Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Tiểu thuyết Bút Nghiên - Chu Thiên (phần 3)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 181828" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 18px">Butnghien .com tiếp tục chia sẻ với các bạn phần 3 chương 6 của tiểu thuyết <strong>" Bút Nghiên"</strong>Của tác giả chu Thiên </span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">[ATTACH=full]3341[/ATTACH]</span></p><p><span style="font-size: 18px">CHƯƠNG 6</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vầng đông đã đỏ rực chiếu át cả ánh sáng úa vàng của mấy cây đinh liệu cháy gần hết. Học trò ai nấy đóng lều đã xong, trông san sát liền nhau như bát úp. Tâm áng chừng nguyên vi Hữu này cũng đến non hai nghìn. Chàng kinh khủng nhận thấy số thí sinh nhiều nhường vậy, mà số đỗ vẻn vẹn chỉ có vài ba chục Cử Nhân và non trăm Tú Tài. Cuộc đấu chọi thật là gớm ghê thay!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Giời sáng rõ. Trên chòi canh nổi một hồi trống thật dài. Viên Đề Điệu Giám Trường và ba viên thuộc hạ, mỗi người vào mỗi vi đem giấy đầu bài dán vào tấm bảng phên nứa cắm ở ngay lối vào, các thí sinh hấp tấp đến xem, đứng vòng trong, vòng ngoài, đầu ngửng lên cúi xuống luôn, để trông và để chép. Tất cả có bẩy đề mục kinh nghĩa. Tâm chép xong về lều đọc lại và xét đến căn nguyên các đề. Chàng lẩm bẩm một mình:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Một đề ở Dịch này, một ở Thi này, một ở Thư, một ở Xuân Thu, một ở Lễ, một ở Trung Dung, một ở Luận Ngữ. Ta nhớ Thư, Lễ, Trung Dung hơn, ta chọn ba đề ấy làm trước đã, xong ba bài ấy hẵng hay!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vì cái lệ ở trường thi, ít nhất thí sinh phải làm lấy ba bài, nên Tâm phải vội vàng giở bút mực giấy ra tì lên tráp nháp nhanh thoăn thoắt. Lần đầu vào trường, chàng chỉ sợ ngoại hàm. Nháp xong chàng đọc lại, chữa lại rất chải chuốt. Đoạn chàng lấy quyển ra viết vào, chàng viết chân phương nắn nót. Viết đến dòng cuối trang đầu, trông thấy dấu giáp phùng màu son đỏ chói. Chàng mới sực nhớ đến nhời Cụ Nghè và ông Đồ dặn, chàng giật mình đánh thót một cái, ngồi nhỏm dậy đọc lại dòng trên. Đọc xong, chàng tươi nét mặt, nói một mình:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- May quá, không hỏng chữ nào. Tí nữa quên mất mình cứ viết bừa thì bỏ đời! Giờ mình phải cẩn thận, quanh bốn bên dấu giáp phùng không được đồ (xóa), di (sót), câu (móc), cải (chữa) chữ nào cả!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chàng lại nằm xuống viết. Mỗi lúc đến gần dấu giáp phùng chàng lại ngồi dậy đọc, rồi mới lại viết, chỉ sợ nhầm một tí là phạm trường quy, lại phải cánh quyển thì rầy rà. Qua được cái dấu giáp phùng, chàng viết luôn một mạch đến giữa trang. Thấy chung quanh, người ta tới tấp đi lại, chàng sực nhớ đến đi lấy ‘’nhật trung’’. Dấu này là một dấu con của quan trường, chứng tỏ rằng bài làm ở trong trường, cốt đểphòng bị những kẻ thông với trường quan biết trước đầu bài, viết sẵn ở nhà đem vào nộp. Chàng vội vác quyển lên Nhà Thập Đạo. Ở đấy đã tấp nập những người, chàng đưa quyển cho lại phòng, rồi phải đứng chờ, vì có những chồng quyển đưa trước chưa đóng kịp. Một dịp bọn học trò quen nhau thì thầm với nhau, bảo nhau. Chàng đang thơ thẩn ngắm lớp ngói ống của Nhà Thập Đạo, bỗng có tiếng gọi:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Ai là Nguyễn Đức Tâm?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Dạ. Tôi đây!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chàng quay lại, người lại phòng cầm quyển đưa cho, chàng nhận lấy, đem về, cắm cúi viết được mấy trang rồi đặt bút xuống, ngồi dậy vươn vai, duỗi thẳng hai tay ra, miệng nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Ăn đã!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chàng thắp bút, mở tráp ra, lấy nắm cơm và mọi thức ăn, Ăn xong, dốc bầu lên tu ực ực một mạch, rồi để xuống, miệng hà một cái. Chàng đổ ít nước vào nghiên mài mực, đoạn mở bút ra viết. Mỗi lúc sang trang, chàng đều ngồi lên đọc lại. Làm xong cả quyển, chàng ngồi rung đùi, mắt chăm chú, miệng khẽ khẽ bình. Đọc đi, đọc lại bốn lượt, chàng đếm xem có mấy chỗ xóa, sót, móc, chữa, để chua vào dưới chữ ‘’Cộng quyển nội’’ ở cuối bài. Xong đâu đấy, chàng vuốt thẳng quyển bài, gấp lại, thu dọn các đồ đạc vào tráp rồi mang quyển lên nộp ở Nhà Thập Đạo. Một người lại phòng cầm lấy quyển, chụp cái dấu nhỏ, dấu đóng nhật trung lúc trước vào cuối bài, rồi bỏ vào hòm trước mặt hai Quan Đề Tuyển. Quyển nào không có dấu ấy thì bị coi như là ngoại hàm, vì một khi thi xong, Quan Đề Tuyển sẽ thu dấu bỏ vào hòm niêm phong lại, đến kỳ sau mới lại lấy ra. Tâm đứng trông rõ vở mình đóng dấu bỏ hòm rồi, mới trở xuống dỡ lều xách chõng, đeo tráp, đeo ống quyển lếch thếch qua Nhà Thập Đạo thẳng lối tiền môn đi ra. Ông Đồ, ông Lý đã đứng ở cổng đón. Thấy Tâm ra, ông Lý chạy sấn ngay vào chỗ lính canh đỡ lấy lều, chõng và tráp. Còn ông Đồ, việc đầu tiên là ông đỡ ống quyển lấy giấy ráp ra xem. Đọc đến đâu, ông gật gù đến đấy. Xem xong, ông cuộn giấy bỏ vào ống, rồi thích chí nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- May ra được vào!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vừa lúc ấy, trống cái trên chòi canh thủng thẳng buông những tiếng ngân nga oai vệ. Tâm hớn hở nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- May quá tí nữa con ngoại hàm.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ông Đồ nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Còn kịp chán. Nghe thấy tiếng trống, mới đọc lại quyển cũng đủ thì giờ đếm và chua đồ, di, câu, cải, rồi kịp đem nộp. Dứt hồi trống mới hết hạn kia đấy. Nhỡ có gặp kỳ nào như thế, đừng cuống, cứ bình tĩnh.