Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Tiểu sử cuộc đời Duy Tân hoàng đế( 1907-1916)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 151344" data-attributes="member: 288054"><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #008000"> <span style="font-family: 'arial'"><strong> TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI </strong></span><span style="font-family: 'arial'"><strong>DUY TÂN HOÀNG ĐẾ (1907-1916)</strong></span></span></span></p> <p style="text-align: center"></p> </p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Vua <strong>Duy Tân</strong> (<span style="color: black">chữ Hán</span>: 維新; <span style="color: black">1900</span>–<span style="color: black">1945</span>) là vị vua thứ 11 của <span style="color: black">nhà Nguyễn</span>, trị vì từ <span style="color: black">1907</span> tới <span style="color: black">1916</span>. Là một vị vua trong thời kỳ Pháp chiếm đóng Việt Nam, do đó được Pháp dựng lên để phục vụ chế độ bảo hộ, nhưng trong hơn 8 năm trị vì, ông đã chống <span style="color: black">Pháp</span> mạnh mẽ.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"> </p> <p style="text-align: center"></p> </p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Vua Duy Tân tên húy là <strong>Nguyễn Phúc Vĩnh San</strong> (阮福永珊), còn có tên là <strong>Nguyễn Phúc Hoảng</strong> (阮福晃), sinh ngày 26 tháng 8 năm <span style="color: black">Canh Tý</span>, tức <span style="color: black">19 tháng 9</span> năm <span style="color: black">1900</span>[SUP]<span style="color: black">[1]</span>[/SUP]. Ông là con thứ 5 của vua <span style="color: black">Thành Thái</span> và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Vua Thành Thái có nhiều con trai, đáng lẽ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng người Pháp sợ một vị vua trưởng thành khó sai khiến nên họ muốn tìm chọn một người nhỏ tuổi. Khi <span style="color: black">Khâm sứ</span> <span style="color: black">Fernand Ernest Lévecque</span> cầm danh sách các hoàng tử con vua Thành Thái vào hoàng cung chọn vua, lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San. Triều đình cho người đi tìm thì thấy Vĩnh San đang chơi đùa, mặt mày lem luốc. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, Vĩnh San ra trình diện quan Pháp. Người Pháp trông thấy đồng ý ngay vì họ thấy Vĩnh San có vẻ nhút nhát và đần độn. Triều đình thấy vua quá nhỏ nên xin tăng thêm một tuổi thành 8. Họ cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San là Duy Tân, như muốn hướng tới sự nghiệp không thành của vua Thành Thái</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">5 tháng 9</span> năm <span style="color: black">1907</span>, Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Và chỉ một ngày sau lễ Tôn vương, Duy Tân đã đổi khác. Một nhà báo Pháp đã thuật lại: "<em>...Un jour de trône a complètement changé la figure d'un enfant de 8 ans</em>" (Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám).</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Để kiểm soát vua Duy Tân, người Pháp cho lập một phụ chính gồm sáu đại thần là <span style="color: black">Tôn Thất Hân</span>, <span style="color: black">Nguyễn Hữu Bài</span>, <span style="color: black">Huỳnh Côn</span>, <span style="color: black">Miên Lịch</span>, <span style="color: black">Lê Trinh</span> và <span style="color: black">Cao Xuân Dục</span> để cai trị Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. Một tiến sĩ <span style="color: black">sinh học</span> là Ebérhard được đưa đến để dạy học cho vua Duy Tân, theo nhiều người thì đó chỉ là hành động kiểm soát.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Khoảng năm <span style="color: black">1912</span>, Khâm sứ <span style="color: black">Georges Marie Joseph Mahé</span> mở một chiến dịch tìm <span style="color: black">vàng</span> ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời <span style="color: black">Nguyễn Phúc Chu</span> trên tháp Phước Duyên <span style="color: black">chùa Thiên Mụ</span>, đào lăng Vua <span style="color: black">Tự Đức</span> và đào xới lung tung trong <span style="color: black">Đại Nội</span> để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ. Duy Tân ra lệnh đóng cửa cung không tiếp ai. Toà Khâm sứ Pháp làm áp lực với nhà vua thì Duy Tân đe đọa sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng <span style="color: black">Toàn quyền</span> <span style="color: black">Albert Pierre Sarraut</span> từ <span style="color: black">Hà Nội</span> phải vào giải quyết vua Duy Tân mới cho mở Hoàng thành.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ông xem lại những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký. Nhà vua cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau nên một hôm giữa triều đình, nhà vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi <span style="color: black">tiếng Pháp</span> sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm <span style="color: black">1884</span> (Patenôtre). Nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Năm 15 tuổi, vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó không những nhà vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><span style="color: black">Việt Nam Quang Phục Hội</span> được <span style="color: black">Phan Bội Châu</span> thành lập từ <span style="color: black">1912</span>. Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục Hội quyết định móc nối. Hai lãnh đạo của hội là <span style="color: black">Trần Cao Vân</span> và <span style="color: black">Thái Phiên</span> bỏ tiền vận động người tài xế riêng của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, một thành viên của hội.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><span style="color: black">Tháng 4</span> năm <span style="color: black">1916</span>, khi vua Duy Tân ra <span style="color: black">Cửa Tùng</span> nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Duy Tân đọc thư và muốn gặp hai người. Ngày hôm sau, ba người cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ý cùng tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa dự định được tổ chức vào 1 giờ sáng ngày <span style="color: black">3 tháng 5</span>.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội ở <span style="color: black">Quảng Ngãi</span> là Võ An đã làm lộ tin. Chiều ngày 2 tháng 5, thực dân Pháp ra lệnh thu súng ở các trại lính người Việt cất vào kho và cấm trại không cho một người lính Việt nào ra ngoài.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến <span style="color: black">Thương Bạc</span> đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo lối thường dân đi cùng hai người hộ vệ là Tôn Thái Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ tới làng Hà Trung, lên nhà một hội viên Việt Nam Quang Phục hội để chờ giờ phát lệnh bằng <span style="color: black">súng thần công</span> ở Huế. Nhưng chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng <span style="color: black">Quảng Nam</span>, <span style="color: black">Quảng Ngãi</span>. Sáng ngày <span style="color: black">6 tháng 5</span> năm <span style="color: black">1916</span>, họ bị bắt.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Khâm sứ tại <span style="color: black">Huế</span> và Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ý: "<em>Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp.</em>"</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Pháp bắt Triều đình Huế phải xử, <span style="color: black">Thượng thư</span> bộ Học <span style="color: black">Hồ Đắc Trung</span> được ủy nhiệm thảo bản án. <span style="color: black">Trần Cao Vân</span> khi đó bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ Đắc Trung xin được lãnh hết tội và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 người <span style="color: black">Thái Phiên</span>, <span style="color: black">Trần Cao Vân</span>, <span style="color: black">Tôn Thất Đề</span> và <span style="color: black">Nguyễn Quang Siêu</span>. Bốn người bị chém đầu ở <span style="color: black">An Hòa</span>. Vua Duy Tân bị đày đi <span style="color: black">đảo La Réunion</span> ở <span style="color: black">Ấn Độ Dương</span> cùng với cha là vua <span style="color: black">Thành Thái</span> vào năm <span style="color: black">1916</span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">3 tháng 11</span> năm <span style="color: black">1916</span>, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở <span style="color: black">Cap Saint-Jacques</span>. Đến ngày <span style="color: black">20 tháng 11</span> họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại một người dân ở thành phố Saint-Denis.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình. Duy Tân ghi tên học về <span style="color: black">vô tuyến điện</span> và mở tiệm Radio - Laboratoire bán hàng sửa chữa máy. Đồng thời, ông thi <span style="color: black">tú tài</span> ở trường trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học. Duy Tân ít quan hệ với người Pháp, chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học <span style="color: black">cưỡi ngựa</span> và thắng nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo <em>Le Peuple</em> (Dân chúng), <em>Le Progrès</em> (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài <em>Variations sur une lyre briée</em> (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm <span style="color: black">1924</span>. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trong bài <em>Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân</em> đăng trong <em>Revue France-Asie</em>, năm <span style="color: black">1970</span>, tác giả E.P Thébault, một bạn thân của Duy Tân, ghi rằng: "<em>chỉ một lần – một lần mà thôi – trong bức thơ ngày <span style="color: black">5 tháng 6</span> năm <span style="color: black">1936</span> gởi cho Marius Moutet, Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc biến động 1916 và nói về vai trò của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp</em>". Trong nhiều bức thư khác gởi cho Chính phủ Pháp từ <span style="color: black">1936</span> cho đến <span style="color: black">1940</span>, để xin phục vụ trong <span style="color: black">Quân đội Pháp</span>, ông không đả động đến vụ mưu loạn tại Việt Nam. Tất cả đơn đều bị bác vì Bộ Thuộc địa phê trong tờ lý lịch cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau này): "<em>...parait difficile à acheter, extrêmement indépendant...intrigue pour quitter la Réunion et rétablissement trône d'Annam...</em>" (Có vẻ khó mua chuộc, rất độc lập, mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam...).