• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Tiểu sử Bạch Cư Dị

  • Thread starter Thread starter vosong
  • Ngày gửi Ngày gửi

vosong

New member
Xu
0
Bạch Cư Dị 白居易 (772-846)
58.jpg


Tiểu sử tác giả

Bạch Cư Dị 白居易, tức Lạc Thiên (772-846) nhà thơ Trung Quốc tiêu biểu nhất giai đoạn cuối đời Đường. Người Hạ Khê (nay thuộc Thiểm Tây). Xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ. Ông nhà nghèo, rất thông minh, 9 tuổi đã hiểu âm vận, chăm học, làm quan đến chức Thái tử tả tán thiện đại phu. Ông là một đại thi nhân ngang với Nguyên Trực, thơ ông lời lẽ rất bình dị, tác phẩm của ông đầy đủ nhất là tập Bạch thị trường khánh, gồm 71 quyển, trong đó có hơn 40 quyển là thơ.

Bạch Cư Dị (772-846) tên chữ là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, người Hạ Thành (nay là Thiểm Tây). Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động.

Năm Trinh Nguyên ông thi đậu tiến sĩ được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Bởi mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào Tham Quân ở Kinh Triệu rồi lại được triệu về kinh lo răn dạy Thái Tử.

Năm Nguyên Hòa thứ 10 (Đường Hiến Tông), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, đám quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm Tư Mã Giang Châu. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.

Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân.

Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần trung ngâm, Tân nhạc phủ).

Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn).

Bạch Lạc Thiên chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự.

Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ.... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn.

Riêng hai bài Tỳ bà hành và Trường hận ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo, bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy - người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.

Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái.

Ông để lại hàng ngàn bài thơ.