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Rồi ba người cùng về nhà trọ.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Mới độ tảng sáng ngày mười một, ba hồi trống thánh thốt buông tan vào không khí lạnh buốt báo cho sĩ tử xa gần biết đã có bảng kỳ nhì. Tức thời các nơi người ta đều đổ dồn về trường thi, đứng túm tụm ở các cửa vi tranh nhau nhìn vào cái phên nứa dán giấy chi chít những tên. Ông Đồ cũng vừa dậy, rửa mặt xong, ông vội vàng đi xem bảng, dặn Tâm không phải đi:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Con ở nhà, ra chen không được đâu!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nhưng Tâm cũng cứ đi. Ra đến nơi, lách vào vi Hữu, không thấy tên, chàng nóng bừng cả mặt, vội thích thục mạng chen ra chạy đến cửa vi Ất. Ở bảng vi Ất cũng không có, như điên cuồng chàng chạy sang cửa vi Giáp. Ở đây chàng đọc được rõ ràng dòng chữ: ‘’Nguyễn Đức Tâm, Nam Định, Thịnh Hậu xã’’, Chàng thở nhẹ nhàng, mừng quá. Lách ra vừa gặp ông Đồ đang chen vào, Tâm vội nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Con đã tưởng hỏng. Con cứ ngỡ thi ở vi nào thì tên ở bảng vi ấy. Con đỗ thứ ba mươi cậu ạ.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Không, bảng này chỉ kể người đỗ thôi, không kể thứ tự. Đến bảng giải ngạch mới có hơn kém. Khi đủ số được vào rồi, người ta lại gắp thăm chia vi rồi yết bảng.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Quá nửa đêm hôm ấy, Tâm lại mang lều, chiếu, chõng, tráp và mọi thứ cần dùng xuống trường. Học trò đã tụ tập đông ở cửa trường, chỉ còn độ hơn nghìn người, nên không được náo nhiệt lắm như hôm nọ. Hơn nữa, trăng đêm mười một hãy còn vằng vặc chiếu xuống át cả ánh sáng mấy cây đinh liệu.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Số học trò bớt đi, nên việc vào trường dễ dàng chóng vánh, chừng cuối giờ Dần, đâu vào đấy cả. Các cửa trường lại đóng im ỉm. Một lúc sau, một hồi trống thật dài báo cho mọi người biết bảng đề mục đã yết. Kỳ này có một bài thơ, một bài phú. Tâm chỉ việc đi lên đọc nhẩm thuộc mấy câu đề mục ấy rồi về viết ra. Nháp xong cả hai bài Tâm viết vào quyển. Qua dấu giáp phùng, qua dấu nhật trung, đều ổn thỏa cả. Viết luôn được vài trang, chàng ngồi dậy mài thêm mực. Đến lúc nằm xuống viết, chàng giật mình thấy một vết mực lăn dài trên trương đầu quyển thi. Chàng cuống lên, vì thế ngay vào trang cung khai tam đại và giáp phùng, cần phải cánh quyển ngay mới kịp. Chàng ngồi thừ ra một lúc, mới tĩnh tâm lại được, mở tráp lấy giấy, dùi và lề ra đóng lại quyển mới, viết nắn nót lại dòng tên, quán chỉ và dòng cung khai tam đại. Chàng đọc lại không sót chữ nào, rồi đem quyển lên Nhà Thập Đạo nộp quyển cũ và xin dấu quyển mới. Đem quyển về, chàng nằm xuống viết, bụng bảo dạ:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Lần này mình phải cẩn thận đây, cẩn thận chỗ giáp phùng, nhật trung, không có lại cánh quyển lượt nữa thì chết bỏ mẹ!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Sực nhớ ra điều gì, chàng lẩm bẩm:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Hay là có vị nào oán ghét điều gì, xin ngài buông tha, con cắn rơm cắn cỏ lạy ngài, con người trần mắt thịt, không thể thấu rõ được. Thôi thì tội vạ lây, xin ngài nguôi cơn giận mà phóng xá cho con. Oan tình thế nào con xin ngài về đồng hay báo mộng cho biết, con sẽ xin tuân. Nay gọi là tâm thành có chút kim ngân bạc lễ, xin bái tiến ngài...</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Khấn xong, chàng mở tráp lấy mấy trăm vàng giấy ra. Thầy lều bên cạnh có cái mồi rơm của một ông Đồ nghiện thuốc lào, chàng liền vặn cái mồi giấy sang xin ít lửa về hóa. Chàng thổi phù phù mãi ngọn lửa mới bốc lên, bén vào mấy trăm vàng cháy bùng bùng bay ra một làn khói lam lan tỏa.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Đến mười chín ra xem bảng, Tâm lại được vào. Kỳ này có hai bài văn sách. Chép xong đề mục, vừa gần hết một tờ, chàng đọc lại, rồi nói một mình:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Chà! Dài quá nhỉ, kim văn những năm dòng kia, Hỏi gì mà hỏi lắm thế!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chàng về lều làm bài. Chàng sửa đi sửa lại cho thật gọn thật chín. Viết vào quyển được nửa bài rồi, vì kỳ này không phải viết đầu bài vào quyển thi, chàng mới nghỉ ăn cơm. Ăn xong, đọc lại bài, chàng thấy thiếu nghĩa một câu, chàng quặc toan chữa vào sáu chữ nữa. Nhưng đếm lại những chỗ móc, xóa, chữa đã bẩy chỗ rồi, chàng đành tháo lề lấy tờ giấy ấy ra, thay tờ khác vào viết lại. Vì trường chỉ cho phép móc, mất, xóa, chữa có mười chỗ thôi. Làm xong bài đem nộp, chàng lấy làm khoan khoái lắm. Cả ba kỳ, chàng không thấy kỳ nào văn trôi chảy, viết đẹp đẽ như kỳ này, Chàng đã chắc mẩm được vào, chàng nghĩ thầm:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Ba kỳ này mà trôi, thì Phúc Hạch cứ ăn đứt đi.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nghĩ vậy, nhưng chàng vẫn kín đáo không dám thố lộ cho ai hay. Ông Đồ về từ hôm mười ba đến hôm nay lại ra, có cả ông Chánh Tổng Mỹ Lương cùng đi, đều ra đón. Trông thấy ông Chánh, Tâm nhớ ngay đến Mai, cô gái xinh đẹp như Xuân đã đính ước với chàng. Chàng sung sướng nghĩ đến cái tiếng ‘’cô Cử’’ gán vào cho Mai thật là xứng đáng. Chàng sung sướng tưởng đến hạnh phúc mai sau. Ông Đồ hỏi đến tờ nháp, Tâm mở ống quyển ra đưa. Ông Đồ cầm xem xong, rồi đưa ông Chánh.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Được lắm, bài này tôi thấy xuất sắc hơn cả các bài của cháu làm từ trước đến giờ.