Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Tiểu sử cuộc đời vua hàm nghi
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 150628" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span><p style="text-align: center"><span style="color: #008000"><span style="font-size: 15px">TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI VUA HÀM NGHI</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Vua <strong>Hàm Nghi</strong> (<span style="color: black">chữ Hán</span>: 咸宜; <span style="color: black">ngày 3 tháng 8</span> năm <span style="color: black">1871</span>-<span style="color: black">1943</span>) là vị vua thứ 8 của <span style="color: black">nhà Nguyễn</span>. Ông tại vị từ <span style="color: black">1884</span> tới <span style="color: black">1885</span>, sau đó chống Pháp đến năm <span style="color: black">1888</span>.</span></span></p><p></p><p> </p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Vua Hàm Nghi tên huý là <strong>Nguyễn Phúc Ưng Lịch</strong>, còn có tên là <strong>Nguyễn Phúc Minh</strong> (阮福明). Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương <span style="color: black">Nguyễn Phúc Hồng Cai</span> và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm <span style="color: black">Tân Mùi</span>, tức <span style="color: black">3 tháng 8</span> năm <span style="color: black">1871</span>. Ông là em ruột của vua <span style="color: black">Kiến Phúc</span> và Chánh Mông-Ưng Kỳ, tức vua <span style="color: black">Đồng Khánh</span> sau này.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Sau khi vua <span style="color: black">Tự Đức</span> mất, mặc dù các phụ chính đại thần <span style="color: black">Nguyễn Văn Tường</span> và <span style="color: black">Tôn Thất Thuyết</span> nắm trọn quyền hành trong việc phế bỏ vua này, truất ngôi vua khác, nhưng họ lại rất bị động trong việc tìm người trong hoàng tộc có cùng chí hướng để đưa lên ngôi. Cả vua <span style="color: black">Hiệp Hoà</span> lẫn vua Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất sớm, trở thành những phần tử không thể không bị loại bỏ khỏi việc triều chính đang rối ren[SUP]<span style="color: black">[1]</span>[/SUP]. Sau khi vua Kiến Phúc mất đột ngột, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là <span style="color: black">Chánh Mông</span> lên ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất quyền hành và hai ông chủ trương dứt khoát lựa chọn bằng được một ông vua ủng hộ lập trường chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch. Đây là một người có đủ tư cách về dòng dõi, nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn dân tộc và quan trọng hơn hết là hai ông có thể định hướng nhà vua về đại cuộc của đất nước một cách dễ dàng.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ ruột chứ không được nuôi dạy tử tế như hai anh ruột ở trong cung. Khi thấy sứ giả đến đón, cậu bé Ưng Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ người ta dâng lên. Sáng ngày 12 tháng 6 <span style="color: black">Giáp Thân</span>, tức ngày <span style="color: black">2 tháng 8</span> năm <span style="color: black">1884</span>, Ưng Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó Ưng Lịch mới 13 tuổi.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"><span style="color: black">Khâm sứ</span> <span style="color: black">Pierre Paul Rheinart</span> thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện lập vua, không hỏi ý kiến đúng như đã giao kết nên gửi quân vào <span style="color: black">Huế</span> bắt Triều đình phải xin phép. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phải làm tờ xin phép bằng <span style="color: black">chữ Nôm</span> nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng <span style="color: black">chữ Nho</span>. Hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Công việc đầu tiên mà vua Hàm Nghi phải thủ vai, dưới sự hướng dẫn của Tôn Thất Thuyết là tổ chức đón phái đoàn Pháp từ Toà khâm sứ ở bờ Nam <span style="color: black">sông Hương</span> sang điện <span style="color: black">Thái Hoà</span> làm lễ tôn vương cho nhà vua. Đây là thắng lợi mà phe chủ chiến của triều đình Huế đã đạt được trong việc bảo vệ ngai vàng của Hàm Nghi; còn đối với người Pháp thì sau những yêu sách, đòi hỏi bất thành, họ đành phải nhân nhượng để tránh thêm những rắc rối mới bằng cách chấp nhận một sự việc đã rồi.