</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">18 tháng 6</span> năm <span style="color: black">1940</span>, <span style="color: black">Charles de Gaulle</span> kêu gọi chống <span style="color: black">Đức quốc xã</span>. Sự việc nước Pháp bại trận trong <span style="color: black">Chiến tranh thế giới thứ hai</span>, đầu hàng phát xít <span style="color: black">Đức</span> và sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở <span style="color: black">Anh</span> trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Tuy "nước Pháp tự do" và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp, Duy Tân hưởng ứng và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo <span style="color: black">Chính phủ Vichy</span>) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba tháng với cấp bậc <span style="color: black">hạ sĩ</span> vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và <span style="color: black">đại tá</span> Alain de Boissieu. Bị giải ngũ vì lý do sức khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La Réunion là Capagory can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc <span style="color: black">binh nhì</span>. Một thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang <span style="color: black">châu Âu</span>.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">5 tháng 5</span> năm <span style="color: black">1945</span>, có lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở <span style="color: black">Paris</span>. Duy Tân đến Pháp vào <span style="color: black">tháng 6</span> năm 1945 thì <span style="color: black">Đức</span> đã đầu hàng ngày <span style="color: black">8 tháng 5</span>. Ngày <span style="color: black">20 tháng 7</span> năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc điạ (<em>9ème DIC</em>) đóng ở <span style="color: black">Forêt Noire</span>, <span style="color: black">Đức</span>.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">29 tháng 10</span> năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: <span style="color: black">thiếu uý</span> từ 5 tháng 12 năm 1942, <span style="color: black">trung uý</span> từ 5 tháng 12 năm 1943, <span style="color: black">đại uý</span> tháng 12 năm 1944 và <span style="color: black">thiếu tá</span> ngày 25 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng vua Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm <span style="color: black">Đông Dương</span> của Pháp.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">14 tháng 12</span> năm 1945, <span style="color: black">Charles de Gaulle</span> tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập <em>Hồi ký chiến tranh</em>, tướng de Gaulle ghi: "<em>...Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam.</em>"</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trong tác phẩm <em>Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952</em> sử gia <span style="color: black">Philippe de Villers</span> nhận xét: "<em><span style="color: black">Bảo Đại</span> đã thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính là nhân vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã đầu quân vào Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày chính kiến với Chính phủ Pháp và với một trung uý của Quân đoàn I sắp qua Đông Dương là ông Bousquet, cựu chánh văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard.</em>"</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Một bạn thân của Duy Tân là <span style="color: black">E.P Thébault</span> kể lại trong bài <em>Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân</em>: "<em>Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp, có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở khách sạn Louvres, trước hý viện Pháp. Ngài nói: "Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu tháng 3 (1946). Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ nữa.</em>"</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Trong hồi ký <em>Bên giòng lịch sử Việt Nam 1940-1975</em>, linh mục <span style="color: black">Cao Văn Luận</span> ghi lại rằng mùa đông <span style="color: black">1944</span> và đầu năm <span style="color: black">1945</span>, cùng với một số du học sinh Việt và <span style="color: black">Việt kiều</span>, ông có tiếp xúc ba lần với Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích: "<em>Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong <span style="color: black">Liên Hiệp Pháp</span>. Điều đó không trái với quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì hơn trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại.</em>"</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Duy Tân đã từng tâm sự: "<em>Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước Việt nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân <span style="color: black">Lạng Sơn</span>, Huế, <span style="color: black">Cà Mau</span> ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào : cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia."[SUP]<span style="color: black">[2]</span>[/SUP]</em></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">24 tháng 12</span> năm 1945, Duy Tân lấy <span style="color: black">phi cơ</span> Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ <span style="color: black">Bourget</span>, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày <span style="color: black">26 tháng 12</span> năm 1945, khoảng 18 giờ 30 <span style="color: black">GMT</span>, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, <span style="color: black">Cộng hoà Trung Phi</span>. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá <span style="color: black">hoa tiêu</span>, hai trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đó có cựu hoàng Vĩnh San và bốn thường dân.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây cho khăn cho <span style="color: black">Anh</span> trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong <em>Destin tragique d’un Empereur d’Annam</em>, E.P Thébault viết: <em>"Ngày <span style="color: black">17 tháng 12</span> năm <span style="color: black">1945</span> – mười hôm trước khi tử nạn – Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe doạ. Khi cả hai đi ngang – lần chót – <span style="color: black">vườn Tuileries</span>, cựu hoàng nắm tay Thébault nói: "Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu <span style="color: black">quan</span> nếu tôi bỏ ý định ấy."</em></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">28 tháng 3</span> năm <span style="color: black">1987</span>, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki, <span style="color: black">Trung Phi</span> về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại <span style="color: black">An Lăng</span>, <span style="color: black">Huế</span>, cạnh nơi an nghỉ của Thượng Hoàng Thành Thái, vào ngày <span style="color: black">6 tháng 4</span> năm 1987.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Ngày <span style="color: black">5 tháng 12</span> năm <span style="color: black">1992</span>, thành phố Saint-Denis đảo La Réunion khánh thành một đại lộ mang tên ông: Đại lộ Vĩnh San.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><strong><em>Giai thoại về vua Duy Tân</em></strong></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Một lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên (hàng năm vua hay ra đây nghỉ mát), tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Vua vừa rửa vừa hỏi:</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua nói:</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Nước bẩn thì phải tìm cách trừ khử những chất ngoại lai lẫn vào trong đó, hiểu không?</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Một lần khác vua ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu. Thượng thư Nguyễn Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vua bèn ra câu đối: <em>Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần</em>.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Nguyễn Hữu Bài nghĩ ngợi rồi đối lại: <em>Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó</em>. Nghe đồn vua phê Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng và bảo: "Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới có ý nghĩa."</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><strong><em>Con cái</em></strong></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Khi sang đảo La Réunion, Duy Tân có đem theo Hoàng phi <span style="color: black">Mai Thị Vàng</span>, nhưng được hai năm bà xin về Việt Nam vì không chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở La Réunion, ông có chung sống với ba người vợ ngoài <span style="color: black">giá thú</span>, vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly hôn. Những người con của ông đều mang họ mẹ. Các bà vợ và con cái:</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bà Mai Thị Vàng, Đệ nhất giai phi, kết hôn ngày 16 tháng 1 năm 1916. Khi đi lưu đày theo chồng bà có mang 3 tháng và bị sảy thai. Năm 1925, cựu hoàng có gửi cho Hội đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn li dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà Vàng đi lấy chồng khác (lúc này bà 27 tuổi). Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến cuối đời (bà thọ 75 tuổi) và thường ngâm: </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Gìn vàng giữ ngọc cho hay</em> </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời</em> </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">hay</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Đá dù nát, "Vàng" chẳng phai</em> </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.</em> </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bà Marie Anne Viale, sinh năm 1890. Có một con trai: </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Armand Viale sinh 1919. </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bà Fermande Antier sinh năm 1913. Có tám người con, 4 trai 4 gái đều mang họ Antier: </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Thérèse sinh 1928 </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Suzy sinh 1929 </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Solange sinh 1930 </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Roger sinh 1938 </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Ginette sinh 1940 </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Bà Ernestine Maillot sinh năm 1924. Có một con gái: </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">- Andrée Maillot sinh 1945. </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Một tài liệu viết các con ông đều không nói được <span style="color: black">tiếng Việt</span> và có ít quan hệ với vua <span style="color: black">Thành Thái</span>. Duy Tân cũng không khuyến khích các con học tiếng Việt và tìm hiểu về Việt Nam. Đến năm <span style="color: black">1946</span>, toà án thành phố Saint-Denis đồng ý cho các con của Duy Tân mang họ ông. Andrée Maillot và Armand Viale vẫn giữ họ cũ của mình. Năm người Suzy, Georges, Claude, Roger và Andrée đổi thành Georges Vĩnh San, Claude Vĩnh San...