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ông Chánh xem qua cả quyển văn, rồi đưa lại cho ông Đồ và hỏi:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Như vậy thì thế nào cũng vào được Phúc Hạch.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Bẩm cái đó còn nhờ phúc phận.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Đến sáng sớm ngày hai mươi nhăm, Tâm hí hửng đi ra xem bảng. Số học trò vào kỳ đệ tam chỉ còn độ bốn trăm người, nên trước cổng tiền hôm nay treo bảng Phúc Hạch, kể cả những người đi xem hộ cũng thưa thớt như không, chẳng thấm vào đâu với mấy kỳ đầu. Tâm chen vào tận nơi nhìn qua một lượt, không thấy tên mình chàng đã nóng cả ruột, sợ cuống lên. Chàng chăm chú đọc cả lại mào đầu:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">‘’Khâm Sai Hương thi Nam Định, trường quan vi yết nhập Phúc Hạch thí sinh danh sách, tính danh, niên canh, quán chỉ, liệt kê vu hậu’’</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chàng đọc lần lượt từng tên cho đến hết, không thấy tên mình, mặt sị ra muốn khóc. Chàng không hiểu gì cả, ù té chạy rẽ vượt vòng người ra ngoài. Có người thấy thế hỏi:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Này! Này! Cậu bé trượt phải không? Hoài nhỉ!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chàng ngoảnh lại nhăn mặt, nhe răng, gượng cười không đáp. Bây giờ chàng mới biết câu thơ cổ kia là đúng. Ý chừng anh chàng nào trước kia cũng bị tên đề sau bảng, nên mới thốt ra được hai câu thơ ý vị:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Khấp như thiếu nữ vu quy nhật</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tiểu tự thư sinh lạc đệ thi!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">(Cười như chàng trẻ hỏng thi</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Khóc như cô gái mới đi lấy chồng)</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Chột dạ, Tâm chạy vào xem cái bảng con gần đấy, biên tên những người mắc tội phạm huý. Không thấy tên mình, chàng mới yên tâm. Chàng đi lang thang vô định, không muốn về nhà trọ. Ông Đồ và ông Lý, sau khi xem bảng không thấy tên và cũng không thấy Tâm về, liền đâm bổ đi tìm khắp chỗ. Tìm kiếm mãi, bắt gặp chàng đương vơ vẩn ở chỗ làng An Trạch, ông Đồ dịu dàng khuyên:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Đi về con, khoa này không đổ để dành khoa sau, chứ đi đâu mà vội. Con nhà nho đỗ, trượt là thường, cũng như con nhà binh không thể do thua mà bàn luận anh hùng được! Con mới tí tuổi đầu, thi một khoa đã vào Tam trường, còn hơn cậu, gần hai thứ tóc, thi sáu bảy khoa mà mới chiếm được tam trường. Danh giá chán, con ạ. Thôi con đi về. Không ai dám cười con đâu!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tâm lẽo đẽo theo ông Đồ về. Nhưng trong lòng vẫn buồn dười dượi, đã chán nản với cái nợ khoa danh nó bắt người ta cắm cúi nhiều mà chưa chắc đã thu được phần thưởng mong mỏi. Ông Đồ ngẫm nghĩ hỏi:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Quái! Bài như thế mà hỏng nhỉ? Cứ như văn ấy không khiếm trang, khiếm tị, đáng lẽ mười phần đỗ cả mười, con nghĩ xem có khiếm đài chỗ nào không?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Không, con đã soát lại cẩn thận lắm.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">-...Hay con viết sai chỗ nào?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Không! Thầy ạ, con viết đúng cả...À, chữ ‘’Tất’’. Tất là rõ viết thế nào nhỉ?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thái trên, tâm dưới.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Chết rồi, con nghĩ quẩn mất, khổ quá, con đã viết như thế rồi, lúc đọc lại, con ngẩn người ra, bụng bảo dạ: ‘’chữ tất thì phải tất là ắt dưới chứ, sao lại tâm’’. Thế là con phẩy ngay một nét dài nữa.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thôi phải! Hỏng vì đấy rồi. Văn cử nhân, người ta chấm lựa lọc lắm, sai một nét là bị loại ngay.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Rồi tin ở số phận và phúc đức, ông Đồ ngậm ngùi thay cho đứa cháu thông minh, ông đổi sang chuyện khác, sau khi đã dặn Tâm đừng nói lại chuyện ấy với một người nào nữa, sợ người ta cười nhà mình kém phúc đức.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Về làng, mặc dầu vẫn được tiếng khen lao, chàng cũng không khỏi buồn. Chàng xin phép nhà đi ngao du thăm sơn thủy quanh vùng để mượn cảnh khuây sầu. Trước hết chàng xuống Mỹ Lương nói là thăm ông Đồ, nhưng kỳ thực là để gián tiếp thăm Mai. Ở đấy mấy hôm, không thấy bóng vía ông Chánh đâu, và thỉnh thoảng nghe tiếng cô Mai lào xào ở ngoài vườn, chàng vội thơ thẩn chạy ra hàng rào nhìn sang thì chỉ nhận được một cái nhìn nhanh như cắt của con người ngọc, cái nhìn không tha thiết mấy. Một hôm chàng sắp sửa ra về thì được tin đồn đến là ông Chánh đã bằng lòng gả Mai cho ông Cử Tân Khoa làng Hiếu Cổ gần đấy. Không tin, chàng săn đón hỏi cho được tên học trò ông Đồ, nhà ở ngay cổng ông Chánh. Tên này cứ thực khai y như vậy và còn nói thêm chỉ vài ngày nữa là ăn hỏi và sang trung tuần tháng chạp sẽ làm lễ vu quy.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tâm buồn nản hỏi một câu vớt vát:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Chậc! Sao ông ấy đổi ý chóng thế nhỉ? Đã biết ai hơn ai?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Ấy, ông ta bảo nhà cậu không có đất, học giỏi thế, văn bài lại làm hay cả, mà hỏng là tại giời, giời đã không cho đỗ, thì cầu thân với cậu cũng uổng!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Thật là một cái đấm, một cái đạp! Vừa thi trượt lại vừa mất vợ. Còn sự buồn chán nào bằng?