Hợp đồng là thoả thuận giữa các bên làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích hợp pháp mà họ mong muốn. Khi giao kết, các bên phải tôn trọng một số điều kiện. Thực tế cho thấy, nhiều hợp đồng đã không tôn trọng một trong những điều kiện này và bị tuyên bố vô hiệu. Theo pháp luật của Việt Nam cũng như của nhiều nước, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nhưng trong một số trường hợp, việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được vì nhiều lý do như tài sản đã được tiêu thụ, bị mất, bị bán lại cho người khác.
Theo pháp luật của Anh, Êcốt và Ailen, khi không thể hoàn trả được bằng hiện vật, quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng không còn nữa. Tuy nhiên theo pháp luật của các nước Châu Âu lục địa, trong những trường hợp như vậy, hợp đồng vẫn có thể bị tuyên bố vô hiệu và việc hoàn trả được thanh toán bằng giá trị tương đương. Giải pháp này cũng được thừa nhận trong một số Bộ quy tắc về hợp đồng. Ví dụ, theo Điều 4:115 của Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, “nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được thì hoàn trả bằng một khoản tiền hợp lý”. Tương tự, theo Điều 3.17 Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit, “những gì không thể hoàn trả được bằng vật chất thì phải được hoàn lại bằng giá trị”. Khi không thể hoàn trả bằng hiện vật, việc hoàn trả bằng giá trị cũng được thừa nhận ở Việt Nam. Theo Điều 39, khoản 2, điểm a, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, “trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền” và, theo Điều 137, khoản 2, BLDS (2005), “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”.
Như vậy, cũng như pháp luật của nhiều nước, theo pháp luật Việt Nam, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Bộ luật dân sự và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định như vậy nhưng lại không nêu rõ khi nào “không hoàn trả được bằng hiện vật” và “hoàn trả bằng tiền” được hiểu là bao nhiêu. Do văn bản pháp luật không quy định rõ hai khái niệm này nên, trong thực tế, Tòa án Việt Nam đã giải quyết theo hướng buộc các bên thực hiện hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi tài sản được giao phù hợp với nội dung của hợp đồng: ở đây tài sản đã được giao, khoản tiền đã nhận không phải hoàn trả lại và khoản tiền chưa thanh toán theo hợp đồng phải tiếp tục được thanh toán. Việc giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng mua bán lắp đặt dây chuyền chế biến cà phê sau đây cho thấy điều vừa nêu[1]
Ngày 04/09/1997, Công ty cà phê Easim và Công ty ô tô Đắk Lắk cùng nhau ký kết hợp đồng kinh tế số 39/HĐKT. Theo hợp đồng, Công ty ô tô Đắk Lắk nhận chế tạo hệ thống chế biến cà phê cho Công ty cà phê Easim; tổng giá trị hợp đồng là 948.000.000 đồng. Hai bên đã ký biên bản nghiệm thu bàn giao công trình; Công ty cà phê Easim đã thanh toán 821.376.000 đồng và hiện còn nợ Công ty ô tô Đắk Lắk 126.600.000 đồng. Các bên có tranh chấp và Tòa án đã tuyên hợp đồng vô hiệu. Theo Tòa án nhân dân tối cao, “tại thời điểm ký hợp đồng số 39/HĐKT, cũng như trong quá trình thực hiện hợp đồng và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, việc Tòa án cấp phúc thẩm kết luận hợp đồng kinh tế số 39/HĐKT vô hiệu toàn bộ là phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế” (Quyết định 04/2004 nêu trên). Về việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn phần, chúng tôi không đi vào bình luận. Ngược lại, chúng tôi sẽ phân tích, bình luận việc giải quyết hậu quả của hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
Sau khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn phần, Tòa phúc thẩm “buộc Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk phải hoàn trả số tiền đã nhận là 821.376.000 đồng cho Công ty cà phê Easim và buộc Công ty cà phê Easim phải hoàn trả hệ thống dây chuyền chế biến cà phê tươi, sấy cà phê cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk”. Như vậy, Tòa phúc thẩm đã áp dụng nguyên tắc chung của việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì mình đã nhận trong quá trình thực hiện hợp đồng. Giải pháp này không được Tòa án tối cao chấp nhận. Theo Tòa án tối cao, việc giải quyết của Tòa phúc thẩm “là không đúng với hướng dẫn tại điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/05/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì hai dây chuyền cà phê này đã được Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk chế tạo, lắp đặt từ năm 1997; ngày 08/06/1999 hai bên đã lập tờ trình số 66/TT gửi Tổng công ty cà phê Việt Nam với nội dung: xin hoàn thiện một số chi tiết thiết bị và giúp cho hai đơn vị có điều kiện thanh toán kinh phí đã đầu tư thi công công trình. Tại tờ trình này hai bên đều khẳng định: “Đánh giá chất lượng sản phẩm: chất lượng chế biến đạt yêu cầu xuất khẩu, vụ chế biến 1998 -1999 chế biến được100 tấn cà phê nhân thóc khô và đã được bán...”. Mặt khác, tại biên bản nghiệm thu thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký. Như vậy, hai dây chuyền cà phê này đã được Công ty cà phê Easim đưa vào khai thác, sử dụng và chế biến được cà phê để xuất bán; do đó, không thể coi hai dây chuyền cà phê đã lắp đặt tại Công ty cà phê Easim chưa được đưa vào khai thác, sử dụng, được bảo quản nguyên vẹn như Bản án kinh tế phúc thẩm số 03/2003/KTPT ngày 01/08/2003 đã nhận định.