</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Các con vua Duy Tân đều rửa tội theo lễ nghi <span style="color: black">Công giáo</span>.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><strong><em>Chú thích</em></strong></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">1. <em><strong><span style="color: black">^</span></strong></em> Có tài liệu ghi ông sinh 14 tháng 8 năm 1899. </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'">2. <em><strong><span style="color: black">^</span></strong></em> Hoàng Trọng Thược. <em>Hồ sơ vua Duy Tân</em>, nhà xuất bản Thanh Hương, California, Mỹ. 1994. </span></p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span>nguồn : sưu tầm</p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'arial'"> </span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 151344, member: 288054"] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [CENTER][CENTER][SIZE=4][COLOR=#008000][FONT=arial] [/FONT][FONT=arial][/FONT][FONT=arial][B] TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI [/B][/FONT][FONT=arial][B]DUY TÂN HOÀNG ĐẾ (1907-1916)[/B][/FONT][/COLOR][/SIZE] [/CENTER][/CENTER] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Vua [B]Duy Tân[/B] ([COLOR=black]chữ Hán[/COLOR]: 維新; [COLOR=black]1900[/COLOR]–[COLOR=black]1945[/COLOR]) là vị vua thứ 11 của [COLOR=black]nhà Nguyễn[/COLOR], trị vì từ [COLOR=black]1907[/COLOR] tới [COLOR=black]1916[/COLOR]. Là một vị vua trong thời kỳ Pháp chiếm đóng Việt Nam, do đó được Pháp dựng lên để phục vụ chế độ bảo hộ, nhưng trong hơn 8 năm trị vì, ông đã chống [COLOR=black]Pháp[/COLOR] mạnh mẽ.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [CENTER][CENTER][FONT=arial] [/FONT] [/CENTER][/CENTER] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Vua Duy Tân tên húy là [B]Nguyễn Phúc Vĩnh San[/B] (阮福永珊), còn có tên là [B]Nguyễn Phúc Hoảng[/B] (阮福晃), sinh ngày 26 tháng 8 năm [COLOR=black]Canh Tý[/COLOR], tức [COLOR=black]19 tháng 9[/COLOR] năm [COLOR=black]1900[/COLOR][SUP][COLOR=black][1][/COLOR][/SUP]. Ông là con thứ 5 của vua [COLOR=black]Thành Thái[/COLOR] và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Vua Thành Thái có nhiều con trai, đáng lẽ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng người Pháp sợ một vị vua trưởng thành khó sai khiến nên họ muốn tìm chọn một người nhỏ tuổi. Khi [COLOR=black]Khâm sứ[/COLOR] [COLOR=black]Fernand Ernest Lévecque[/COLOR] cầm danh sách các hoàng tử con vua Thành Thái vào hoàng cung chọn vua, lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San. Triều đình cho người đi tìm thì thấy Vĩnh San đang chơi đùa, mặt mày lem luốc. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, Vĩnh San ra trình diện quan Pháp. Người Pháp trông thấy đồng ý ngay vì họ thấy Vĩnh San có vẻ nhút nhát và đần độn. Triều đình thấy vua quá nhỏ nên xin tăng thêm một tuổi thành 8. Họ cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San là Duy Tân, như muốn hướng tới sự nghiệp không thành của vua Thành Thái[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]5 tháng 9[/COLOR] năm [COLOR=black]1907[/COLOR], Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Và chỉ một ngày sau lễ Tôn vương, Duy Tân đã đổi khác. Một nhà báo Pháp đã thuật lại: "[I]...Un jour de trône a complètement changé la figure d'un enfant de 8 ans[/I]" (Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám).[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Để kiểm soát vua Duy Tân, người Pháp cho lập một phụ chính gồm sáu đại thần là [COLOR=black]Tôn Thất Hân[/COLOR], [COLOR=black]Nguyễn Hữu Bài[/COLOR], [COLOR=black]Huỳnh Côn[/COLOR], [COLOR=black]Miên Lịch[/COLOR], [COLOR=black]Lê Trinh[/COLOR] và [COLOR=black]Cao Xuân Dục[/COLOR] để cai trị Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. Một tiến sĩ [COLOR=black]sinh học[/COLOR] là Ebérhard được đưa đến để dạy học cho vua Duy Tân, theo nhiều người thì đó chỉ là hành động kiểm soát.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Khoảng năm [COLOR=black]1912[/COLOR], Khâm sứ [COLOR=black]Georges Marie Joseph Mahé[/COLOR] mở một chiến dịch tìm [COLOR=black]vàng[/COLOR] ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời [COLOR=black]Nguyễn Phúc Chu[/COLOR] trên tháp Phước Duyên [COLOR=black]chùa Thiên Mụ[/COLOR], đào lăng Vua [COLOR=black]Tự Đức[/COLOR] và đào xới lung tung trong [COLOR=black]Đại Nội[/COLOR] để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ. Duy Tân ra lệnh đóng cửa cung không tiếp ai. Toà Khâm sứ Pháp làm áp lực với nhà vua thì Duy Tân đe đọa sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng [COLOR=black]Toàn quyền[/COLOR] [COLOR=black]Albert Pierre Sarraut[/COLOR] từ [COLOR=black]Hà Nội[/COLOR] phải vào giải quyết vua Duy Tân mới cho mở Hoàng thành.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ông xem lại những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký. Nhà vua cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau nên một hôm giữa triều đình, nhà vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi [COLOR=black]tiếng Pháp[/COLOR] sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm [COLOR=black]1884[/COLOR] (Patenôtre). Nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Năm 15 tuổi, vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó không những nhà vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][COLOR=black]Việt Nam Quang Phục Hội[/COLOR] được [COLOR=black]Phan Bội Châu[/COLOR] thành lập từ [COLOR=black]1912[/COLOR]. Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục Hội quyết định móc nối. Hai lãnh đạo của hội là [COLOR=black]Trần Cao Vân[/COLOR] và [COLOR=black]Thái Phiên[/COLOR] bỏ tiền vận động người tài xế riêng của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, một thành viên của hội.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][COLOR=black]Tháng 4[/COLOR] năm [COLOR=black]1916[/COLOR], khi vua Duy Tân ra [COLOR=black]Cửa Tùng[/COLOR] nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Duy Tân đọc thư và muốn gặp hai người. Ngày hôm sau, ba người cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ý cùng tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa dự định được tổ chức vào 1 giờ sáng ngày [COLOR=black]3 tháng 5[/COLOR].[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội ở [COLOR=black]Quảng Ngãi[/COLOR] là Võ An đã làm lộ tin. Chiều ngày 2 tháng 5, thực dân Pháp ra lệnh thu súng ở các trại lính người Việt cất vào kho và cấm trại không cho một người lính Việt nào ra ngoài.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến [COLOR=black]Thương Bạc[/COLOR] đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo lối thường dân đi cùng hai người hộ vệ là Tôn Thái Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ tới làng Hà Trung, lên nhà một hội viên Việt Nam Quang Phục hội để chờ giờ phát lệnh bằng [COLOR=black]súng thần công[/COLOR] ở Huế. Nhưng chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng [COLOR=black]Quảng Nam[/COLOR], [COLOR=black]Quảng Ngãi[/COLOR]. Sáng ngày [COLOR=black]6 tháng 5[/COLOR] năm [COLOR=black]1916[/COLOR], họ bị bắt.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Khâm sứ tại [COLOR=black]Huế[/COLOR] và Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ý: "[I]Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp.[/I]"[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Pháp bắt Triều đình Huế phải xử, [COLOR=black]Thượng thư[/COLOR] bộ Học [COLOR=black]Hồ Đắc Trung[/COLOR] được ủy nhiệm thảo bản án. [COLOR=black]Trần Cao Vân[/COLOR] khi đó bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ Đắc Trung xin được lãnh hết tội và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 người [COLOR=black]Thái Phiên[/COLOR], [COLOR=black]Trần Cao Vân[/COLOR], [COLOR=black]Tôn Thất Đề[/COLOR] và [COLOR=black]Nguyễn Quang Siêu[/COLOR]. Bốn người bị chém đầu ở [COLOR=black]An Hòa[/COLOR]. Vua Duy Tân bị đày đi [COLOR=black]đảo La Réunion[/COLOR] ở [COLOR=black]Ấn Độ Dương[/COLOR] cùng với cha là vua [COLOR=black]Thành Thái[/COLOR] vào năm [COLOR=black]1916[/COLOR][/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]3 tháng 11[/COLOR] năm [COLOR=black]1916[/COLOR], gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở [COLOR=black]Cap Saint-Jacques[/COLOR]. Đến ngày [COLOR=black]20 tháng 11[/COLOR] họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại một người dân ở thành phố Saint-Denis.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình. Duy Tân ghi tên học về [COLOR=black]vô tuyến điện[/COLOR] và mở tiệm Radio - Laboratoire bán hàng sửa chữa máy. Đồng thời, ông thi [COLOR=black]tú tài[/COLOR] ở trường trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học. Duy Tân ít quan hệ với người Pháp, chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học [COLOR=black]cưỡi ngựa[/COLOR] và thắng nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo [I]Le Peuple[/I] (Dân chúng), [I]Le Progrès[/I] (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài [I]Variations sur une lyre briée[/I] (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm [COLOR=black]1924[/COLOR]. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Trong bài [I]Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân[/I] đăng trong [I]Revue France-Asie[/I], năm [COLOR=black]1970[/COLOR], tác giả E.P Thébault, một bạn thân của Duy Tân, ghi rằng: "[I]chỉ một lần – một lần mà thôi – trong bức thơ ngày [COLOR=black]5 tháng 6[/COLOR] năm [COLOR=black]1936[/COLOR] gởi cho Marius Moutet, Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc biến động 1916 và nói về vai trò của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp[/I]". Trong nhiều bức thư khác gởi cho Chính phủ Pháp từ [COLOR=black]1936[/COLOR] cho đến [COLOR=black]1940[/COLOR], để xin phục vụ trong [COLOR=black]Quân đội Pháp[/COLOR], ông không đả động đến vụ mưu loạn tại Việt Nam. Tất cả đơn đều bị bác vì Bộ Thuộc địa phê trong tờ lý lịch cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau này): "[I]...parait difficile à acheter, extrêmement indépendant...intrigue pour quitter la Réunion et rétablissement trône d'Annam...[/I]" (Có vẻ khó mua chuộc, rất độc lập, mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam...).