Ông Đồ biết vậy, nên cố tìm lời khuyên giải:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thôi con ạ. Cần gì. Họ đã tiểu nhân không biết người, hám danh trục lợi trước mắt, hạng người ấy ta cũng chả nên tiếc. Con cứ cố tu thân luyện tính, sau này nên danh phận, chán vạn người đến cầu thân ngay đấy, vội gì. Bao giờ ra đường cái hết lốt chân đàn bà, thì mới lo, mới buồn chứ. Mình phải có gan chờ đợi. Biết đâu trong trần ai lại chả gặp người mắt xanh.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Nghe câu nói, Tâm cũng nguôi nguôi nỗi buồn nỗi tức. Từ đấy chàng chỉ phiêu đãng đi chơi, lui tới những nơi đại gia văn tự, giao du cho thêm rộng kiến thức, ngâm vịnh để tiêu khiển qua ngày. Tết về ở nhà một dạo, chàng lại ra đi, còn ba năm nữa mới lại đến khoa thi, chàng chưa cần học vội.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Một hôm, chàng nghe tin ở miền Thanh Oai, Hà Nội, có một đại phú gia có hai cô gái kén chồng. Hai cô sấp sỉ đôi tám xuân xanh, lại có theo đòi nghiên bút, nên chỉ rắp danh lấy chồng hay chữ, không phân biệt sang hèn. Ông bố chỉ có hai con gái nên cũng chiều con lắm, trong lòng mong mỏi kén cho được rể hiền. Rõ được đích xác, chàng mới lần mò đến hỏi thăm vào tận nơi, nói rõ ý định của mình. Ông cụ hoan hỉ mời chàng lên nhà khách. Ở đấy đã có hai thanh niên anh tuấn đang ngồi nói chuyện, Ông cụ giới thiệu với chàng:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Đây là hai Quan Cử Tân Khoa Trường Hà, người bên Bắc Ninh.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Hai vị kia chào lại bằng một vẻ kiêu ngạo rõ rệt. Qua một tuần trầu nước, ông cụ thong thả đĩnh đạc nói đến chủ ý của ông:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Hôm nay thật là một ngày đại hạnh cho tệ xá, bỉ phu được tiếp cả ba vị danh sĩ cùng đến với một mục đích. Bỉ phu không may chỉ sinh được hai tiện nữ ngu dại, cũng dốc lòng mong gặp khách đông sàng để con trẻ về sau được nhờ nơi bóng cả. Nay ba vị quá thương mà ngẫu nhiên thành cuộc họp này. Khốn nỗi, bỉ phu chỉ có hai cháu bé, thật tình không biết khu xử thế nào cho phải lẽ. Xin ba vị định hộ.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Hai ông cử đồng thanh thưa, có ý đẩy Tâm ra ngoài:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Bẩm xin tùy lượng cụ, lũ tiểu sinh không dám.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Đã vậy bỉ phu xin xếp thế này cho công bằng. Cả ba vị đây, bỉ phu không biết thế nào là hơn kém, xin ra một câu đối ai đối được trước hay hơn, trội hơn, bỉ phu xin dâng cả hai tiện nữ.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ba người đều ưng thuận. Ông cụ ngửa mặt lên giời một lúc rồi quay xuống trông ba người đọc:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Ba sĩ ngồi một ghế đội Đức Đường Nghiêu (Đường Nghiêu là một vị vua giỏi đời trước. Chữ Nghiêu có ba chữ sĩ trên chữ kỷ là ghế).</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Mọi người đều đọc lại vế ra, ngồi ngẫm nghĩ. Hai ông Cử xem chừng băn khoăn lắm. Tâm lắp bắp xin phép đối. Ông Cụ nhũn nhặn nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thầy thong thả để nhường hai Quan Cử đã.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thế cụ không kỳ ai đối trước à?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Có chứ! Vậy thầy cứ đọc.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tâm ung dung đọc:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Một bách sách hai cung đáng tài Lý Bật (Lý Bật là vị tướng giỏi đời Lý Đường, được phong tước Vương, ngang với Quách Tử Nghi. Chữ Bật có một chữ bách ở giữa, hai chữ cung hai bên).</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Ông cụ gật gù khen:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Hay lắm. Trội lắm. Quân tử nhất ngôn, bỉ phu xin công nhận câu đối của thầy khóa Nam Hạ, vậy xin hai quan miễn đối!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Hai ông cử vừa bẽn, vừa tức hầm hầm nổi giận ra về. Ông cụ cho gọi hai cô con gái ra xem mặt vị thư sinh trẻ tuổi. Hai cô đã nấp sau rèm nghe trộm từ trước, bấy giờ mới yểu điệu kiêu hãnh bước ra. Hai chị em hơn nhau có một tuổi, trông suýt nhau đều có một vẻ đẹp nghiêm trang chải chuốt, tuy về tiều tiết có nhiều chỗ khác nhau. Tâm đáp lại lời chào thỏ thẻ của hai cô, rồi ngây ngất nhìn hồi lâu không chán. Chàng sực tỉnh khi nghe có tiếng cô chị nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thưa tiên sinh, tài mẫn tiệp của tiên sinh, chúng em đã được nghiêm đường cho biết, chúng em rất lấy làm hân hạnh được thừa tiếp tiên sinh đây. Chúng em phận đàn bà con gái hèn mọn ở nơi quê mùa này, không biết gì về văn tự, vậy xin có vế câu đối nôm na nhờ tiên sinh đối hộ!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tâm sửng sốt hỏi:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Lại đối nữa kia à? Nhưng đối được thì thế nào?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Bẩm cái đó tùy ý tiên sinh!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Vâng, xin quý nương đọc!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Vế đối thế này ạ: ‘’Cô gái cầu Cậy, má đỏ hồng hổng chỉ muốn lấy chồng để mà trông cậy’’</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tâm ứng khẩu nói:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Tưởng gì chứ thế thì để tôi xin đối: ‘’Cậu cả làng Mây da đen mai mái, vớ được con gái, hát tràn cung mây’’</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Kể cũng được, hay thì không hay lắm. Tiên sinh nói vậy thì biết vậy chứ chúng em biết làng Mây ở đâu!</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Chuyện, thế tôi biết cầu Cậy ở đâu! Các cô muốn rõ làng Mây thì đi về với tôi.