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Lúc 9 giờ sáng ngày <span style="color: black">17 tháng 8</span> năm 1884, phái đoàn Pháp gồm Đại tá Guerrier, Khâm sứ Rheinart, Thuyền trưởng Wallarrmé cùng 185 sĩ quan binh lính kéo sang Hoàng thành Huế. Guerrier buộc triều đình Huế phải để toàn bộ quân Pháp tiến vào Ngọ Môn bằng lối giữa, là lối chỉ dành cho vua đi, nhưng Tôn Thất Thuyết nhất định cự tuyệt. Cuối cùng chỉ có 3 sứ giả được vào cổng chính, còn lại các thành phần khác thì đi cổng hai bên. Cả triều đình Huế và phái đoàn Pháp đều mang tâm trạng không vừa lòng nhau, nhưng buổi lễ thọ phong cuối cùng cũng kết thúc êm thấm. Lúc phái đoàn Pháp cáo từ, Tôn Thất thuyết đã ngầm cho quân lính đóng cửa chính ở Ngọ Môn lại nên đoàn Pháp phải theo hai lối cửa bên để về. Nhìn nhận về sự kiện này, <span style="color: black">Marcel Gaultier</span> đã viết: " <em>Vua Hàm Nghi đã giữ được tính chất thiêng liêng đối với thần dân mình. Vô tình vị vua trẻ tuổi đã làm một việc có ảnh hưởng vang dội khắp nước : với ý chí cương quyết độc lập và dù người Pháp có đóng quan tại Huế, triều đình An Nam vẫn biểu dương một thái độ không hèn. Thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra. Hội đồng ấy rất có lý mà tin chắc rằng dân chúng trông vào thái độ của nhà vua để noi theo, xem thái độ ấy như mệnh lệnh [chống lại người Pháp] không nói ra bằng lời..."</em>[SUP]<span style="color: black">[2]</span>[/SUP]</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Năm sau <span style="color: black">1885</span>, Thống tướng de Courcy được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của mình, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đứng với nghi thức triều đinh, nhưng de Courcy nhất định không chịu.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"><strong><em>Phong trào Cần Vương</em></strong></span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Đêm 22 rạng 23 tháng 4 <span style="color: black">âm lịch</span> (tức 5, 6 tháng 7 năm <span style="color: black">1885</span>), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh mạn vua mình như vậy, đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến sáng thì quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế. Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao chiến trong đêm và mời vua Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói: "<em>Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy</em>" [SUP]<span style="color: black">[3]</span>[/SUP]. Vua Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi tới thành <span style="color: black">Quảng Trị</span> để lánh nạn. Chiều ngày <span style="color: black">6 tháng 7</span> thì cả đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó ông lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng de Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua về. Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng ông Tôn Thất Thuyết cản thư không cho vua biết. Hết hạn hai tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de Courcy đày ra <span style="color: black">Côn Đảo</span>, sau đó đưa tới đảo <span style="color: black">Tahiti</span> ở <span style="color: black">Thái Bình Dương</span>. Một thời gian sau Nguyễn Văn Tường mất, xác được đưa về Việt Nam. <span style="color: black">Ngày 9 tháng 7</span>, dưới áp lực của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi đành từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Hàm Nghi ở Tân Sở rồi về vùng <span style="color: black">Tuyên Hoá</span>, <span style="color: black">Quảng Bình</span>. <em>Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa</em>[SUP]<span style="color: black">[4]</span>[/SUP]. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch <span style="color: black">Cần Vương</span> kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới đất <span style="color: black">Lào</span> cũng như trong vùng <span style="color: black">Hà Tĩnh</span>, Quảng Bình đã cho Hàm Nghi thấy được vai trò của bản thân mình nên nhà vua đã không còn cảm thấy bị cưỡng ép như trước. "<em>Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên"</em>[SUP]<span style="color: black">[5]</span>[/SUP]. Dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống dụ Cần vương trong đó có một lần gửi thư cầu viện cho Tổng đốc Vân-Quý của triều <span style="color: black">Mãn Thanh</span> và rất nhiều chỉ dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong trào chống Pháp. <em>Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia... Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh</em>[SUP]<span style="color: black">[6]</span>[/SUP].</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, ba bà Thái hậu và vua Đồng Khánh liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là <span style="color: black">Paul Bert</span> cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành. <em>Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người</em>[SUP]<span style="color: black">[5]</span>[/SUP]. Tại căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử con là <span style="color: black">Tôn Thất Đạm</span> và <span style="color: black">Tôn Thất Thiệp</span> hộ giá bảo vệ, cùng đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp trong vùng.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"><span style="color: black">Tháng 9</span> năm <span style="color: black">1888</span>, suất đội Nguyễn Đình Tình ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá. Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9 1888[SUP]<span style="color: black">[7]</span>[/SUP], vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng: "<em>Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây</em>". Vua Hàm Nghi khi đó 17 tuổi, chống Pháp được ba năm.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Từ cái đêm đó ở bờ khe Tá Bào, huyện Tuyên Hoá (nay là huyện Minh Hoá) tỉnh Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày <span style="color: black">14 tháng 11</span> năm 1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất long trọng nhưng vua đã tỏ ra không hiểu, không nhận mình là vua Hàm Nghi. Viên trung uý chỉ huy quân đội Bonnefoy đã chuyển bức thư của <span style="color: black">Tôn Thất Đàm</span> gửi cho vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua ném lá thư xuống bàn và làm như không có can hệ gì đến mình. Viên đề đốc Thanh Thuỷ là Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như không hay biết. Nhưng khi thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua vô tình đứng dậy vái chào. Đến lúc đó thì người Pháp mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi qua <span style="color: black">Bố Trạch</span> rồi vào Đồng Hới và tới cửa Thuận An ngày <span style="color: black">22 tháng 11</span> năm 1888.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Lúc này, triều đình Huế đã biết tin Hàm Nghi bị bắt, vua Đồng Khánh sai quan lại Thừa Thiên và bộ binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị kích động khi thấy mặt ông vua kháng chiến nên Pháp đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về kinh e có điều bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực người Pháp đã có quyết định dứt khoát với ông vua kháng chiến này là đày sang xứ <span style="color: black">Algérie</span> ở <span style="color: black">Bắc Phi</span>. Rheinart đã báo cho vua biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp :"<em>Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa</em>", rồi vua cáo từ về phòng riêng.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Vào 4 giờ sáng ngày <span style="color: black">25 tháng 11</span> năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi vào <span style="color: black">Lăng Cô</span>. Trước phút rời xa quê hương, nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên đã oà khóc.[SUP]<span style="color: black">[8]</span>[/SUP]. Từ <span style="color: black">Sài Gòn</span>, ngày <span style="color: black">13 tháng 12</span> năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống chiếc tàu mang tên "Biên Hoà" vượt đại dương đi Bắc Phi. Do không quen đi trên biển, nhà vua bị say sóng liên miên nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán. Chiều <span style="color: black">chủ nhật</span>, <span style="color: black">13 tháng 1</span> năm <span style="color: black">1889</span>[SUP]<span style="color: black">[9]</span>[/SUP], cựu hoàng Hàm Nghi đến thủ đô <span style="color: black">Alger</span> của Algérie. Lúc này nhà vua vừa bước qua tuổi 18. Mười ngày đầu, cựu hoàng Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la Régence (Toà nhiếp chính). Sau đó, ông được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger 5 cây số.