[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]18 tháng 6[/COLOR] năm [COLOR=black]1940[/COLOR], [COLOR=black]Charles de Gaulle[/COLOR] kêu gọi chống [COLOR=black]Đức quốc xã[/COLOR]. Sự việc nước Pháp bại trận trong [COLOR=black]Chiến tranh thế giới thứ hai[/COLOR], đầu hàng phát xít [COLOR=black]Đức[/COLOR] và sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở [COLOR=black]Anh[/COLOR] trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Tuy "nước Pháp tự do" và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp, Duy Tân hưởng ứng và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo [COLOR=black]Chính phủ Vichy[/COLOR]) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba tháng với cấp bậc [COLOR=black]hạ sĩ[/COLOR] vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và [COLOR=black]đại tá[/COLOR] Alain de Boissieu. Bị giải ngũ vì lý do sức khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La Réunion là Capagory can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc [COLOR=black]binh nhì[/COLOR]. Một thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang [COLOR=black]châu Âu[/COLOR].[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]5 tháng 5[/COLOR] năm [COLOR=black]1945[/COLOR], có lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở [COLOR=black]Paris[/COLOR]. Duy Tân đến Pháp vào [COLOR=black]tháng 6[/COLOR] năm 1945 thì [COLOR=black]Đức[/COLOR] đã đầu hàng ngày [COLOR=black]8 tháng 5[/COLOR]. Ngày [COLOR=black]20 tháng 7[/COLOR] năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc điạ ([I]9ème DIC[/I]) đóng ở [COLOR=black]Forêt Noire[/COLOR], [COLOR=black]Đức[/COLOR].[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]29 tháng 10[/COLOR] năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: [COLOR=black]thiếu uý[/COLOR] từ 5 tháng 12 năm 1942, [COLOR=black]trung uý[/COLOR] từ 5 tháng 12 năm 1943, [COLOR=black]đại uý[/COLOR] tháng 12 năm 1944 và [COLOR=black]thiếu tá[/COLOR] ngày 25 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng vua Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm [COLOR=black]Đông Dương[/COLOR] của Pháp.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]14 tháng 12[/COLOR] năm 1945, [COLOR=black]Charles de Gaulle[/COLOR] tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập [I]Hồi ký chiến tranh[/I], tướng de Gaulle ghi: "[I]...Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam.[/I]"[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Trong tác phẩm [I]Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952[/I] sử gia [COLOR=black]Philippe de Villers[/COLOR] nhận xét: "[I][COLOR=black]Bảo Đại[/COLOR] đã thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính là nhân vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã đầu quân vào Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày chính kiến với Chính phủ Pháp và với một trung uý của Quân đoàn I sắp qua Đông Dương là ông Bousquet, cựu chánh văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard.[/I]"[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Một bạn thân của Duy Tân là [COLOR=black]E.P Thébault[/COLOR] kể lại trong bài [I]Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân[/I]: "[I]Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp, có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở khách sạn Louvres, trước hý viện Pháp. Ngài nói: "Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu tháng 3 (1946). Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ nữa.[/I]"[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Trong hồi ký [I]Bên giòng lịch sử Việt Nam 1940-1975[/I], linh mục [COLOR=black]Cao Văn Luận[/COLOR] ghi lại rằng mùa đông [COLOR=black]1944[/COLOR] và đầu năm [COLOR=black]1945[/COLOR], cùng với một số du học sinh Việt và [COLOR=black]Việt kiều[/COLOR], ông có tiếp xúc ba lần với Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích: "[I]Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong [COLOR=black]Liên Hiệp Pháp[/COLOR]. Điều đó không trái với quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì hơn trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại.[/I]"[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Duy Tân đã từng tâm sự: "[I]Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước Việt nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân [COLOR=black]Lạng Sơn[/COLOR], Huế, [COLOR=black]Cà Mau[/COLOR] ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào : cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia."[SUP][COLOR=black][2][/COLOR][/SUP][/I][/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]24 tháng 12[/COLOR] năm 1945, Duy Tân lấy [COLOR=black]phi cơ[/COLOR] Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ [COLOR=black]Bourget[/COLOR], Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày [COLOR=black]26 tháng 12[/COLOR] năm 1945, khoảng 18 giờ 30 [COLOR=black]GMT[/COLOR], máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, [COLOR=black]Cộng hoà Trung Phi[/COLOR]. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá [COLOR=black]hoa tiêu[/COLOR], hai trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đó có cựu hoàng Vĩnh San và bốn thường dân.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây cho khăn cho [COLOR=black]Anh[/COLOR] trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong [I]Destin tragique d’un Empereur d’Annam[/I], E.P Thébault viết: [I]"Ngày [COLOR=black]17 tháng 12[/COLOR] năm [COLOR=black]1945[/COLOR] – mười hôm trước khi tử nạn – Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe doạ. Khi cả hai đi ngang – lần chót – [COLOR=black]vườn Tuileries[/COLOR], cựu hoàng nắm tay Thébault nói: "Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu [COLOR=black]quan[/COLOR] nếu tôi bỏ ý định ấy."