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Cô em bấy giờ mới nói thay cô chị:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thôi, cũng cho là được. Nhưng em xin tiên sinh đối cho vế này nữa, nếu được mới cho là thành.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thành cái gì kia?</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Thành...thành gì cũng được. Đây em xin đọc: ‘’Vốn dòng Thi Lễ, đôi tám Xuân Thu, gặp khách Thư sinh, đem lòng dục dịch...(lấy chữ tên năm Kinh là Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu).</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Cũng dễ.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Vâng dễ, xin tiên sinh đối cho.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Tôi xin đối: ‘’Đệ tử Trương Chu, mười năm Khổng Mạnh, thấy nàng nhan sắc nên phải thưa trình’’</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Cả hai đều trông nhau mỉm cười, rồi quay lại nói với Tâm:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Chúng em xin chịu tài tiên sinh.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Vừa lúc ấy ông cụ ở trong nhà lại giở ra. Ông nghiêm trang ngồi vào ghế vồn vã nói với chàng:</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">- Hai tiện nữ đã phục thầy, vậy tôi lấy làm sung sướng nhận lời thầy nói trước. Thầy nên về nói lại với nhà, tôi cho làm lễ thành hôn ngay cho thầy tin. Còn việc học của thầy đang kỳ niên thiếu không nên trễ nải. Thầy phải xa hẳn bọn nhi nữ để học hành thành danh thành tài, lúc ấy sum họp chưa muộn.</span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Tâm vui vẻ vâng lời. Ở đây ít lâu quen cảnh quen người, chàng mới trở về cố hương, trong lòng đầy lạc thú, đầy hăng hái. </span></p><p></p><p></p><p></p><p><strong><span style="font-size: 18px">Đọc tiếp </span></strong><a href="https://vnkienthuc.com/threads/but-nghien-phan-3-chuong-7.79824/" target="_blank"><strong><span style="font-size: 18px">PHẦN III - CHƯƠNG 7</span></strong></a></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 181828, member: 288054"] [SIZE=5]Butnghien .com tiếp tục chia sẻ với các bạn phần 3 chương 6 của tiểu thuyết [B]" Bút Nghiên"[/B]Của tác giả chu Thiên [/SIZE] [SIZE=5][ATTACH=full]3341._xfImport[/ATTACH] CHƯƠNG 6[/SIZE] [SIZE=5]Vầng đông đã đỏ rực chiếu át cả ánh sáng úa vàng của mấy cây đinh liệu cháy gần hết. Học trò ai nấy đóng lều đã xong, trông san sát liền nhau như bát úp. Tâm áng chừng nguyên vi Hữu này cũng đến non hai nghìn. Chàng kinh khủng nhận thấy số thí sinh nhiều nhường vậy, mà số đỗ vẻn vẹn chỉ có vài ba chục Cử Nhân và non trăm Tú Tài. Cuộc đấu chọi thật là gớm ghê thay![/SIZE] [SIZE=5]Giời sáng rõ. Trên chòi canh nổi một hồi trống thật dài. Viên Đề Điệu Giám Trường và ba viên thuộc hạ, mỗi người vào mỗi vi đem giấy đầu bài dán vào tấm bảng phên nứa cắm ở ngay lối vào, các thí sinh hấp tấp đến xem, đứng vòng trong, vòng ngoài, đầu ngửng lên cúi xuống luôn, để trông và để chép. Tất cả có bẩy đề mục kinh nghĩa. Tâm chép xong về lều đọc lại và xét đến căn nguyên các đề. Chàng lẩm bẩm một mình:[/SIZE] [SIZE=5]- Một đề ở Dịch này, một ở Thi này, một ở Thư, một ở Xuân Thu, một ở Lễ, một ở Trung Dung, một ở Luận Ngữ. Ta nhớ Thư, Lễ, Trung Dung hơn, ta chọn ba đề ấy làm trước đã, xong ba bài ấy hẵng hay![/SIZE] [SIZE=5]Vì cái lệ ở trường thi, ít nhất thí sinh phải làm lấy ba bài, nên Tâm phải vội vàng giở bút mực giấy ra tì lên tráp nháp nhanh thoăn thoắt. Lần đầu vào trường, chàng chỉ sợ ngoại hàm. Nháp xong chàng đọc lại, chữa lại rất chải chuốt. Đoạn chàng lấy quyển ra viết vào, chàng viết chân phương nắn nót. Viết đến dòng cuối trang đầu, trông thấy dấu giáp phùng màu son đỏ chói. Chàng mới sực nhớ đến nhời Cụ Nghè và ông Đồ dặn, chàng giật mình đánh thót một cái, ngồi nhỏm dậy đọc lại dòng trên. Đọc xong, chàng tươi nét mặt, nói một mình:[/SIZE] [SIZE=5]- May quá, không hỏng chữ nào. Tí nữa quên mất mình cứ viết bừa thì bỏ đời! Giờ mình phải cẩn thận, quanh bốn bên dấu giáp phùng không được đồ (xóa), di (sót), câu (móc), cải (chữa) chữ nào cả![/SIZE] [SIZE=5]Chàng lại nằm xuống viết. Mỗi lúc đến gần dấu giáp phùng chàng lại ngồi dậy đọc, rồi mới lại viết, chỉ sợ nhầm một tí là phạm trường quy, lại phải cánh quyển thì rầy rà. Qua được cái dấu giáp phùng, chàng viết luôn một mạch đến giữa trang. Thấy chung quanh, người ta tới tấp đi lại, chàng sực nhớ đến đi lấy ‘’nhật trung’’. Dấu này là một dấu con của quan trường, chứng tỏ rằng bài làm ở trong trường, cốt đểphòng bị những kẻ thông với trường quan biết trước đầu bài, viết sẵn ở nhà đem vào nộp. Chàng vội vác quyển lên Nhà Thập Đạo. Ở đấy đã tấp nập những người, chàng đưa quyển cho lại phòng, rồi phải đứng chờ, vì có những chồng quyển đưa trước chưa đóng kịp. Một dịp bọn học trò quen nhau thì thầm với nhau, bảo nhau. Chàng đang thơ thẩn ngắm lớp ngói ống của Nhà Thập Đạo, bỗng có tiếng gọi:[/SIZE] [SIZE=5]- Ai là Nguyễn Đức Tâm?