Đối với Tòa án tối cao, “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký” và, do đó, tài sản coi như “đã được đưa vào khai thác, sử dụng”; vì vậy, đây là trường hợp “không thể hoàn trả được bằng hiện vật” theo điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán2. Như vậy, Nghị quyết số 04/2003 coi trường hợp tài sản “đó được đưa vào khai thác, sử dụng” là một trường hợp “không hoàn trả được bằng hiện vật” và Quyết định số 04/2004 coi trường hợp “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký” là một trường hợp tài sản “đó được đưa vào khai thác, sử dụng”. Từ đó chúng ta thấy, dựa vào hai lần giải thích, cụ thể là giải thích trong Nghị quyết số 04/2003 cụm từ “không hoàn trả được bằng hiện vật” của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và giải thích trong Quyết định số 04/2004 cụm từ “đó được đưa vào khai thác, sử dụng” của Nghị quyết số 04/2003, Tòa án tối cao không buộc các bên hoàn trả lại cho nhau tài sản đã được giao nhận mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu: tài sản nhận từ hợp đồng vô hiệu được sử dụng như trường hợp hợp đồng không bị tuyên bố vô hiệu.
Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Bộ luật dân sự Việt Nam, “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Khoản tiền phải hoàn trả do không hoàn trả được tài sản bằng hiện vật cần được xác định như thế nào? Kinh nghiệm trong pháp luật nước ngoài cho thấy đây là một vấn đề không đơn giản. Theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng viện dẫn ở trên, trong trường hợp như trên thì cần phải trả một khoản tiền “hợp lý”. Khi nào thì có thể coi đây là một khoản tiền “hợp lý”? Bộ nguyên tắc trên không cho lời giải đáp. Trong thực tế pháp lý Pháp, một số Tòa phúc thẩm đã buộc bên nhận tài sản mà hiện nay không hoàn trả được thanh toán cho bên kia giá của tài sản này. Cách giải quyết như vậy không được Tòa án tối cao Pháp chấp nhận. Ví dụ, trong một bản án ngày 12/12/1979, Phòng dân sự số 1 Tòa án tối cao Pháp hủy một bản án phúc thẩm đã giải quyết như trên bởi, theo Tòa án tối cao Pháp, cách giải quyết đó “dẫn đến thực hiện hợp đồng vô hiệu”. Về vấn đề này trong vụ việc chúng ta đang nghiên cứu, Tòa phúc thẩm buộc Công ty ô tô Đắk Lắk hoàn trả cho Công ty cà phê Easim những gì mình nhận được như quy định chung về hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Nhưng theo Tòa án tối cao, “trong trường hợp này, Công ty cà phê Easim phải thanh toán số tiền còn thiếu theo hợp đồng cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk”. Cụ thể, Tòa án tối cao “buộc Công ty cà phê Easim phải thanh toán trả cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk số tiền còn thiếu theo hợp đồng là 120.600.000 đồng”. Như vậy, theo Tòa án tối cao, không những Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk không phải hoàn trả khoản tiền mình đã nhận mà còn được nhận khoản tiền chưa được thanh toán theo hợp đồng.