[/I][/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]28 tháng 3[/COLOR] năm [COLOR=black]1987[/COLOR], hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki, [COLOR=black]Trung Phi[/COLOR] về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại [COLOR=black]An Lăng[/COLOR], [COLOR=black]Huế[/COLOR], cạnh nơi an nghỉ của Thượng Hoàng Thành Thái, vào ngày [COLOR=black]6 tháng 4[/COLOR] năm 1987.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Ngày [COLOR=black]5 tháng 12[/COLOR] năm [COLOR=black]1992[/COLOR], thành phố Saint-Denis đảo La Réunion khánh thành một đại lộ mang tên ông: Đại lộ Vĩnh San.[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][B][I]Giai thoại về vua Duy Tân[/I][/B][/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Một lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên (hàng năm vua hay ra đây nghỉ mát), tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Vua vừa rửa vừa hỏi:[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua nói:[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Nước bẩn thì phải tìm cách trừ khử những chất ngoại lai lẫn vào trong đó, hiểu không?[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Một lần khác vua ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu. Thượng thư Nguyễn Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vua bèn ra câu đối: [I]Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần[/I].[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Nguyễn Hữu Bài nghĩ ngợi rồi đối lại: [I]Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó[/I]. Nghe đồn vua phê Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng và bảo: "Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới có ý nghĩa."[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][B][I]Con cái[/I][/B][/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Khi sang đảo La Réunion, Duy Tân có đem theo Hoàng phi [COLOR=black]Mai Thị Vàng[/COLOR], nhưng được hai năm bà xin về Việt Nam vì không chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở La Réunion, ông có chung sống với ba người vợ ngoài [COLOR=black]giá thú[/COLOR], vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly hôn. Những người con của ông đều mang họ mẹ. Các bà vợ và con cái:[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Bà Mai Thị Vàng, Đệ nhất giai phi, kết hôn ngày 16 tháng 1 năm 1916. Khi đi lưu đày theo chồng bà có mang 3 tháng và bị sảy thai. Năm 1925, cựu hoàng có gửi cho Hội đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn li dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà Vàng đi lấy chồng khác (lúc này bà 27 tuổi). Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến cuối đời (bà thọ 75 tuổi) và thường ngâm: [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][I]Gìn vàng giữ ngọc cho hay[/I] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][I]Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời[/I] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]hay[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][I]Đá dù nát, "Vàng" chẳng phai[/I] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][I]Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.[/I] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Bà Marie Anne Viale, sinh năm 1890. Có một con trai: [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Armand Viale sinh 1919. [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Bà Fermande Antier sinh năm 1913. Có tám người con, 4 trai 4 gái đều mang họ Antier: [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Thérèse sinh 1928 [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Suzy sinh 1929 [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Solange sinh 1930 [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Roger sinh 1938 [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Ginette sinh 1940 [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Bà Ernestine Maillot sinh năm 1924. Có một con gái: [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]- Andrée Maillot sinh 1945. [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Một tài liệu viết các con ông đều không nói được [COLOR=black]tiếng Việt[/COLOR] và có ít quan hệ với vua [COLOR=black]Thành Thái[/COLOR]. Duy Tân cũng không khuyến khích các con học tiếng Việt và tìm hiểu về Việt Nam. Đến năm [COLOR=black]1946[/COLOR], toà án thành phố Saint-Denis đồng ý cho các con của Duy Tân mang họ ông. Andrée Maillot và Armand Viale vẫn giữ họ cũ của mình. Năm người Suzy, Georges, Claude, Roger và Andrée đổi thành Georges Vĩnh San, Claude Vĩnh San...[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]Các con vua Duy Tân đều rửa tội theo lễ nghi [COLOR=black]Công giáo[/COLOR].[/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial][B][I]Chú thích[/I][/B] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]1. [I][B][COLOR=black]^[/COLOR][/B][/I] Có tài liệu ghi ông sinh 14 tháng 8 năm 1899. [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial]2. [I][B][COLOR=black]^[/COLOR][/B][/I] Hoàng Trọng Thược. [I]Hồ sơ vua Duy Tân[/I], nhà xuất bản Thanh Hương, California, Mỹ. 1994. [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT]nguồn : sưu tầm [FONT=arial] [/FONT] [FONT=arial] [/FONT][FONT=arial][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Tiểu sử cuộc đời Duy Tân hoàng đế( 1907-1916)
Top