[/SIZE] [SIZE=5]- Dạ. Tôi đây![/SIZE] [SIZE=5]Chàng quay lại, người lại phòng cầm quyển đưa cho, chàng nhận lấy, đem về, cắm cúi viết được mấy trang rồi đặt bút xuống, ngồi dậy vươn vai, duỗi thẳng hai tay ra, miệng nói:[/SIZE] [SIZE=5]- Ăn đã![/SIZE] [SIZE=5]Chàng thắp bút, mở tráp ra, lấy nắm cơm và mọi thức ăn, Ăn xong, dốc bầu lên tu ực ực một mạch, rồi để xuống, miệng hà một cái. Chàng đổ ít nước vào nghiên mài mực, đoạn mở bút ra viết. Mỗi lúc sang trang, chàng đều ngồi lên đọc lại. Làm xong cả quyển, chàng ngồi rung đùi, mắt chăm chú, miệng khẽ khẽ bình. Đọc đi, đọc lại bốn lượt, chàng đếm xem có mấy chỗ xóa, sót, móc, chữa, để chua vào dưới chữ ‘’Cộng quyển nội’’ ở cuối bài. Xong đâu đấy, chàng vuốt thẳng quyển bài, gấp lại, thu dọn các đồ đạc vào tráp rồi mang quyển lên nộp ở Nhà Thập Đạo. Một người lại phòng cầm lấy quyển, chụp cái dấu nhỏ, dấu đóng nhật trung lúc trước vào cuối bài, rồi bỏ vào hòm trước mặt hai Quan Đề Tuyển. Quyển nào không có dấu ấy thì bị coi như là ngoại hàm, vì một khi thi xong, Quan Đề Tuyển sẽ thu dấu bỏ vào hòm niêm phong lại, đến kỳ sau mới lại lấy ra. Tâm đứng trông rõ vở mình đóng dấu bỏ hòm rồi, mới trở xuống dỡ lều xách chõng, đeo tráp, đeo ống quyển lếch thếch qua Nhà Thập Đạo thẳng lối tiền môn đi ra. Ông Đồ, ông Lý đã đứng ở cổng đón. Thấy Tâm ra, ông Lý chạy sấn ngay vào chỗ lính canh đỡ lấy lều, chõng và tráp. Còn ông Đồ, việc đầu tiên là ông đỡ ống quyển lấy giấy ráp ra xem. Đọc đến đâu, ông gật gù đến đấy. Xem xong, ông cuộn giấy bỏ vào ống, rồi thích chí nói:[/SIZE] [SIZE=5]- May ra được vào![/SIZE] [SIZE=5]Vừa lúc ấy, trống cái trên chòi canh thủng thẳng buông những tiếng ngân nga oai vệ. Tâm hớn hở nói:[/SIZE] [SIZE=5]- May quá tí nữa con ngoại hàm.[/SIZE] [SIZE=5]Ông Đồ nói:[/SIZE] [SIZE=5]- Còn kịp chán. Nghe thấy tiếng trống, mới đọc lại quyển cũng đủ thì giờ đếm và chua đồ, di, câu, cải, rồi kịp đem nộp. Dứt hồi trống mới hết hạn kia đấy. Nhỡ có gặp kỳ nào như thế, đừng cuống, cứ bình tĩnh.[/SIZE] [SIZE=5]Rồi ba người cùng về nhà trọ.[/SIZE] [SIZE=5]Mới độ tảng sáng ngày mười một, ba hồi trống thánh thốt buông tan vào không khí lạnh buốt báo cho sĩ tử xa gần biết đã có bảng kỳ nhì. Tức thời các nơi người ta đều đổ dồn về trường thi, đứng túm tụm ở các cửa vi tranh nhau nhìn vào cái phên nứa dán giấy chi chít những tên. Ông Đồ cũng vừa dậy, rửa mặt xong, ông vội vàng đi xem bảng, dặn Tâm không phải đi:[/SIZE] [SIZE=5]- Con ở nhà, ra chen không được đâu![/SIZE] [SIZE=5]Nhưng Tâm cũng cứ đi. Ra đến nơi, lách vào vi Hữu, không thấy tên, chàng nóng bừng cả mặt, vội thích thục mạng chen ra chạy đến cửa vi Ất. Ở bảng vi Ất cũng không có, như điên cuồng chàng chạy sang cửa vi Giáp. Ở đây chàng đọc được rõ ràng dòng chữ: ‘’Nguyễn Đức Tâm, Nam Định, Thịnh Hậu xã’’, Chàng thở nhẹ nhàng, mừng quá. Lách ra vừa gặp ông Đồ đang chen vào, Tâm vội nói:[/SIZE] [SIZE=5]- Con đã tưởng hỏng. Con cứ ngỡ thi ở vi nào thì tên ở bảng vi ấy. Con đỗ thứ ba mươi cậu ạ.[/SIZE] [SIZE=5]- Không, bảng này chỉ kể người đỗ thôi, không kể thứ tự. Đến bảng giải ngạch mới có hơn kém. Khi đủ số được vào rồi, người ta lại gắp thăm chia vi rồi yết bảng.[/SIZE] [SIZE=5]Quá nửa đêm hôm ấy, Tâm lại mang lều, chiếu, chõng, tráp và mọi thứ cần dùng xuống trường. Học trò đã tụ tập đông ở cửa trường, chỉ còn độ hơn nghìn người, nên không được náo nhiệt lắm như hôm nọ. Hơn nữa, trăng đêm mười một hãy còn vằng vặc chiếu xuống át cả ánh sáng mấy cây đinh liệu.[/SIZE] [SIZE=5]Số học trò bớt đi, nên việc vào trường dễ dàng chóng vánh, chừng cuối giờ Dần, đâu vào đấy cả. Các cửa trường lại đóng im ỉm. Một lúc sau, một hồi trống thật dài báo cho mọi người biết bảng đề mục đã yết. Kỳ này có một bài thơ, một bài phú. Tâm chỉ việc đi lên đọc nhẩm thuộc mấy câu đề mục ấy rồi về viết ra. Nháp xong cả hai bài Tâm viết vào quyển. Qua dấu giáp phùng, qua dấu nhật trung, đều ổn thỏa cả. Viết luôn được vài trang, chàng ngồi dậy mài thêm mực. Đến lúc nằm xuống viết, chàng giật mình thấy một vết mực lăn dài trên trương đầu quyển thi. Chàng cuống lên, vì thế ngay vào trang cung khai tam đại và giáp phùng, cần phải cánh quyển ngay mới kịp. Chàng ngồi thừ ra một lúc, mới tĩnh tâm lại được, mở tráp lấy giấy, dùi và lề ra đóng lại quyển mới, viết nắn nót lại dòng tên, quán chỉ và dòng cung khai tam đại. Chàng đọc lại không sót chữ nào, rồi đem quyển lên Nhà Thập Đạo nộp quyển cũ và xin dấu quyển mới. Đem quyển về, chàng nằm xuống viết, bụng bảo dạ:[/SIZE] [SIZE=5]- Lần này mình phải cẩn thận đây, cẩn thận chỗ giáp phùng, nhật trung, không có lại cánh quyển lượt nữa thì chết bỏ mẹ![/SIZE] [SIZE=5]Sực nhớ ra điều gì, chàng lẩm bẩm:[/SIZE] [SIZE=5]- Hay là có vị nào oán ghét điều gì, xin ngài buông tha, con cắn rơm cắn cỏ lạy ngài, con người trần mắt thịt, không thể thấu rõ được. Thôi thì tội vạ lây, xin ngài nguôi cơn giận mà phóng xá cho con. Oan tình thế nào con xin ngài về đồng hay báo mộng cho biết, con sẽ xin tuân. Nay gọi là tâm thành có chút kim ngân bạc lễ, xin bái tiến ngài...[/SIZE] [SIZE=5]Khấn xong, chàng mở tráp lấy mấy trăm vàng giấy ra. Thầy lều bên cạnh có cái mồi rơm của một ông Đồ nghiện thuốc lào, chàng liền vặn cái mồi giấy sang xin ít lửa về hóa. Chàng thổi phù phù mãi ngọn lửa mới bốc lên, bén vào mấy trăm vàng cháy bùng bùng bay ra một làn khói lam lan tỏa.[/SIZE] [SIZE=5]Đến mười chín ra xem bảng, Tâm lại được vào. Kỳ này có hai bài văn sách. Chép xong đề mục, vừa gần hết một tờ, chàng đọc lại, rồi nói một mình:[/SIZE] [SIZE=5]- Chà! Dài quá nhỉ, kim văn những năm dòng kia, Hỏi gì mà hỏi lắm thế![/SIZE] [SIZE=5]Chàng về lều làm bài. Chàng sửa đi sửa lại cho thật gọn thật chín. Viết vào quyển được nửa bài rồi, vì kỳ này không phải viết đầu bài vào quyển thi, chàng mới nghỉ ăn cơm. Ăn xong, đọc lại bài, chàng thấy thiếu nghĩa một câu, chàng quặc toan chữa vào sáu chữ nữa. Nhưng đếm lại những chỗ móc, xóa, chữa đã bẩy chỗ rồi, chàng đành tháo lề lấy tờ giấy ấy ra, thay tờ khác vào viết lại. Vì trường chỉ cho phép móc, mất, xóa, chữa có mười chỗ thôi. Làm xong bài đem nộp, chàng lấy làm khoan khoái lắm. Cả ba kỳ, chàng không thấy kỳ nào văn trôi chảy, viết đẹp đẽ như kỳ này, Chàng đã chắc mẩm được vào, chàng nghĩ thầm:[/SIZE] [SIZE=5]- Ba kỳ này mà trôi, thì Phúc Hạch cứ ăn đứt đi.