Phần trình bày trên cho thấy, mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu toàn phần, bên đã nhận tài sản không phải hoàn trả lại tài sản đã nhận và bên nhận tiền theo hợp đồng không những không phải hoàn trả lại khoản tiền đã nhận mà còn được nhận khoản tiền chưa được thanh toán theo hợp đồng. Nói một cách khác, các bên vẫn phải tôn trọng những gì quy định theo hợp đồng mặc dù Tòa án đã tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu toàn phần. Để đạt được kết quả này, chúng ta thấy Tòa án tối cao đã dựa vào việc giải thích hai cụm từ “không hoàn trả được bằng hiện vật” và “phải hoàn trả bằng tiền”. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp đã phải chuyển trụ sở sản xuất và do đó phải chuyển thiết bị máy móc đến trụ sở mới. Công việc này khó khăn nhưng khó có thể nói là không thể thực hiện được. Do vậy, về mặt kỹ thuật, việc Tòa án tối cao cho rằng dây chuyền có tranh chấp “không hoàn trả được bằng hiện vật” là không thuyết phục. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng giải pháp của Tòa án tối cao là chấp nhận được và nên coi đây là bản án thiết lập một án lệ cho những vụ việc tương tự. Bởi, các bên trong hợp đồng đã nhận được lợi ích mà họ mong đợi từ hợp đồng. Cụ thể, như Tòa án tối cao đã nêu, Công ty cà phê Easim đã có được “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký”. Khi các bên đã đạt được những lợi ích mà họ mong đợi từ hợp đồng, thiết nghĩ không cần thiết phải buộc họ hoàn trả lại những gì đã nhận mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu nếu như việc tôn trọng nội dung hợp đồng này không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba hay lợi ích chung. Đối với ví dụ đang được phân tích, Công ty cà phê Easim đã nhận được những gì mong đợi từ hợp đồng và việc không hoàn trả lại tài sản đã nhận không làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người thứ ba hay lợi ích chung. Vì vậy, việc buộc các bên tôn trọng hợp đồng mặc dù bị tuyên bố vô hiệu là chấp nhận được. Vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng kinh tế, thiết nghĩ giải pháp trên cũng nên áp dụng đối với những hợp đồng khác, ví dụ như hợp đồng thương mại. Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu ở đây là do một bên chưa có đăng ký kinh doanh, thiết nghĩ việc thực hiện hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu như đã phân tích cũng có thể được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng không tôn trọng những quy định về hình thức hay đối với hợp đồng lao động mà một bên đã không có giấy phép.
Cần nói thêm là việc buộc các bên tôn trọng hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi bên nhận tài sản hay dịch vụ đã đạt được những lợi ích mà họ mong đợi như vừa trình bày không phải là một đặc thù của Việt Nam. Ở Pháp, trong những trường hợp tương tự, Tòa án cũng đã không buộc các bên hoàn trả lại những gì họ đã nhận được nếu như việc tôn trọng nội dung hợp đồng không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba hay lợi ích chung. Xin dẫn một vài ví dụ. Ví dụ thứ nhất liên quan đến tranh chấp một hợp đồng mà theo đó Công ty A cử người lao động của mình đến Công ty B. Theo pháp luật của Pháp, hợp đồng này phải được soạn thảo bằng văn bản nhưng các bên đã không làm; và, do đó, hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Trong vụ việc này, Công ty B đã nhận được người lao động như đã thỏa thuận trong hợp đồng nhưng lại chưa thanh toán khoản tiền còn lại cho Công ty A. Theo Tòa án tối cao Pháp (Tòa lao động ngày 7 tháng 11 năm 1995), Công ty B phải thanh toán cho Công ty A khoản tiền đã quy định trong hợp đồng. Như vậy, hợp đồng bị tuyên là vô hiệu nhưng các bên vẫn phải thực hiện những gì quy định trong hợp đồng. Ví dụ thứ hai liên quan đến việc chuyển nhượng quyền khai thác sáng chế công nghiệp, chẳng hạn như Công ty A chuyển nhượng quyền khai thác một sáng chế của mình cho Công ty B. Sau khi hợp đồng được ký kết, sáng chế bị tuyên là không được pháp luật bảo vệ và do đó hợp đồng chuyển nhượng bị coi là vô hiệu. Vấn đề đặt ra là Công ty A có phải hoàn trả lại cho Công ty B những khoản tiền đã nhận theo hợp đồng hay không? Theo nguyên tắc chung của hợp đồng vô hiệu thì việc hoàn trả này phải được thực hiện. Tuy nhiên theo Tòa án tối cao Pháp, Công ty A không phải hoàn trả lại cho Công ty B những khoản tiền thù lao đã nhận mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi Công ty B đã nhận được lợi ích mà mình mong đợi từ hợp đồng.
