng: "Tiểu Thanh ơi Tiểu Thanh! Chả lẽ duyên phận ngươi lại ở chốn này sao?". Đoạn phục xuống án mà khóc, lệ rơi tầm tã; khóc gào lên một thôi rồi tắt thở. Bấy giờ là năm Nhâm Tí đời Vạn Lịch , Tiểu Thanh mới 18 tuổi!

Thương thay! Người đẹp hơn ngọc song mệnh mỏng hơn mây, như nhuỵ hoa quỳnh , như đoá hoa đàm thoáng hiện một chốc trong cõi nhân gian. Muốn cầu cho nàng được sống lại như Đỗ Lệ Nương bên cạnh đình Mẫu Đơn nhưng nào có được!

Chiều tối, người chồng mới hốt hoảng chạy tới. Vén màn, thấy vẻ mặt nàng vẫn kiều diễm thanh tú siêu phàm, nàng vẫn rực rỡ vẻ đẹp đẽ như lúc còn chưa mắc bệnh, người chồng bỗng dẫm chân gào lên một tiếng dài rồi thổ ra hơn một thăng huyết. Lục tìm hồi lâu, thấy được một quyển thơ, một bức tranh chân dung để lại và một bức thư gửi cho phu nhân nào đó. Mở thư xem, lời lẽ trần tình cực kỳ ai oán, cuối thư có một bài thơ tuyệt cú. Người chồng lại gào lên đau đớn: "Ta đã phụ nàng! Ta đã phụ nàng!".

Hay tin, vợ cả nổi trận lôi đình, chạy đến đòi bức tranh. Người chồng giấu bức tranh thứ ba mà đưa bức thứ nhất để đánh tráo. Người vợ cả liền đem đốt đi. Bà ta lại hạch tập thơ, khi lấy được, cũng đem đốt nốt. Thế là từ nay khúc Quảng Lăng tán không bao giờ còn vang lên nữa! Đau xót thay! Ngọn lửa Sở rừng rực, sao không biết dùng mưu của Kỉ Tín để đánh lừa! Thế thì tội không phải ở vợ mà là ở chồng rồi!

Lại lục tìm bản thảo nhưng thất lạc hết. May mà lúc lâm chung, Tiểu Thanh có tặng mấy thứ trang sức cài đầu cho cô gái con u già, hai trang giấy dùng để lót dưới đồ trang sức chính là bản di cảo thơ của nàng. Có 9 bài tuyệt cú, một bài cổ thi, một bài từ, một bài tuyệt cú kèm theo thư gửi cho phu nhân nào đó, tổng cộng là 12 bài thơ và từ.

Bức thư gửi cho phu nhân nào đó viết rằng: "Huyền Huyền cúi đầu, xin dốc cả bầu tâm huyết gửi tới dưới ghế phu nhân:

Từ lúc dự tiệc ở ngoài thành để tiễn phu nhân đi tới miền quan ải tới nay, thiếp và phu nhân xa cách nhau như kẻ trên trời, người dưới đất. Nơi cửa quan, lúc thời tiết đẹp, hẳn phu nhân cũng không đến nỗi cô đơn. Tình cảm thiếp luôn tha thiết hướng về phu nhân, ngước trông như luôn thấy đám mây từ bi trước mặt; được phu nhân chia nồng sẻ lạnh, thiếp thấy như đang nép dưới gối bố mẹ. Dù thân phân thành trăm mảnh cũng chưa đủ đền đáp.

Em và dì đều khoẻ cả chứ? Nhớ đêm nguyên tiêu năm nào ở lầu phía nam, xem đèn hoa, cười đùa, dì chỉ vào hình một cô gái đứng tựa lan can trên bức bình phong rồi nói: "Con yêu tinh xinh đẹp dễ thương kia đứng một mình trước gió nhìn ra phía xa, bàng hoàng như dang có tâm tư gì, có lẽ chính là Tiểu Thanh đó chăng?". Thiếp cười rồi cũng chỉ vào hình một người hầu gái và bảo: "Cô a hoàn kháu khỉnh đang cầm cây phất trần lén đứng cạnh chàng trai kia chả phải cũng giống cô em đấy chăng?". Hôm đó, mọi người tranh nhau giật giải trong các trò chơi, vui vẻ lu bù thâu đêm suốt sáng, ai ngờ gió thổi mây tan, mỗi người một phương như ngày nay!

Chiếc thuyền xưa đã đưa phu nhân vượt sông lên Bắc, chỉ còn một cành cây gãy ở lầu Nam! Tiếng gầm gừ như chó sủa, tiếng gào rống như thú kêu, một ngày phải nghe không biết đến bao lần! Dần dà rồi cũng có những lời nói nửa vời, úp mở đúng như phu nhân đã dự liệu và chỉ giáo. Kẻ hèn mọn trộm nghĩ không bao giờ có thể thế được. Làm gì có tấm lòng Bồ Tát ở bọn đồ tể, có chuyện chồn đói thương chuột cùng sào. Họ nói thế chỉ là muốn đem thiếp "đổi ngựa ", không thì cũng đưa thiếp ra bán rượu ở quầy để làm nhục đó thôi! Bỏ ra đi thì thân thiếp sẽ như cánh hoa mỏng manh vật vờ trước gió, ở lại thì như chồi lan u sầu chìm đắm trong sương. "Nhân" là giống lan quý mà "quả" lại là cánh hoa mỏng manh, nghiệp báo này sao mà sâu nặng! Cắt tóc nương nhờ cửa Phật thì phải bỏ hết mọi thứ điểm trang, phải tẩy sạch mọi suy nghĩ trần tục, song với thiếp, chỉ cần một thoáng xúc động là những suy nghĩ tình tứ, những lời nói văn hoa sẽ ào tới ngay. E rằng Phật tính dù đã phôi thai song tình đời khó dứt. Đó quả cũng là điều không dễ thổ lộ!