Nguồn: Sài Môn Thi Đàn
 
Trường Hận Ca

Bản dịch của Tản Đà

Đức vua Hán mến người khuynh quốc,
Trải bao năm tìm chuốc công tai (1).
Nhà Dương có gái mới choai,
Buồng xuân khóa kín chưa ai bạn cùng (2)
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc,
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên.
Một cười trăm vẻ thiên nhiên,
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son.
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm,
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa.
Vua yêu bận ấy mới là,
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay!
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái,
Màn phù dung ân ái (3) đêm xuân.
Đêm xuân vắn vủn có ngần,
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra.
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi,
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm.
Ba nghìn xinh đẹp chị em,
Ba nghìn yêu quí chất nêm một mình.
Nhà vàng đúc đêm thanh ôm ấp,
Lầu ngọc cao, say ắp bầu xuân (4)
Anh em sướng đủ mọi phần,
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai.
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết,
Làn gió đưa cao tít Ly cung.
Suốt ngày múa hát thung dung,
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương.
Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến,
Khúc Nghê Thường tan biến như không.
Chín lần thành khuyết bụi tung,
Nghìn xe muôn ngựa qua vùng tây nam.
Đi lại đứng hơn trăm dặm đất,
Cờ thúy hoa bóng phất lung lay.
Sáu quân dùng phất lung lay.
Sáu quân dùng dắng làm rầy,
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất,
Ôi! thúy kiều ngọc nát vàng phai.
Quân vương bưng mặt cho rồi,
Quay đầu trông lại, máu trôi lệ giàng.
Gió tung bụi mê man tản mác,
Đương thang mây Kiếm Các lần đi,
Vắng tanh dưới núi Nga My,
Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh.
Đất Ba Thục non xanh nước biếc,
Lòng vua cha thương tiếc hôm mai.
Thấy trăng luống những (5) đau người.
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông.
PHút trời đất quay cuồng vận số,
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa.
Đất bùn chổ chết còn trơ,
Thấy đâu mặt ngọc? bây giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ,
Gióng dây cương ngựa tế về đông.
Cảnh xưa dương liễu, phù dung,
Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười.
Phù dung đó! Mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.
Xuân đào lý gió êm (6) huê nở,
Thu khi (7) mưa rụng lá ngô đồnng,
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung,
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Vườn lê cũ những ai con hát,
Mái tóc coi tắng phớt lạ lùng.
Những ai coi giữ tiêu phòng?
Mày xanh thử ấy nay cùng già nhăn.
Trước cung điện nhìn sân đêm tối,
Đom đóm bay gợi mối u sầu.
Ngọn đèn khêu đã cạn dầu,
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống,
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa.
Sông Nhân lấp lánh sao thưa,
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?
Trên mái ngói, sương rơi ướt lạnh,
Trong chăn nằm, bên cạnh nào ai?
Cách năm sống thác đôi nơi,
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã,
Chơi Hồng Đô phép lạ (8) thần thông.
Xót vì vua chúa nhớ nhung,
Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay.
Cưỡi luồng gió như bay như biến,
Trên trời xanh dưới đến đất đen.
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền,
Dưới trên tìm khắt, mơ huyền thấy chi!
Sực nghe nói, tìm đi mé bể,
có non tiêu ngoài phía hư không.
Rỡ ràng (9) cung điện linh lung,
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử,
Một nàng tiên tên chữ Thái Chân.
Mặt hoa da tuyết trắng ngần,
Dáng (10) như người ấy có phần phải chăng?
Mái tây gõ cửa vàng then (11) ngọc,
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành.
Nghe tin sứ giả Hán đình,
Cửu hoa trong trướng giật mình giấc mơ.
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực.
Mở rèm châu bình bạc lần ra.
Bâng khuâng nửa mái mây tà,
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu.
Phới tay áo bay màu trước (12) gió,
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa.
Lệ giàn mặt ngọc lưa thưa,
Cành lê hoa chíu (13) hạt mưa xuân đầm.
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã.
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương.
Từ ngày cách trở đôi phương,
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong.
Nơi đế điện dứt vòng ân ái,
Chốn tiên cung thư thái tháng ngày.
Cõi trần ngoảnh lại mà hay,
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thâm thú (14)?
Gửi cành thoa vật cũ cầm (15) xuôi.
Thoa vàng hộp khảm phân đôi.
Nửa xin để lại, nửa thời đem đi.
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc.
Tựa thoa vàng bền chặt (16) không phai.
Thời cho chách trở đôi nơi,
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau.
Ân cần dặn mấy câu lâm biệt,
Lời thề xưa lòng biết với lòng.
Nửa đêm (17) Trùng thất trăng trong (18)
Trường Sinh sân điện vắng không bóng người.
Xin kết nguyện chim trời liền cánh,
Xin làm cây cành nhánh liền nhau.
Thấm chi trời đất dài lâu.
Giận này (19) dằng dặc dễ hầu có nguôi...

Tản Đà
Tháng 12-1934
Việt Nam Văn chương Trích diễm 1961

Chú thích:

1. Toi
2. Biết
3. Êm ái
4. Mùa xuân
5. đã
6. Đêm
7. Kia
8. Hoá
9. Rõ ràng
10. Dễ
11. Khoá
12. Ngọn
13. Chĩu
14. Thăm thú
15. Đem
16. Chắc
17. Là đêm
18. Ngồi chung
19. Hờn đâu
 
Tỳ bà hành

Thể thơ: Hành (thời kỳ: Trung Đường)

Lời tựa

Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận Tư mã. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc bãi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tuỵ, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch, thuỷ giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.

Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức Tư Mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng "Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)". Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 lời, gọi là Tỳ bà hành.