Trong thực tế, một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là vì họ không muốn thực hiện đầy đủ những gì mà hợp đồng buộc họ phải làm. Ví dụ, một bên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì không muốn thanh toán khoản tiền đã thoả thuận trong hợp đồng và/hay không muốn những tài sản mà mình đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng do không còn nhu cầu nữa hay do có tài sản mới trên thị trường hấp dẫn hơn. Vậy, khi chúng ta buộc các bên phải thực hiện hợp đồng mặc dù bị tuyên bố vô hiệu thì có nguy cơ là các bên trong hợp đồng không có ý định đến Tòa án yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Do đó chúng ta không biết được việc vi phạm trong quá trình giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, phân tích kỹ Quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao, chúng ta thấy vẫn tồn tại “món quà” thúc đẩy một bên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong vụ việc được phân tích, Công ty cà phê Easim đã không thanh toán theo hợp đồng và còn phải thanh toán cho Công ty ô tô 126.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc Công ty cà phê Easim phải trả lãi cho Công ty ô tô Đắk Lắk 28.293.000 đồng. Nhưng theo Tòa án tối cao, trong trường hợp này, Công ty cà phê Easim “không phải chịu tiền lãi do chậm thanh toán”. Như vậy, Công ty cà phê Easim vẫn có lợi khi yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu: họ không phải thanh toán khoản tiền lãi do chậm thanh toán. Tuy nhiên, để thúc đẩy một bên yêu cầu sớm Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu (và do đó chúng ta phát hiện sớm việc vi phạm), phải chăng nên quy định là lãi vẫn được tính cho đến ngày Tòa án được yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, chỉ sau ngày này lãi do chậm thanh toán mới không được tính?
Vì hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu nhưng cuối cùng các bên vẫn phải tôn trong hợp đồng, một vấn đề không được đề cập trong tranh chấp nhưng có nhiều khả năng sẽ xảy ra khi giải pháp này được phổ biến áp dụng là hoàn cảnh của người bảo lãnh. Để hiểu đơn giản, chúng ta giả thiết rằng, Ngân hàng A đã đứng ra bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán khoản tiền theo hợp đồng của Công ty cà phê Easim (người được bảo lãnh là Công ty cà phê Easim và người nhận bảo lãnh là Công ty ô tô Đắk Lắk). Ngân hàng A có tiếp tục phải bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán của Công ty cà phê Easim nữa không? Theo một nhà bình luận Bộ luật dân sự Việt Nam, “nếu nghĩa vụ được bảo lãnh vô hiệu thì nghĩa vụ bảo lãnh, trên nguyên tắc, sẽ biến mất”. Ở đây hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu toàn phần nên, nếu theo quan điểm này, nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hành A sẽ biến mất. Nhưng theo chúng tôi, trong những trường hợp như đang nghiên cứu, nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng A không biến mất. Bởi, nghĩa vụ thanh toán khoản tiền theo hợp đồng của Công ty cà phê Easim vẫn tồn tại. Như vậy, nếu Công ty cà phê Easim không thanh toán khoản tiền theo hợp đồng, Công ty ô tô Đắk Lắk vẫn có thể yêu cầu Ngân hàng A thanh toán thay cho Công ty cà phê Easim bởi, theo Điều 361 BLDS, “bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Tóm lại, phần trình bày vừa rồi cho thấy Tòa án nước ta đã “cứu” một hợp đồng vô hiệu khi hợp đồng đem lại lợi ích hợp pháp mà các bên mong đợi khi giao kết. Đây không hẳn đã là một đặc thù của Việt Nam. Ở Pháp, Tòa án cũng thường xuyên bằng cách này hay cách khác “bảo vệ” những hợp đồng mà việc ký kết không tuân thủ đầy đủ những điều kiện nhưng vẫn mang lại cho các bên lợi ích hợp pháp mà họ mong đợi. Thiết nghĩ đây là một giải pháp hợp lý. Hy vọng quyết định mà chúng tôi bình luận ở đây sẽ là cơ sở hình thành một án lệ đối với những vụ việc tương tự trong thực tiễn pháp lý Việt Nam. Việc bản án này được đăng trong cuốn “Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2003 - 2004” 3 phần nào đã cho thấy tầm quan trọng của nó.