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">24 tháng 1</span>, Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi ăn cơm gia đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền Tirman, cựu hoàng nhận được tin thân mẫu là Bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của <span style="color: black">Kiên Thái Vương</span>, hoàng tử thứ 26 của vua <span style="color: black">Thiệu Trị</span>) đã từ trần vào ngày 21 tháng 1 năm <span style="color: black">1889</span> tại <span style="color: black">Huế</span>.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Trong mười tháng tiếp đó, cựu hoàng Hàm Nghi nhất định không chịu học <span style="color: black">tiếng Pháp</span> vì ông cho đó là thứ tiếng của dân tộc xâm lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo dài theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh. Nhưng về sau, thấy người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ tháng 11 năm 1889 ông bắt đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp rất tốt.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Cựu hoàng Hàm Nghi cũng giao du cùng những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899 ông có sang thăm <span style="color: black">Paris</span> và đến xem một triển lãm của danh họa <span style="color: black">Paul Gauguin</span>, về sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh hưởng bởi phong cách của Gauguin.</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Mộ vua Hàm Nghi</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Năm <span style="color: black">1904</span>, cựu hoàng Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884), con gái của ông Laloe chánh án toà Thượng phẩm Alger. Đám cưới của họ trở thành một sự kiện văn hóa của thủ đô Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có ba người con:</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Công chúa Như Mai sinh năm 1905 </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Công chúa Như Lý sinh năm 1908 </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910 </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">4 tháng 1</span> năm <span style="color: black">1943</span>, vua Hàm Nghi qua đời vì bệnh <span style="color: black">ung thư dạ dày</span> tại biệt thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn cất ở Sarlat (Sarlat-la-Canéda), vùng <span style="color: black">Aquitaine</span>, nước <span style="color: black">Pháp</span>. Trên mộ của vua Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất năm <span style="color: black">1944</span>. Ông ra đi mang theo nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí. [SUP]<span style="color: black">[10]</span>[/SUP]</span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"><strong><em> Chú thích</em></strong></span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">1. Nguyễn Quang Trung Tiến. <em>Vị vua trưởng thành từ niên thiếu</em>. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">2. Marcel Gaultier. <em>Le Roi Proscrit</em>. Hà Nội, Impr. d'Extrême-Orient, 1940, tr. 40 - 41. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">3. Phạm Văn Sơn. <em>Việt Nam cách mạng cận sử</em>. Sài Gòn. Khai Trí phát hành, 1963, tr. 38. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">4. Nguyễn Quang Trung Tiến. <em>Vị vua trưởng thành từ niên thiếu</em>. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">5. <strong><em>[SUP][/SUP]</em></strong><strong><em>[SUP][/SUP]</em></strong>Phan Trần Chúc. <em>Vua Hàm Nghi</em>. Hà Nội, Chinh Ký, 1952, tr. 142. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">6. Ch. Gosselin. <em>L' Empire de l' Annam. Paris, Perrin et Cie, p. 239, 237.</em> </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">7. Về ngày vua Hàm Nghi bị bắt các tài liệu chép lại mâu thuẫn nhau. Có thể là một trong các ngày 26 tháng 9, 30 tháng 10, 2 tháng 11 năm 1888, 14 tháng 11. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">8. Phạm Văn Sơn. <em>Việt Nam cách mang cận sử</em> và Phan Trần Chúc. <em>Vua Hàm Nghi</em>. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">9. Những ngày này các tài liệu cũng ghi khác nhau. </span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'">10. Nguyễn Quang Trung Tiến. <em>Vị vua trưởng thành từ niên thiếu</em>. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"></span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> <span style="font-size: 15px">ngu <span style="font-size: 15px">ồn :s <span style="font-size: 15px">ưu t <span style="font-size: 15px">ầm</span></span></span></span></span></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span> </p><p></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'arial'"> </span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 150628, member: 288054"] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE][CENTER][COLOR=#008000][SIZE=4]TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI VUA HÀM NGHI[/SIZE][/COLOR][/CENTER] [SIZE=4][FONT=arial] Vua [B]Hàm Nghi[/B] ([COLOR=black]chữ Hán[/COLOR]: 咸宜; [COLOR=black]ngày 3 tháng 8[/COLOR] năm [COLOR=black]1871[/COLOR]-[COLOR=black]1943[/COLOR]) là vị vua thứ 8 của [COLOR=black]nhà Nguyễn[/COLOR]. Ông tại vị từ [COLOR=black]1884[/COLOR] tới [COLOR=black]1885[/COLOR], sau đó chống Pháp đến năm [COLOR=black]1888[/COLOR].[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Vua Hàm Nghi tên huý là [B]Nguyễn Phúc Ưng Lịch[/B], còn có tên là [B]Nguyễn Phúc Minh[/B] (阮福明). Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương [COLOR=black]Nguyễn Phúc Hồng Cai[/COLOR] và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm [COLOR=black]Tân Mùi[/COLOR], tức [COLOR=black]3 tháng 8[/COLOR] năm [COLOR=black]1871[/COLOR]. Ông là em ruột của vua [COLOR=black]Kiến Phúc[/COLOR] và Chánh Mông-Ưng Kỳ, tức vua [COLOR=black]Đồng Khánh[/COLOR] sau này.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Sau khi vua [COLOR=black]Tự Đức[/COLOR] mất, mặc dù các phụ chính đại thần [COLOR=black]Nguyễn Văn Tường[/COLOR] và [COLOR=black]Tôn Thất Thuyết[/COLOR] nắm trọn quyền hành trong việc phế bỏ vua này, truất ngôi vua khác, nhưng họ lại rất bị động trong việc tìm người trong hoàng tộc có cùng chí hướng để đưa lên ngôi. Cả vua [COLOR=black]Hiệp Hoà[/COLOR] lẫn vua Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất sớm, trở thành những phần tử không thể không bị loại bỏ khỏi việc triều chính đang rối ren[SUP][COLOR=black][1][/COLOR][/SUP]. Sau khi vua Kiến Phúc mất đột ngột, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là [COLOR=black]Chánh Mông[/COLOR] lên ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất quyền hành và hai ông chủ trương dứt khoát lựa chọn bằng được một ông vua ủng hộ lập trường chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch. Đây là một người có đủ tư cách về dòng dõi, nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn dân tộc và quan trọng hơn hết là hai ông có thể định hướng nhà vua về đại cuộc của đất nước một cách dễ dàng.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ ruột chứ không được nuôi dạy tử tế như hai anh ruột ở trong cung. Khi thấy sứ giả đến đón, cậu bé Ưng Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ người ta dâng lên. Sáng ngày 12 tháng 6 [COLOR=black]Giáp Thân[/COLOR], tức ngày [COLOR=black]2 tháng 8[/COLOR] năm [COLOR=black]1884[/COLOR], Ưng Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó Ưng Lịch mới 13 tuổi.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial][COLOR=black]Khâm sứ[/COLOR] [COLOR=black]Pierre Paul Rheinart[/COLOR] thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện lập vua, không hỏi ý kiến đúng như đã giao kết nên gửi quân vào [COLOR=black]Huế[/COLOR] bắt Triều đình phải xin phép. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phải làm tờ xin phép bằng [COLOR=black]chữ Nôm[/COLOR] nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm bằng [COLOR=black]chữ Nho[/COLOR]. Hai ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Công việc đầu tiên mà vua Hàm Nghi phải thủ vai, dưới sự hướng dẫn của Tôn Thất Thuyết là tổ chức đón phái đoàn Pháp từ Toà khâm sứ ở bờ Nam [COLOR=black]sông Hương[/COLOR] sang điện [COLOR=black]Thái Hoà[/COLOR] làm lễ tôn vương cho nhà vua. Đây là thắng lợi mà phe chủ chiến của triều đình Huế đã đạt được trong việc bảo vệ ngai vàng của Hàm Nghi; còn đối với người Pháp thì sau những yêu sách, đòi hỏi bất thành, họ đành phải nhân nhượng để tránh thêm những rắc rối mới bằng cách chấp nhận một sự việc đã rồi.