[/SIZE] [SIZE=5]Nghĩ vậy, nhưng chàng vẫn kín đáo không dám thố lộ cho ai hay. Ông Đồ về từ hôm mười ba đến hôm nay lại ra, có cả ông Chánh Tổng Mỹ Lương cùng đi, đều ra đón. Trông thấy ông Chánh, Tâm nhớ ngay đến Mai, cô gái xinh đẹp như Xuân đã đính ước với chàng. Chàng sung sướng nghĩ đến cái tiếng ‘’cô Cử’’ gán vào cho Mai thật là xứng đáng. Chàng sung sướng tưởng đến hạnh phúc mai sau. Ông Đồ hỏi đến tờ nháp, Tâm mở ống quyển ra đưa. Ông Đồ cầm xem xong, rồi đưa ông Chánh.[/SIZE] [SIZE=5]- Được lắm, bài này tôi thấy xuất sắc hơn cả các bài của cháu làm từ trước đến giờ.[/SIZE] [SIZE=5]Ông Chánh xem qua cả quyển văn, rồi đưa lại cho ông Đồ và hỏi:[/SIZE] [SIZE=5]- Như vậy thì thế nào cũng vào được Phúc Hạch.[/SIZE] [SIZE=5]- Bẩm cái đó còn nhờ phúc phận.[/SIZE] [SIZE=5]Đến sáng sớm ngày hai mươi nhăm, Tâm hí hửng đi ra xem bảng. Số học trò vào kỳ đệ tam chỉ còn độ bốn trăm người, nên trước cổng tiền hôm nay treo bảng Phúc Hạch, kể cả những người đi xem hộ cũng thưa thớt như không, chẳng thấm vào đâu với mấy kỳ đầu. Tâm chen vào tận nơi nhìn qua một lượt, không thấy tên mình chàng đã nóng cả ruột, sợ cuống lên. Chàng chăm chú đọc cả lại mào đầu:[/SIZE] [SIZE=5]‘’Khâm Sai Hương thi Nam Định, trường quan vi yết nhập Phúc Hạch thí sinh danh sách, tính danh, niên canh, quán chỉ, liệt kê vu hậu’’[/SIZE] [SIZE=5]Chàng đọc lần lượt từng tên cho đến hết, không thấy tên mình, mặt sị ra muốn khóc. Chàng không hiểu gì cả, ù té chạy rẽ vượt vòng người ra ngoài. Có người thấy thế hỏi:[/SIZE] [SIZE=5]- Này! Này! Cậu bé trượt phải không? Hoài nhỉ![/SIZE] [SIZE=5]Chàng ngoảnh lại nhăn mặt, nhe răng, gượng cười không đáp. Bây giờ chàng mới biết câu thơ cổ kia là đúng. Ý chừng anh chàng nào trước kia cũng bị tên đề sau bảng, nên mới thốt ra được hai câu thơ ý vị:[/SIZE] [SIZE=5]Khấp như thiếu nữ vu quy nhật[/SIZE] [SIZE=5]Tiểu tự thư sinh lạc đệ thi![/SIZE] [SIZE=5](Cười như chàng trẻ hỏng thi[/SIZE] [SIZE=5]Khóc như cô gái mới đi lấy chồng)[/SIZE] [SIZE=5]Chột dạ, Tâm chạy vào xem cái bảng con gần đấy, biên tên những người mắc tội phạm huý. Không thấy tên mình, chàng mới yên tâm. Chàng đi lang thang vô định, không muốn về nhà trọ. Ông Đồ và ông Lý, sau khi xem bảng không thấy tên và cũng không thấy Tâm về, liền đâm bổ đi tìm khắp chỗ. Tìm kiếm mãi, bắt gặp chàng đương vơ vẩn ở chỗ làng An Trạch, ông Đồ dịu dàng khuyên:[/SIZE] [SIZE=5]- Đi về con, khoa này không đổ để dành khoa sau, chứ đi đâu mà vội. Con nhà nho đỗ, trượt là thường, cũng như con nhà binh không thể do thua mà bàn luận anh hùng được! Con mới tí tuổi đầu, thi một khoa đã vào Tam trường, còn hơn cậu, gần hai thứ tóc, thi sáu bảy khoa mà mới chiếm được tam trường. Danh giá chán, con ạ. Thôi con đi về. Không ai dám cười con đâu![/SIZE] [SIZE=5]Tâm lẽo đẽo theo ông Đồ về. Nhưng trong lòng vẫn buồn dười dượi, đã chán nản với cái nợ khoa danh nó bắt người ta cắm cúi nhiều mà chưa chắc đã thu được phần thưởng mong mỏi. Ông Đồ ngẫm nghĩ hỏi:[/SIZE] [SIZE=5]- Quái! Bài như thế mà hỏng nhỉ? Cứ như văn ấy không khiếm trang, khiếm tị, đáng lẽ mười phần đỗ cả mười, con nghĩ xem có khiếm đài chỗ nào không?[/SIZE] [SIZE=5]- Không, con đã soát lại cẩn thận lắm.[/SIZE] [SIZE=5]-...Hay con viết sai chỗ nào?[/SIZE] [SIZE=5]- Không! Thầy ạ, con viết đúng cả...À, chữ ‘’Tất’’. Tất là rõ viết thế nào nhỉ?[/SIZE] [SIZE=5]- Thái trên, tâm dưới.[/SIZE] [SIZE=5]- Chết rồi, con nghĩ quẩn mất, khổ quá, con đã viết như thế rồi, lúc đọc lại, con ngẩn người ra, bụng bảo dạ: ‘’chữ tất thì phải tất là ắt dưới chứ, sao lại tâm’’. Thế là con phẩy ngay một nét dài nữa.[/SIZE] [SIZE=5]- Thôi phải! Hỏng vì đấy rồi. Văn cử nhân, người ta chấm lựa lọc lắm, sai một nét là bị loại ngay.[/SIZE] [SIZE=5]Rồi tin ở số phận và phúc đức, ông Đồ ngậm ngùi thay cho đứa cháu thông minh, ông đổi sang chuyện khác, sau khi đã dặn Tâm đừng nói lại chuyện ấy với một người nào nữa, sợ người ta cười nhà mình kém phúc đức.[/SIZE] [SIZE=5]Về làng, mặc dầu vẫn được tiếng khen lao, chàng cũng không khỏi buồn. Chàng xin phép nhà đi ngao du thăm sơn thủy quanh vùng để mượn cảnh khuây sầu. Trước hết chàng xuống Mỹ Lương nói là thăm ông Đồ, nhưng kỳ thực là để gián tiếp thăm Mai. Ở đấy mấy hôm, không thấy bóng vía ông Chánh đâu, và thỉnh thoảng nghe tiếng cô Mai lào xào ở ngoài vườn, chàng vội thơ thẩn chạy ra hàng rào nhìn sang thì chỉ nhận được một cái nhìn nhanh như cắt của con người ngọc, cái nhìn không tha thiết mấy. Một hôm chàng sắp sửa ra về thì được tin đồn đến là ông Chánh đã bằng lòng gả Mai cho ông Cử Tân Khoa làng Hiếu Cổ gần đấy. Không tin, chàng săn đón hỏi cho được tên học trò ông Đồ, nhà ở ngay cổng ông Chánh. Tên này cứ thực khai y như vậy và còn nói thêm chỉ vài ngày nữa là ăn hỏi và sang trung tuần tháng chạp sẽ làm lễ vu quy.[/SIZE] [SIZE=5]Tâm buồn nản hỏi một câu vớt vát:[/SIZE] [SIZE=5]- Chậc! Sao ông ấy đổi ý chóng thế nhỉ? Đã biết ai hơn ai?[/SIZE] [SIZE=5]- Ấy, ông ta bảo nhà cậu không có đất, học giỏi thế, văn bài lại làm hay cả, mà hỏng là tại giời, giời đã không cho đỗ, thì cầu thân với cậu cũng uổng![/SIZE] [SIZE=5]Thật là một cái đấm, một cái đạp! Vừa thi trượt lại vừa mất vợ. Còn sự buồn chán nào bằng?Ông Đồ biết vậy, nên cố tìm lời khuyên giải:[/SIZE] [SIZE=5]- Thôi con ạ. Cần gì. Họ đã tiểu nhân không biết người, hám danh trục lợi trước mắt, hạng người ấy ta cũng chả nên tiếc. Con cứ cố tu thân luyện tính, sau này nên danh phận, chán vạn người đến cầu thân ngay đấy, vội gì. Bao giờ ra đường cái hết lốt chân đàn bà, thì mới lo, mới buồn chứ. Mình phải có gan chờ đợi. Biết đâu trong trần ai lại chả gặp người mắt xanh.