TS. ĐỖ VĂN ĐẠI Đại học Paris 13, Cộng hòa Pháp
Nguồn: Tạp chí Khoa học Pháp lý
2 Điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP quy định: “không thể hoàn trả được tài sản đã nhận bằng hiện vật khi tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã được đưa vào khai thác, sử dụng”. 3 Xem chú thích 1
Theo pháp luật của Anh, Êcốt và Ailen, khi không thể hoàn trả được bằng hiện vật, quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng không còn nữa. Tuy nhiên theo pháp luật của các nước Châu Âu lục địa, trong những trường hợp như vậy, hợp đồng vẫn có thể bị tuyên bố vô hiệu và việc hoàn trả được thanh toán bằng giá trị tương đương. Giải pháp này cũng được thừa nhận trong một số Bộ quy tắc về hợp đồng. Ví dụ, theo Điều 4:115 của Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, “nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được thì hoàn trả bằng một khoản tiền hợp lý”. Tương tự, theo Điều 3.17 Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit, “những gì không thể hoàn trả được bằng vật chất thì phải được hoàn lại bằng giá trị”. Khi không thể hoàn trả bằng hiện vật, việc hoàn trả bằng giá trị cũng được thừa nhận ở Việt Nam. Theo Điều 39, khoản 2, điểm a, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, “trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền” và, theo Điều 137, khoản 2, BLDS (2005), “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”.
Như vậy, cũng như pháp luật của nhiều nước, theo pháp luật Việt Nam, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Bộ luật dân sự và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định như vậy nhưng lại không nêu rõ khi nào “không hoàn trả được bằng hiện vật” và “hoàn trả bằng tiền” được hiểu là bao nhiêu. Do văn bản pháp luật không quy định rõ hai khái niệm này nên, trong thực tế, Tòa án Việt Nam đã giải quyết theo hướng buộc các bên thực hiện hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi tài sản được giao phù hợp với nội dung của hợp đồng: ở đây tài sản đã được giao, khoản tiền đã nhận không phải hoàn trả lại và khoản tiền chưa thanh toán theo hợp đồng phải tiếp tục được thanh toán. Việc giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng mua bán lắp đặt dây chuyền chế biến cà phê sau đây cho thấy điều vừa nêu[1]
Ngày 04/09/1997, Công ty cà phê Easim và Công ty ô tô Đắk Lắk cùng nhau ký kết hợp đồng kinh tế số 39/HĐKT. Theo hợp đồng, Công ty ô tô Đắk Lắk nhận chế tạo hệ thống chế biến cà phê cho Công ty cà phê Easim; tổng giá trị hợp đồng là 948.000.000 đồng. Hai bên đã ký biên bản nghiệm thu bàn giao công trình; Công ty cà phê Easim đã thanh toán 821.376.000 đồng và hiện còn nợ Công ty ô tô Đắk Lắk 126.600.000 đồng. Các bên có tranh chấp và Tòa án đã tuyên hợp đồng vô hiệu. Theo Tòa án nhân dân tối cao, “tại thời điểm ký hợp đồng số 39/HĐKT, cũng như trong quá trình thực hiện hợp đồng và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, việc Tòa án cấp phúc thẩm kết luận hợp đồng kinh tế số 39/HĐKT vô hiệu toàn bộ là phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế” (Quyết định 04/2004 nêu trên). Về việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn phần, chúng tôi không đi vào bình luận. Ngược lại, chúng tôi sẽ phân tích, bình luận việc giải quyết hậu quả của hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.
Sau khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn phần, Tòa phúc thẩm “buộc Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk phải hoàn trả số tiền đã nhận là 821.376.000 đồng cho Công ty cà phê Easim và buộc Công ty cà phê Easim phải hoàn trả hệ thống dây chuyền chế biến cà phê tươi, sấy cà phê cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk”. Như vậy, Tòa phúc thẩm đã áp dụng nguyên tắc chung của việc giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì mình đã nhận trong quá trình thực hiện hợp đồng. Giải pháp này không được Tòa án tối cao chấp nhận. Theo Tòa án tối cao, việc giải quyết của Tòa phúc thẩm “là không đúng với hướng dẫn tại điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/05/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì hai dây chuyền cà phê này đã được Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk chế tạo, lắp đặt từ năm 1997; ngày 08/06/1999 hai bên đã lập tờ trình số 66/TT gửi Tổng công ty cà phê Việt Nam với nội dung: xin hoàn thiện một số chi tiết thiết bị và giúp cho hai đơn vị có điều kiện thanh toán kinh phí đã đầu tư thi công công trình. Tại tờ trình này hai bên đều khẳng định: “Đánh giá chất lượng sản phẩm: chất lượng chế biến đạt yêu cầu xuất khẩu, vụ chế biến 1998 -1999 chế biến được100 tấn cà phê nhân thóc khô và đã được bán...”. Mặt khác, tại biên bản nghiệm thu thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký. Như vậy, hai dây chuyền cà phê này đã được Công ty cà phê Easim đưa vào khai thác, sử dụng và chế biến được cà phê để xuất bán; do đó, không thể coi hai dây chuyền cà phê đã lắp đặt tại Công ty cà phê Easim chưa được đưa vào khai thác, sử dụng, được bảo quản nguyên vẹn như Bản án kinh tế phúc thẩm số 03/2003/KTPT ngày 01/08/2003 đã nhận định.