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Lúc 9 giờ sáng ngày [COLOR=black]17 tháng 8[/COLOR] năm 1884, phái đoàn Pháp gồm Đại tá Guerrier, Khâm sứ Rheinart, Thuyền trưởng Wallarrmé cùng 185 sĩ quan binh lính kéo sang Hoàng thành Huế. Guerrier buộc triều đình Huế phải để toàn bộ quân Pháp tiến vào Ngọ Môn bằng lối giữa, là lối chỉ dành cho vua đi, nhưng Tôn Thất Thuyết nhất định cự tuyệt. Cuối cùng chỉ có 3 sứ giả được vào cổng chính, còn lại các thành phần khác thì đi cổng hai bên. Cả triều đình Huế và phái đoàn Pháp đều mang tâm trạng không vừa lòng nhau, nhưng buổi lễ thọ phong cuối cùng cũng kết thúc êm thấm. Lúc phái đoàn Pháp cáo từ, Tôn Thất thuyết đã ngầm cho quân lính đóng cửa chính ở Ngọ Môn lại nên đoàn Pháp phải theo hai lối cửa bên để về. Nhìn nhận về sự kiện này, [COLOR=black]Marcel Gaultier[/COLOR] đã viết: " [I]Vua Hàm Nghi đã giữ được tính chất thiêng liêng đối với thần dân mình. Vô tình vị vua trẻ tuổi đã làm một việc có ảnh hưởng vang dội khắp nước : với ý chí cương quyết độc lập và dù người Pháp có đóng quan tại Huế, triều đình An Nam vẫn biểu dương một thái độ không hèn. Thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra. Hội đồng ấy rất có lý mà tin chắc rằng dân chúng trông vào thái độ của nhà vua để noi theo, xem thái độ ấy như mệnh lệnh [chống lại người Pháp] không nói ra bằng lời..."[/I][SUP][COLOR=black][2][/COLOR][/SUP][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Năm sau [COLOR=black]1885[/COLOR], Thống tướng de Courcy được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của mình, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đứng với nghi thức triều đinh, nhưng de Courcy nhất định không chịu.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial][B][I]Phong trào Cần Vương[/I][/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Đêm 22 rạng 23 tháng 4 [COLOR=black]âm lịch[/COLOR] (tức 5, 6 tháng 7 năm [COLOR=black]1885[/COLOR]), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh mạn vua mình như vậy, đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến sáng thì quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế. Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao chiến trong đêm và mời vua Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói: "[I]Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy[/I]" [SUP][COLOR=black][3][/COLOR][/SUP]. Vua Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi tới thành [COLOR=black]Quảng Trị[/COLOR] để lánh nạn. Chiều ngày [COLOR=black]6 tháng 7[/COLOR] thì cả đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó ông lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng de Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua về. Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng ông Tôn Thất Thuyết cản thư không cho vua biết. Hết hạn hai tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de Courcy đày ra [COLOR=black]Côn Đảo[/COLOR], sau đó đưa tới đảo [COLOR=black]Tahiti[/COLOR] ở [COLOR=black]Thái Bình Dương[/COLOR]. Một thời gian sau Nguyễn Văn Tường mất, xác được đưa về Việt Nam. [COLOR=black]Ngày 9 tháng 7[/COLOR], dưới áp lực của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi đành từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Hàm Nghi ở Tân Sở rồi về vùng [COLOR=black]Tuyên Hoá[/COLOR], [COLOR=black]Quảng Bình[/COLOR]. [I]Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa[/I][SUP][COLOR=black][4][/COLOR][/SUP]. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch [COLOR=black]Cần Vương[/COLOR] kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới đất [COLOR=black]Lào[/COLOR] cũng như trong vùng [COLOR=black]Hà Tĩnh[/COLOR], Quảng Bình đã cho Hàm Nghi thấy được vai trò của bản thân mình nên nhà vua đã không còn cảm thấy bị cưỡng ép như trước. "[I]Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên"[/I][SUP][COLOR=black][5][/COLOR][/SUP]. Dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống dụ Cần vương trong đó có một lần gửi thư cầu viện cho Tổng đốc Vân-Quý của triều [COLOR=black]Mãn Thanh[/COLOR] và rất nhiều chỉ dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong trào chống Pháp. [I]Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia... Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh[/I][SUP][COLOR=black][6][/COLOR][/SUP].[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, ba bà Thái hậu và vua Đồng Khánh liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là [COLOR=black]Paul Bert[/COLOR] cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành. [I]Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người[/I][SUP][COLOR=black][5][/COLOR][/SUP]. Tại căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử con là [COLOR=black]Tôn Thất Đạm[/COLOR] và [COLOR=black]Tôn Thất Thiệp[/COLOR] hộ giá bảo vệ, cùng đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp trong vùng.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial][COLOR=black]Tháng 9[/COLOR] năm [COLOR=black]1888[/COLOR], suất đội Nguyễn Đình Tình ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá. Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9 1888[SUP][COLOR=black][7][/COLOR][/SUP], vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng: "[I]Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây[/I]". Vua Hàm Nghi khi đó 17 tuổi, chống Pháp được ba năm.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Từ cái đêm đó ở bờ khe Tá Bào, huyện Tuyên Hoá (nay là huyện Minh Hoá) tỉnh Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày [COLOR=black]14 tháng 11[/COLOR] năm 1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất long trọng nhưng vua đã tỏ ra không hiểu, không nhận mình là vua Hàm Nghi. Viên trung uý chỉ huy quân đội Bonnefoy đã chuyển bức thư của [COLOR=black]Tôn Thất Đàm[/COLOR] gửi cho vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua ném lá thư xuống bàn và làm như không có can hệ gì đến mình. Viên đề đốc Thanh Thuỷ là Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như không hay biết. Nhưng khi thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua vô tình đứng dậy vái chào. Đến lúc đó thì người Pháp mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi qua [COLOR=black]Bố Trạch[/COLOR] rồi vào Đồng Hới và tới cửa Thuận An ngày [COLOR=black]22 tháng 11[/COLOR] năm 1888.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Lúc này, triều đình Huế đã biết tin Hàm Nghi bị bắt, vua Đồng Khánh sai quan lại Thừa Thiên và bộ binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị kích động khi thấy mặt ông vua kháng chiến nên Pháp đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về kinh e có điều bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực người Pháp đã có quyết định dứt khoát với ông vua kháng chiến này là đày sang xứ [COLOR=black]Algérie[/COLOR] ở [COLOR=black]Bắc Phi[/COLOR]. Rheinart đã báo cho vua biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp :"[I]Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa[/I]", rồi vua cáo từ về phòng riêng.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Vào 4 giờ sáng ngày [COLOR=black]25 tháng 11[/COLOR] năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi vào [COLOR=black]Lăng Cô[/COLOR]. Trước phút rời xa quê hương, nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên đã oà khóc.[SUP][COLOR=black][8][/COLOR][/SUP]. Từ [COLOR=black]Sài Gòn[/COLOR], ngày [COLOR=black]13 tháng 12[/COLOR] năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống chiếc tàu mang tên "Biên Hoà" vượt đại dương đi Bắc Phi. Do không quen đi trên biển, nhà vua bị say sóng liên miên nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán. Chiều [COLOR=black]chủ nhật[/COLOR], [COLOR=black]13 tháng 1[/COLOR] năm [COLOR=black]1889[/COLOR][SUP][COLOR=black][9][/COLOR][/SUP], cựu hoàng Hàm Nghi đến thủ đô [COLOR=black]Alger[/COLOR] của Algérie. Lúc này nhà vua vừa bước qua tuổi 18. Mười ngày đầu, cựu hoàng Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la Régence (Toà nhiếp chính). Sau đó, ông được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger 5 cây số.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Ngày [COLOR=black]24 tháng 1[/COLOR], Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi ăn cơm gia đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền Tirman, cựu hoàng nhận được tin thân mẫu là Bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của [COLOR=black]Kiên Thái Vương[/COLOR], hoàng tử thứ 26 của vua [COLOR=black]Thiệu Trị[/COLOR]) đã từ trần vào ngày 21 tháng 1 năm [COLOR=black]1889[/COLOR] tại [COLOR=black]Huế[/COLOR].