I. Thực trạng việc dạy – học Ngữ văn hiện nay:
1. Đối với việc dạy của giáo viên:
- Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà giáo viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho học sinh hướng tích cực chủ động để thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết (ham nói). Điều này cũng do một phần vì giáo viên sợ “cháy” giáo án (Giáo viên hỏi nhưng học sinh không trả lời được hoặc học sinh vẫn phát biểu nhưng chưa ra vấn đề, cho nên giáo viên làm thay).
- Tuy nhiên, vẫn còn những GV thật sự tâm huyết với nghề, mong muốn đem lại cho HS những kiến thức, những bài thơ, áng văn mà mình tâm đắc. Bên cạnh đó cũng có giáo viên đã xuất hiện tâm lí chán nản, buông xuôi, không có động lực để trau dồi chuyên môn, tạo sức ỳ lớn trong tư duy đổi mới, cải tiến phương pháp giảng dạy.
2. Đối với việc học của học sinh:
*Những điểm sáng:
- Vẫn còn học sinh thích học văn, mê văn – tuy số này không nhiều.
- Vẫn có học sinh giỏi văn, vẫn có những bài viết hay của học sinh.
*Những tồn tại:
-Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, lười suy nghĩ. Chỉ biết suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở. Học sinh chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá khó khăn.
- Học sinh hiện nay rất lười, bài không soạn. Khi hỏi có em thản nhiên trả lời: “để quên ở nhà”, thầy cô bảo cho về lấy thì các em lấy lý do là nhà ở xa, v.v...Cũng có em soạn bài với tính cách đối phó bằng cách chép từ các sách “học tốt” nhưng khi hỏi thì không hiểu gì.Vở ghi chép lung tung, có bài ghi một phần rất nhỏ xong để đấy, đa số ghi chữ được chữ chăng, không chú ý nghe giảng, thích cười đùa nói chuyện, làm việc riêng, ý thức học tập rất yếu. Mặc dù giáo viên bộ môn cũng như giáo viên chủ nhiệm đã có những biện pháp đối với những học sinh nhưng rồi đâu cũng vào đấy. Thói quen học tập thụ động, đối phó của học sinh là một rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học.
- Nổi bật là tình trạng chán học văn ở học sinh. Học sinh thiếu nhiều về kiến thức ngữ văn, rất ít học sinh đọc sách để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương, biết rung động trước những tác phẩm văn học hay. Do vậy khi làm bài, học sinh thường suy luận chủ quan, thô tục hoá văn chương. Ngoài những lỗi trên thì tình trạng học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Đó là tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả, tác phẩm, nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác…
- Phụ huynh học sinh cũng không tha thiết với việc học văn của con em, cụ thể như sẵn sàng đầu tư vào các môn: Toán lý hóa anh, thậm chí cho con học thêm 2, 3 thầy nhưng với môn văn lại coi thường, không cho con thi học sinh giỏi văn, ngay cả cho vào đội tuyển học sinh giỏi cũng không muốn.
-Xã hội coi thường môn văn; các trường khối AB rất nhiều nhưng nếu thi ĐH thì khối C rất ít trường nên tình trạng học văn càng tệ. Kết quả là chất lượng môn văn không cao.
-Chương trình, nội dung dạy với nhiều bài không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại, xa lạ với học sinh, gây khó hiểu.
II. Những giải pháp đổi mới phương pháp, đổi mới dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giánhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường phổ thông:
1.Đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học:
- Giáo viên phải có ý thức từng bước chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thụ kiến thức một chiều sang phương pháp dạy học mới, trong đó học sinh dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh bài văn, tự rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa. Có như vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người “đồng sáng tạo” với tác giả.
- Vận dụng nhiều phương pháp dạy học vào giảng dạy Ngữ văn. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong vận dụng các phương pháp giảng dạy trong soạn giảng và lên lớp. Vận dụng công nghệ thông tin một cách hợp lí và có tác dụng vào giảng dạy. Vận dụng các phương tiện hiện đại vào giảng dạy.