Đối với Tòa án tối cao, “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký” và, do đó, tài sản coi như “đã được đưa vào khai thác, sử dụng”; vì vậy, đây là trường hợp “không thể hoàn trả được bằng hiện vật” theo điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán2. Như vậy, Nghị quyết số 04/2003 coi trường hợp tài sản “đó được đưa vào khai thác, sử dụng” là một trường hợp “không hoàn trả được bằng hiện vật” và Quyết định số 04/2004 coi trường hợp “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký” là một trường hợp tài sản “đó được đưa vào khai thác, sử dụng”. Từ đó chúng ta thấy, dựa vào hai lần giải thích, cụ thể là giải thích trong Nghị quyết số 04/2003 cụm từ “không hoàn trả được bằng hiện vật” của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và giải thích trong Quyết định số 04/2004 cụm từ “đó được đưa vào khai thác, sử dụng” của Nghị quyết số 04/2003, Tòa án tối cao không buộc các bên hoàn trả lại cho nhau tài sản đã được giao nhận mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu: tài sản nhận từ hợp đồng vô hiệu được sử dụng như trường hợp hợp đồng không bị tuyên bố vô hiệu.
Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Bộ luật dân sự Việt Nam, “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Khoản tiền phải hoàn trả do không hoàn trả được tài sản bằng hiện vật cần được xác định như thế nào? Kinh nghiệm trong pháp luật nước ngoài cho thấy đây là một vấn đề không đơn giản. Theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng viện dẫn ở trên, trong trường hợp như trên thì cần phải trả một khoản tiền “hợp lý”. Khi nào thì có thể coi đây là một khoản tiền “hợp lý”? Bộ nguyên tắc trên không cho lời giải đáp. Trong thực tế pháp lý Pháp, một số Tòa phúc thẩm đã buộc bên nhận tài sản mà hiện nay không hoàn trả được thanh toán cho bên kia giá của tài sản này. Cách giải quyết như vậy không được Tòa án tối cao Pháp chấp nhận. Ví dụ, trong một bản án ngày 12/12/1979, Phòng dân sự số 1 Tòa án tối cao Pháp hủy một bản án phúc thẩm đã giải quyết như trên bởi, theo Tòa án tối cao Pháp, cách giải quyết đó “dẫn đến thực hiện hợp đồng vô hiệu”. Về vấn đề này trong vụ việc chúng ta đang nghiên cứu, Tòa phúc thẩm buộc Công ty ô tô Đắk Lắk hoàn trả cho Công ty cà phê Easim những gì mình nhận được như quy định chung về hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Nhưng theo Tòa án tối cao, “trong trường hợp này, Công ty cà phê Easim phải thanh toán số tiền còn thiếu theo hợp đồng cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk”. Cụ thể, Tòa án tối cao “buộc Công ty cà phê Easim phải thanh toán trả cho Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk số tiền còn thiếu theo hợp đồng là 120.600.000 đồng”. Như vậy, theo Tòa án tối cao, không những Công ty cơ khí ô tô Đắk Lắk không phải hoàn trả khoản tiền mình đã nhận mà còn được nhận khoản tiền chưa được thanh toán theo hợp đồng.