Chưa nói chuyện mỗi độ thu buồn, tiếng địch từ xa vọng tới, nghe tiếng mưa rơi bên ngọn đèn cô quạnh, mưa tạnh địch ngừng, lại nghe tiếng thông reo nổi lên rền rĩ. Mặc áo lụa mỏng mà cảm thấy như làn da bị chèn ép, soi gương chẳng bao giờ thấy hình bóng khuôn mặt ráo khô, nước mắt sáng chiều đã dâng thành nước triều sớm tối. Mảnh thân gầy nay đã cơ hồ không thể chống chọi được nữa! Đờm sôi phổi cháy, nhìn thấy thức ăn là nôn oẹ. Tình ý rối bời, mừng giận khôn bề chế ngự. Mẹ già và các em ở cách phương trời, bặt vô âm tín. Than ôi! Đã không còn biết sống là lạc thú thì sao còn biết chết là đau thương? Đâu phải là không biết oán hận cuộc đời ngắn ngủi và muốn ở lại với đời thêm chút nữa? Song bẩm sinh đã quá thông minh, nhanh nhẹn, sắc sảo, bỉ sắc tư phong, xét về lí, làm sao có thể đôi bề trọn vẹn? Đã đành là thế và giờ hoá kiếp thành thần hồn của thiếp đã gần đến song thiếp cũng không nên lặng lẽ ra đi. Đâu phải cho đến giờ đời thiếp mới đắm chìm? Từ ngày kết tóc xe tơ, đã chỉ có đêm không ngày. Không khí thê lương ở chốn dạ đài cũng có gì khác đâu! Hà tất phi như Tử Ngọc biến thành khói, vợ Hàn Bằng biến thành bướm mới mới gọi là chết?

Sau này có quay xe về Nam và dừng lại nghỉ ở Dương Châu, nếu mẹ già của thiếp được phu nhân hạ cố đến thăm hỏi và uý lạo, thì cũng như chính thiếp nhận được ân huệ của phu nhân vậy.

Dì Tần thật tội nghiệp, dám mong phu nhân luôn thương yêu chăm sóc cho. Những tặng phẩm quý giá ngày xưa, thiếp rất muốn được chôn theo cùng thiếp: áo thêu, trâm hoa quý báu... những thứ mà phu nhân, vị phúc tinh của thiếp, cho thiếp, có thể giúp thiếp vượt qua kiếp luân hồi, rửa sạch ác nghiệp. Dì Sáu qua đời trước, đang đợi thiếp; xuống đó, thiếp không lo thiếu bạn!

Cuối thư, xin dâng phu nhân một bài tứ tuyệt. Đây là tiếng kêu lâm li của con chim bé nhỏ. Tập thơ và bức tranh chân dung của thiếp, thiếp nhờ má Trần cất giấu kỹ, khi có dịp sẽ gửi ngay đến phu nhân. Song tấm thân đã không thể bảo toàn thì làm gì những thứ vặt vãnh, lạnh lùng còn lại ấy?

Nếu có bao giờ phu nhân đi thuyền ven đê, lên núi Cô Sơn thưởng mai, hãy mở tung cửa lầu phía tây, hãy ngồi lên chiếc giường phủ bóng cây xanh của thiếp, phu nhân sẽ mường tượng thấy hình bóng của thiếp, nghe thấy tiếng nói của thiếp y như lúc bình sinh, sẽ thấy bức màn trống trải bay dập dờn lặng lẽ. Đây là thực chăng? hư chăng? Con người thiếp còn lởn vởn đâu đây chăng? Than ôi! Phu nhân ơi! Âm dương ngăn cách, từ nay vĩnh biệt. Cổ tay trắng muốt, nhan sắc đẹp như ngọc, thế mà nay sắp hoá thành bụi đất! Nghĩ đến đó, khóc than sao cho xiết!

Huyền Huyền xin cúi đầu, cúi đầu lạy tạ.

Bài tuyệt cú kèm theo ở cuối bức thư nói rằng: Bách kết hồi trường tả lệ ngân, Trùng lai duy hữu cựu chu môn. Tịch dương nhất phiến đào hoa ảnh, Tri thị đình đình sảnh nữ hồn? (Tạm dịch: Thắt ruột viết dòng thả đẫm lệ, Ai về chỉ thấy cửa son xưa! Bóng nhỏ cành đào nương nắng xế, Hay hồn ta đó đứng chơ vơ? )

Có người nào đó bà con với Phùng sinh gom những bài thơ của Tiểu Thanh lại thành tập rồi đưa in, đặt tên sách là Phần dư.

[trong tất cả các nhà thơ VN mình thích Nguyễn Du nhất]
 
tui thấy thương nàng Tiểu Thanh quá sinh vào nhầm nơi nhầm chỗ nhầm thời gian, phải chi dầu thai muôn hơn một chút là tốt rùi
 
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Ngày nay ít ai thuộc Kiều nữa nhưng các giá trị vẫn còn nguyên, đó là tính triết lí về thế thái nhân tình, ứng xử trong xã hội, gia đình, người với người.

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top