- Nên vận dụng tối đa phương pháp dạy học tích cực, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công.
- Giảm tải chương trình, thay đổi một số TP văn học, sắp xếp các phần sao cho phù hợp với trình độ HS, VD: lớp 6,7 học văn miêu tả, tự sự; lớp 8,9: học văn thuyết minh, nghị luận.
- Trang bị đầy đủ cơ vật chất (máy chiếu)để đưa CNTT vào giờ học, đưa các ngành học có môn văn vào nhiều khoa, nhiều trường ĐH.
2. Đẩy mạnh đổi mới kiểm tra đánh giá:
- Đề kiểm tra phải kết hợp hài hoà giữa những gì học sinh được học và những gì là sáng tạo riêng của người học. Đề nên kết hợp dạng đề thi thông thường và đề “mở”; cần có cả hai loại là đề nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Nội dung đề thi cần cải tiến theo hướng phát huy tính tư duy, óc sáng tạo của người học, tránh lối học vẹt, học thuộc lòng…
- Đối với môn tập làm văn, tốt nhất nên ra đề theo hướng “mở”, nhưng mở như thế nào để phù hợp với trình độ, đối tượng của học sinh ở tất cả các vùng miền. Đề bài mở có ưu thế là tạo cho học sinh có sự độc lập sáng tạo trong quá trình tạo lập văn bản. Có như thế, học sinh mới có cơ hội bộc lộ những ý kiến, cảm xúc, suy tư rất cá nhân con người của mình. Và do đó mà bài viết của học sinh không bị lệ thuộc, bắt chước hay ám ảnh bởi các bài văn mẫu đang tràn lan trên thị trường sách hiện nay…Đồng thời học sinh có ý thức hơn trong việc tiếp thu bài một cách tích cực, và ý thức hơn trong việc nhìn nhận, tìm hiểu về cuộc sống thiên nhiên và cuộc sống con người của chúng ta ngày nay.
- Ra đề bài môn Ngữ văn theo hướng “mở” không phải đơn giản, nhưng ra như thế nào để đề bài không quá khó đối với học sinh, vừa huy động được nhiều đơn vị kiến thức lại vừa có tính khoa học, tính chính xác và tính hàm súc, khơi gợi hứng thú làm bài cho học sinh. Không nên ra đề theo kiểu đánh đố xa rời với phạm vi kiến thức và cuộc sống của học sinh hoặc khai thác lại những đề bài của sách giáo khoa, sách tham khảo.
- Đối với kiểu đề là câu hỏi tự luận nên ra những câu hỏi ở dạng tư duy thấp hoặc cao. Trên cơ sở học sinh đã nhận biết, thông hiểu qua phần đọc-hiểu văn bản, bây giờ học sinh có thể nêu lên những cảm nhận, suy nghĩ, cảm xúc… của mình. Từ đó giáo viên mới đánh giá được sự tiếp thu của học sinh ở mức độ nào.
- Đối với kiểu đề trắc nghiệm khách quan phải đảm bảo một cách khoa học về số lượng câu hỏi, trên cơ sở thời gian dành cho việc kiểm tra, đảm bảo về độ khó vừa phải để học sinh chăm chỉ học tập có thể đạt điểm khá trở lên và có câu phân hoá để phân loại được học sinh khá, giỏi. Đề phải sử dụng phong phú các hình thức câu hỏi trắc nghiệm thông dụng như: Câu TN nhiều lựa chọn, Câu TN đối chiếu cặp đôi, Câu TN điền khuyết, Câu TN trả lời ngắn… không nên đơn thuần sử dụng một loại duy nhất.
Trên đây là một vài ý kiến của chúng tôi về thực trạng dạy-học Ngữ văn ở trường phổ thông và đề xuất giải pháp đổi mới dạy-học, đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng dạy-học Ngữ văn ở trường phổ thông. Tuy chưa thật đầy đủ nhưng cũng góp tiếng nói chung để cùng tìm ra những giải pháp tối ưu, nhằm thực hiện mục tiêu dạy học Ngữ văn hiện nay./.
THCS Nguyễn Hiền