[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Trong mười tháng tiếp đó, cựu hoàng Hàm Nghi nhất định không chịu học [COLOR=black]tiếng Pháp[/COLOR] vì ông cho đó là thứ tiếng của dân tộc xâm lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo dài theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh. Nhưng về sau, thấy người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ tháng 11 năm 1889 ông bắt đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp rất tốt.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Cựu hoàng Hàm Nghi cũng giao du cùng những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899 ông có sang thăm [COLOR=black]Paris[/COLOR] và đến xem một triển lãm của danh họa [COLOR=black]Paul Gauguin[/COLOR], về sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh hưởng bởi phong cách của Gauguin.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Mộ vua Hàm Nghi[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Năm [COLOR=black]1904[/COLOR], cựu hoàng Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884), con gái của ông Laloe chánh án toà Thượng phẩm Alger. Đám cưới của họ trở thành một sự kiện văn hóa của thủ đô Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có ba người con:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Công chúa Như Mai sinh năm 1905 [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Công chúa Như Lý sinh năm 1908 [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910 [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]Ngày [COLOR=black]4 tháng 1[/COLOR] năm [COLOR=black]1943[/COLOR], vua Hàm Nghi qua đời vì bệnh [COLOR=black]ung thư dạ dày[/COLOR] tại biệt thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn cất ở Sarlat (Sarlat-la-Canéda), vùng [COLOR=black]Aquitaine[/COLOR], nước [COLOR=black]Pháp[/COLOR]. Trên mộ của vua Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất năm [COLOR=black]1944[/COLOR]. Ông ra đi mang theo nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí. [SUP][COLOR=black][10][/COLOR][/SUP][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial][B][I] Chú thích[/I][/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]1. [COLOR=black][/COLOR]Nguyễn Quang Trung Tiến. [I]Vị vua trưởng thành từ niên thiếu[/I]. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]2. [COLOR=black][/COLOR] Marcel Gaultier. [I]Le Roi Proscrit[/I]. Hà Nội, Impr. d'Extrême-Orient, 1940, tr. 40 - 41. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]3. [COLOR=black][/COLOR] Phạm Văn Sơn. [I]Việt Nam cách mạng cận sử[/I]. Sài Gòn. Khai Trí phát hành, 1963, tr. 38. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]4. [COLOR=black][/COLOR] Nguyễn Quang Trung Tiến. [I]Vị vua trưởng thành từ niên thiếu[/I]. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]5. [B][I][SUP][COLOR=black][/COLOR][/SUP][/I][/B][B][I][SUP][COLOR=black][/COLOR][/SUP][/I][/B]Phan Trần Chúc. [I]Vua Hàm Nghi[/I]. Hà Nội, Chinh Ký, 1952, tr. 142. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]6. [COLOR=black][/COLOR] Ch. Gosselin. [I]L' Empire de l' Annam. Paris, Perrin et Cie, p. 239, 237.[/I] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]7. [COLOR=black][/COLOR] Về ngày vua Hàm Nghi bị bắt các tài liệu chép lại mâu thuẫn nhau. Có thể là một trong các ngày 26 tháng 9, 30 tháng 10, 2 tháng 11 năm 1888, 14 tháng 11. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]8. [COLOR=black][/COLOR] Phạm Văn Sơn. [I]Việt Nam cách mang cận sử[/I] và Phan Trần Chúc. [I]Vua Hàm Nghi[/I]. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]9. [COLOR=black][/COLOR] Những ngày này các tài liệu cũng ghi khác nhau. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial]10. Nguyễn Quang Trung Tiến. [I]Vị vua trưởng thành từ niên thiếu[/I]. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [SIZE=4]ngu [SIZE=4]ồn :s [SIZE=4]ưu t [SIZE=4]ầm[/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=arial] [/FONT][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Tiểu sử cuộc đời vua hàm nghi
Top