Phần trình bày trên cho thấy, mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu toàn phần, bên đã nhận tài sản không phải hoàn trả lại tài sản đã nhận và bên nhận tiền theo hợp đồng không những không phải hoàn trả lại khoản tiền đã nhận mà còn được nhận khoản tiền chưa được thanh toán theo hợp đồng. Nói một cách khác, các bên vẫn phải tôn trọng những gì quy định theo hợp đồng mặc dù Tòa án đã tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu toàn phần. Để đạt được kết quả này, chúng ta thấy Tòa án tối cao đã dựa vào việc giải thích hai cụm từ “không hoàn trả được bằng hiện vật” và “phải hoàn trả bằng tiền”. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp đã phải chuyển trụ sở sản xuất và do đó phải chuyển thiết bị máy móc đến trụ sở mới. Công việc này khó khăn nhưng khó có thể nói là không thể thực hiện được. Do vậy, về mặt kỹ thuật, việc Tòa án tối cao cho rằng dây chuyền có tranh chấp “không hoàn trả được bằng hiện vật” là không thuyết phục. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng giải pháp của Tòa án tối cao là chấp nhận được và nên coi đây là bản án thiết lập một án lệ cho những vụ việc tương tự. Bởi, các bên trong hợp đồng đã nhận được lợi ích mà họ mong đợi từ hợp đồng. Cụ thể, như Tòa án tối cao đã nêu, Công ty cà phê Easim đã có được “thiết bị chế biến cà phê đạt chất lượng, các bộ phận được lắp đặt đúng như hợp đồng đã ký”. Khi các bên đã đạt được những lợi ích mà họ mong đợi từ hợp đồng, thiết nghĩ không cần thiết phải buộc họ hoàn trả lại những gì đã nhận mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu nếu như việc tôn trọng nội dung hợp đồng này không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba hay lợi ích chung. Đối với ví dụ đang được phân tích, Công ty cà phê Easim đã nhận được những gì mong đợi từ hợp đồng và việc không hoàn trả lại tài sản đã nhận không làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người thứ ba hay lợi ích chung. Vì vậy, việc buộc các bên tôn trọng hợp đồng mặc dù bị tuyên bố vô hiệu là chấp nhận được. Vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng kinh tế, thiết nghĩ giải pháp trên cũng nên áp dụng đối với những hợp đồng khác, ví dụ như hợp đồng thương mại. Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu ở đây là do một bên chưa có đăng ký kinh doanh, thiết nghĩ việc thực hiện hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu như đã phân tích cũng có thể được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng không tôn trọng những quy định về hình thức hay đối với hợp đồng lao động mà một bên đã không có giấy phép.
Cần nói thêm là việc buộc các bên tôn trọng hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi bên nhận tài sản hay dịch vụ đã đạt được những lợi ích mà họ mong đợi như vừa trình bày không phải là một đặc thù của Việt Nam. Ở Pháp, trong những trường hợp tương tự, Tòa án cũng đã không buộc các bên hoàn trả lại những gì họ đã nhận được nếu như việc tôn trọng nội dung hợp đồng không làm ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba hay lợi ích chung. Xin dẫn một vài ví dụ. Ví dụ thứ nhất liên quan đến tranh chấp một hợp đồng mà theo đó Công ty A cử người lao động của mình đến Công ty B. Theo pháp luật của Pháp, hợp đồng này phải được soạn thảo bằng văn bản nhưng các bên đã không làm; và, do đó, hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Trong vụ việc này, Công ty B đã nhận được người lao động như đã thỏa thuận trong hợp đồng nhưng lại chưa thanh toán khoản tiền còn lại cho Công ty A. Theo Tòa án tối cao Pháp (Tòa lao động ngày 7 tháng 11 năm 1995), Công ty B phải thanh toán cho Công ty A khoản tiền đã quy định trong hợp đồng. Như vậy, hợp đồng bị tuyên là vô hiệu nhưng các bên vẫn phải thực hiện những gì quy định trong hợp đồng. Ví dụ thứ hai liên quan đến việc chuyển nhượng quyền khai thác sáng chế công nghiệp, chẳng hạn như Công ty A chuyển nhượng quyền khai thác một sáng chế của mình cho Công ty B. Sau khi hợp đồng được ký kết, sáng chế bị tuyên là không được pháp luật bảo vệ và do đó hợp đồng chuyển nhượng bị coi là vô hiệu. Vấn đề đặt ra là Công ty A có phải hoàn trả lại cho Công ty B những khoản tiền đã nhận theo hợp đồng hay không? Theo nguyên tắc chung của hợp đồng vô hiệu thì việc hoàn trả này phải được thực hiện. Tuy nhiên theo Tòa án tối cao Pháp, Công ty A không phải hoàn trả lại cho Công ty B những khoản tiền thù lao đã nhận mặc dù hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu khi Công ty B đã nhận được lợi ích mà mình mong đợi từ hợp đồng.