Bản dịch Trần Trọng Kim

Đêm đưa khách bến Tầm dương,
Gió thu san sạt lá vàng bông lau.
Người xuống ngựa, khách đón chào,
Rượu kèo mời uống có đâu sáo đàn.
Chén suông ngán nỗi hợp tan,
Trăng sông man mác, chứa chan nỗi lòng.
Tiếng tì chợt vẳng trên sông,
Chủ quên trở lại, khách không vội về.
Lần tìm sẽ hỏi ai kia,
Tiếng đàn nín bặt, người e ngỏ lời.
Ghé thuyền đến cạnh chào mời,
Khêu đèn thêm rượu, lại bày tiệc hoa.
Nằn nì mời mãi mới ra,
Ôm đàn che nửa, mặt hoa thẫn thờ.
Ướm dây vặn trục dạo qua,
Chưa thành khúc điệu, thiết tha hữu tình.
Đắn đo, nắn nót, rõ rành
Dường như tố cáo bình sinh nỗi buồn.
Dang tay cúi mặt gảy luôn,
Xiết bao tâm sự như tuôn mạch sầu.
Tiếng đàn đi tựa thấp cao,
Nghê Thường vừa dứt, lại vào Lục yêu.
Dây to sầm sập mưa dào,
Nỉ non dây nhỏ, thì thào nỗi tây.
Nhặt thưa réo rắt mấy dây,
Hạt châu to nhỏ rơi đầy trên mâm.
Trong hoa ríu rít oanh ngâm,
Cuối ghềnh nước suối réo ngầm bãi khơi.
Tiếng đàn, suối lạnh không trôi,
Không trôi ngập ngừng, tạm thôi nhịp nhàng.
Lắng nghe sầu oán ngổn ngang,
Bấy giờ lặng lẽ, lại càng hay hơn.
Nước tuôn bình bạc vỡ tan,
Giáo gươm thiết kỵ tiếng ran rợn người.
Khúc xong gảy một tiếng dài,
Bốn dây một tiếng như ai xé là.
Đông tây thuyền lặng như tờ,
Giữa sông bóng sáng thẫn thờ gương nga.
Trên dây cày móng ngẩn ngơ,
Dung y chỉnh đốn, đứng xa phân trình.
Kể rằng xưa ở kinh thành,
Hà Mô lăng ấy gần quanh là nhà.
Học đàn từ thửa mười ba,
Giáo phường đệ nhất, tiếng đà đồn xa.
Thiện tài phục ngón tỳ bà,
Thu nương tấm tức, khi đà giồi trau.
Ngũ lăng tuổi trẻ đua nhau,
Đàn xong một khúc biết bao khăn điều.
Lược trăm gõ nhịp gãy nhiều,
Chén mời, giọt rượu quần điều ố hoen.
Năm qua năm lại bao phen,
Xuân thu trăng gió đã quen vui vầy.
Nỗi buồn dì chết em đày,
Sớm chiều thấm thoắt, mặt mày kém xuân.
Ngựa xe lẻ tẻ trước sân,
Về già lấy một thương nhân bạn bè.
Trọng tài lợi, nhẹ biệt ly,
Phu lương tháng trước chồng đi buôn chè.
Một mình nấp bóng chiếc ghe,
Quanh thuyền nước lạnh trăng kề vẩn vơ.
Đêm qua mộng thấy chuyện xưa,
Lệ rơi tầm tã, mắt mờ đỏ hoen.
Tiếng tì đã gợi nỗi phiền,
Lại nghe mụ nói, chẳng yên nỗi lòng.
Cùng nhau góc bể long đong,
Gặp nhau lọ phải đã cùng quen nhau
Đế kinh từ biệt bấy lâu,
Tầm Dương bị chích lại đau bấy chầy.
Có đâu âm nhạc chốn này,
Suốt năm tơ trúc chẳng ngày nào nghe.
Bến Bồn đất thấp ở kề,
Lau vàng trúc cỗi bao vi bốn bề.
Sớm chiều nghe tiếng vật gì,
Cuốc kêu vượn hú, ùa bi đêm ngày.
Xuân thu hoa nguyệt khoả khuây,
Thường thường chuốc chén lại say một mình.
Ca rừng sáo nội đã đành,
Liu lo ríu rít nào mình có hay.
Tì bà giọng ấy đêm nay,
Nghe như tiên nhạc bên tai rach ròi.
Gảy thêm khúc nữa hãy ngồi,
Tì bà hành sẽ vì ai đặt thành.
Cảm lời, đứng lúc lặng thinh,
Lại ngồi lựa ngón, lanh lanh gảy bài.
Véo von khác trước một hồi,
Những người ngồi đó lệ rơi ngắn dài.
Khóc nhiều hơn cả là ai,
Giang Châu tư mã đẫm mùi áo xanh.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top