[/SIZE] [SIZE=5]Nghe câu nói, Tâm cũng nguôi nguôi nỗi buồn nỗi tức. Từ đấy chàng chỉ phiêu đãng đi chơi, lui tới những nơi đại gia văn tự, giao du cho thêm rộng kiến thức, ngâm vịnh để tiêu khiển qua ngày. Tết về ở nhà một dạo, chàng lại ra đi, còn ba năm nữa mới lại đến khoa thi, chàng chưa cần học vội.[/SIZE] [SIZE=5]Một hôm, chàng nghe tin ở miền Thanh Oai, Hà Nội, có một đại phú gia có hai cô gái kén chồng. Hai cô sấp sỉ đôi tám xuân xanh, lại có theo đòi nghiên bút, nên chỉ rắp danh lấy chồng hay chữ, không phân biệt sang hèn. Ông bố chỉ có hai con gái nên cũng chiều con lắm, trong lòng mong mỏi kén cho được rể hiền. Rõ được đích xác, chàng mới lần mò đến hỏi thăm vào tận nơi, nói rõ ý định của mình. Ông cụ hoan hỉ mời chàng lên nhà khách. Ở đấy đã có hai thanh niên anh tuấn đang ngồi nói chuyện, Ông cụ giới thiệu với chàng:[/SIZE] [SIZE=5]- Đây là hai Quan Cử Tân Khoa Trường Hà, người bên Bắc Ninh.[/SIZE] [SIZE=5]Hai vị kia chào lại bằng một vẻ kiêu ngạo rõ rệt. Qua một tuần trầu nước, ông cụ thong thả đĩnh đạc nói đến chủ ý của ông:[/SIZE] [SIZE=5]- Hôm nay thật là một ngày đại hạnh cho tệ xá, bỉ phu được tiếp cả ba vị danh sĩ cùng đến với một mục đích. Bỉ phu không may chỉ sinh được hai tiện nữ ngu dại, cũng dốc lòng mong gặp khách đông sàng để con trẻ về sau được nhờ nơi bóng cả. Nay ba vị quá thương mà ngẫu nhiên thành cuộc họp này. Khốn nỗi, bỉ phu chỉ có hai cháu bé, thật tình không biết khu xử thế nào cho phải lẽ. Xin ba vị định hộ.[/SIZE] [SIZE=5]Hai ông cử đồng thanh thưa, có ý đẩy Tâm ra ngoài:[/SIZE] [SIZE=5]- Bẩm xin tùy lượng cụ, lũ tiểu sinh không dám.[/SIZE] [SIZE=5]- Đã vậy bỉ phu xin xếp thế này cho công bằng. Cả ba vị đây, bỉ phu không biết thế nào là hơn kém, xin ra một câu đối ai đối được trước hay hơn, trội hơn, bỉ phu xin dâng cả hai tiện nữ.[/SIZE] [SIZE=5]Ba người đều ưng thuận. Ông cụ ngửa mặt lên giời một lúc rồi quay xuống trông ba người đọc:[/SIZE] [SIZE=5]- Ba sĩ ngồi một ghế đội Đức Đường Nghiêu (Đường Nghiêu là một vị vua giỏi đời trước. Chữ Nghiêu có ba chữ sĩ trên chữ kỷ là ghế).[/SIZE] [SIZE=5]Mọi người đều đọc lại vế ra, ngồi ngẫm nghĩ. Hai ông Cử xem chừng băn khoăn lắm. Tâm lắp bắp xin phép đối. Ông Cụ nhũn nhặn nói:[/SIZE] [SIZE=5]- Thầy thong thả để nhường hai Quan Cử đã.[/SIZE] [SIZE=5]- Thế cụ không kỳ ai đối trước à?[/SIZE] [SIZE=5]- Có chứ! Vậy thầy cứ đọc.[/SIZE] [SIZE=5]Tâm ung dung đọc:[/SIZE] [SIZE=5]- Một bách sách hai cung đáng tài Lý Bật (Lý Bật là vị tướng giỏi đời Lý Đường, được phong tước Vương, ngang với Quách Tử Nghi. Chữ Bật có một chữ bách ở giữa, hai chữ cung hai bên).[/SIZE] [SIZE=5]Ông cụ gật gù khen:[/SIZE] [SIZE=5]- Hay lắm. Trội lắm. Quân tử nhất ngôn, bỉ phu xin công nhận câu đối của thầy khóa Nam Hạ, vậy xin hai quan miễn đối![/SIZE] [SIZE=5]Hai ông cử vừa bẽn, vừa tức hầm hầm nổi giận ra về. Ông cụ cho gọi hai cô con gái ra xem mặt vị thư sinh trẻ tuổi. Hai cô đã nấp sau rèm nghe trộm từ trước, bấy giờ mới yểu điệu kiêu hãnh bước ra. Hai chị em hơn nhau có một tuổi, trông suýt nhau đều có một vẻ đẹp nghiêm trang chải chuốt, tuy về tiều tiết có nhiều chỗ khác nhau. Tâm đáp lại lời chào thỏ thẻ của hai cô, rồi ngây ngất nhìn hồi lâu không chán. Chàng sực tỉnh khi nghe có tiếng cô chị nói:[/SIZE] [SIZE=5]- Thưa tiên sinh, tài mẫn tiệp của tiên sinh, chúng em đã được nghiêm đường cho biết, chúng em rất lấy làm hân hạnh được thừa tiếp tiên sinh đây. Chúng em phận đàn bà con gái hèn mọn ở nơi quê mùa này, không biết gì về văn tự, vậy xin có vế câu đối nôm na nhờ tiên sinh đối hộ![/SIZE] [SIZE=5]Tâm sửng sốt hỏi:[/SIZE] [SIZE=5]- Lại đối nữa kia à? Nhưng đối được thì thế nào?[/SIZE] [SIZE=5]- Bẩm cái đó tùy ý tiên sinh![/SIZE] [SIZE=5]- Vâng, xin quý nương đọc![/SIZE] [SIZE=5]- Vế đối thế này ạ: ‘’Cô gái cầu Cậy, má đỏ hồng hổng chỉ muốn lấy chồng để mà trông cậy’’[/SIZE] [SIZE=5]Tâm ứng khẩu nói:[/SIZE] [SIZE=5]- Tưởng gì chứ thế thì để tôi xin đối: ‘’Cậu cả làng Mây da đen mai mái, vớ được con gái, hát tràn cung mây’’[/SIZE] [SIZE=5]- Kể cũng được, hay thì không hay lắm. Tiên sinh nói vậy thì biết vậy chứ chúng em biết làng Mây ở đâu![/SIZE] [SIZE=5]- Chuyện, thế tôi biết cầu Cậy ở đâu! Các cô muốn rõ làng Mây thì đi về với tôi.[/SIZE] [SIZE=5]Cô em bấy giờ mới nói thay cô chị:[/SIZE] [SIZE=5]- Thôi, cũng cho là được. Nhưng em xin tiên sinh đối cho vế này nữa, nếu được mới cho là thành.[/SIZE] [SIZE=5]- Thành cái gì kia?[/SIZE] [SIZE=5]- Thành...thành gì cũng được. Đây em xin đọc: ‘’Vốn dòng Thi Lễ, đôi tám Xuân Thu, gặp khách Thư sinh, đem lòng dục dịch...(lấy chữ tên năm Kinh là Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu).[/SIZE] [SIZE=5]- Cũng dễ.[/SIZE] [SIZE=5]- Vâng dễ, xin tiên sinh đối cho.[/SIZE] [SIZE=5]- Tôi xin đối: ‘’Đệ tử Trương Chu, mười năm Khổng Mạnh, thấy nàng nhan sắc nên phải thưa trình’’[/SIZE] [SIZE=5]Cả hai đều trông nhau mỉm cười, rồi quay lại nói với Tâm:[/SIZE] [SIZE=5]- Chúng em xin chịu tài tiên sinh.[/SIZE] [SIZE=5]Vừa lúc ấy ông cụ ở trong nhà lại giở ra. Ông nghiêm trang ngồi vào ghế vồn vã nói với chàng:[/SIZE] [SIZE=5]- Hai tiện nữ đã phục thầy, vậy tôi lấy làm sung sướng nhận lời thầy nói trước. Thầy nên về nói lại với nhà, tôi cho làm lễ thành hôn ngay cho thầy tin. Còn việc học của thầy đang kỳ niên thiếu không nên trễ nải. Thầy phải xa hẳn bọn nhi nữ để học hành thành danh thành tài, lúc ấy sum họp chưa muộn.[/SIZE] [SIZE=5]Tâm vui vẻ vâng lời. Ở đây ít lâu quen cảnh quen người, chàng mới trở về cố hương, trong lòng đầy lạc thú, đầy hăng hái. [/SIZE] [B][SIZE=5]Đọc tiếp [/SIZE][/B][URL='https://vnkienthuc.com/threads/but-nghien-phan-3-chuong-7.79824/'][B][SIZE=5]PHẦN III - CHƯƠNG 7[/SIZE][/B][/URL] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Tiểu thuyết Bút Nghiên - Chu Thiên (phần 3)
Top