Trong thực tế, một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là vì họ không muốn thực hiện đầy đủ những gì mà hợp đồng buộc họ phải làm. Ví dụ, một bên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì không muốn thanh toán khoản tiền đã thoả thuận trong hợp đồng và/hay không muốn những tài sản mà mình đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng do không còn nhu cầu nữa hay do có tài sản mới trên thị trường hấp dẫn hơn. Vậy, khi chúng ta buộc các bên phải thực hiện hợp đồng mặc dù bị tuyên bố vô hiệu thì có nguy cơ là các bên trong hợp đồng không có ý định đến Tòa án yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Do đó chúng ta không biết được việc vi phạm trong quá trình giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, phân tích kỹ Quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao, chúng ta thấy vẫn tồn tại “món quà” thúc đẩy một bên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong vụ việc được phân tích, Công ty cà phê Easim đã không thanh toán theo hợp đồng và còn phải thanh toán cho Công ty ô tô 126.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc Công ty cà phê Easim phải trả lãi cho Công ty ô tô Đắk Lắk 28.293.000 đồng. Nhưng theo Tòa án tối cao, trong trường hợp này, Công ty cà phê Easim “không phải chịu tiền lãi do chậm thanh toán”. Như vậy, Công ty cà phê Easim vẫn có lợi khi yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu: họ không phải thanh toán khoản tiền lãi do chậm thanh toán. Tuy nhiên, để thúc đẩy một bên yêu cầu sớm Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu (và do đó chúng ta phát hiện sớm việc vi phạm), phải chăng nên quy định là lãi vẫn được tính cho đến ngày Tòa án được yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, chỉ sau ngày này lãi do chậm thanh toán mới không được tính?
Vì hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu nhưng cuối cùng các bên vẫn phải tôn trong hợp đồng, một vấn đề không được đề cập trong tranh chấp nhưng có nhiều khả năng sẽ xảy ra khi giải pháp này được phổ biến áp dụng là hoàn cảnh của người bảo lãnh. Để hiểu đơn giản, chúng ta giả thiết rằng, Ngân hàng A đã đứng ra bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán khoản tiền theo hợp đồng của Công ty cà phê Easim (người được bảo lãnh là Công ty cà phê Easim và người nhận bảo lãnh là Công ty ô tô Đắk Lắk). Ngân hàng A có tiếp tục phải bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán của Công ty cà phê Easim nữa không? Theo một nhà bình luận Bộ luật dân sự Việt Nam, “nếu nghĩa vụ được bảo lãnh vô hiệu thì nghĩa vụ bảo lãnh, trên nguyên tắc, sẽ biến mất”. Ở đây hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu toàn phần nên, nếu theo quan điểm này, nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hành A sẽ biến mất. Nhưng theo chúng tôi, trong những trường hợp như đang nghiên cứu, nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng A không biến mất. Bởi, nghĩa vụ thanh toán khoản tiền theo hợp đồng của Công ty cà phê Easim vẫn tồn tại. Như vậy, nếu Công ty cà phê Easim không thanh toán khoản tiền theo hợp đồng, Công ty ô tô Đắk Lắk vẫn có thể yêu cầu Ngân hàng A thanh toán thay cho Công ty cà phê Easim bởi, theo Điều 361 BLDS, “bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Tóm lại, phần trình bày vừa rồi cho thấy Tòa án nước ta đã “cứu” một hợp đồng vô hiệu khi hợp đồng đem lại lợi ích hợp pháp mà các bên mong đợi khi giao kết. Đây không hẳn đã là một đặc thù của Việt Nam. Ở Pháp, Tòa án cũng thường xuyên bằng cách này hay cách khác “bảo vệ” những hợp đồng mà việc ký kết không tuân thủ đầy đủ những điều kiện nhưng vẫn mang lại cho các bên lợi ích hợp pháp mà họ mong đợi. Thiết nghĩ đây là một giải pháp hợp lý. Hy vọng quyết định mà chúng tôi bình luận ở đây sẽ là cơ sở hình thành một án lệ đối với những vụ việc tương tự trong thực tiễn pháp lý Việt Nam. Việc bản án này được đăng trong cuốn “Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2003 - 2004” 3 phần nào đã cho thấy tầm quan trọng của nó.
TS. ĐỖ VĂN ĐẠI Đại học Paris 13, Cộng hòa Pháp
Nguồn: Tạp chí Khoa học Pháp lý
2 Điểm b.1 mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP quy định: “không thể hoàn trả được tài sản đã nhận bằng hiện vật khi tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã được đưa vào khai thác, sử dụng”. 3 Xem chú thích 1