41. bão từ
Biến đổi đột ngột và có cường độ lớn của từ trường Trái Đất, liên quan đến hoạt động của Mặt Trời.
42. bão từ 1
BÃO TỪ (MAGNETIC STORM)
+ Bão từ hay còn gọi là bão địa từ trên Trái Đất là những thời kỳ mà kim la bàn dao động mạnh. Nguyên nhân gây ra bão từ là do dòng hạt mang điện phóng ra từ các vụ bùng nổ trên Mặt Trời tác dụng lên các đường cảm ứng từ của Trái Đất. Trên một số hành tinh khác trong hệ Mặt Trời, nhất là các hành tinh có từ quyển (như Sao Thổ) cũng có hiện tượng tương tự.
+ Các quá trình được miêu tả như sau:
1.Các dòng hạt mang điện phóng ra từ Mặt Trời sinh ra một từ trường, có độ lớn vào khoảng 6.10-9tesla.
2.Từ trường này ép lên từ trường Trái Đất làm cho từ trường nơi bị ép tăng lên.
3.Khi từ trường Trái Đất tăng lên, từ thông sẽ biến thiên và sinh ra một dòng điện cảm ứng chống lại sự tăng từ trường của Trái Đất.
4.Dòng điện cảm ứng này có thể đạt cường độ hàng triệu ampe chuyển động vòng quanh Trái Đất và gây ra một từ trường rất lớn tác dụng lên từ trường Trái Đất.
5.Hiện tượng này tiếp diễn làm cho từ trường Trái Đất liên tục biến thiên và kim la bàn dao động mạnh.
+ Nếu hướng của từ trường trong tầng điện ly hướng về phía Bắc, giống như hướng của từ trường Trái Đất, bão địa từ sẽ lướt qua hành tinh của chúng ta. Ngược lại, nếu từ trường hướng về phía Nam, ngược với hướng từ trường bảo vệ của Trái Đất, các cơn bão địa từ mạnh sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới Trái Đất. Mặc dù khí quyển Trái Đất chặn được các dòng hạt năng lượng cao đến từ Mặt Trời này (gồm electron và proton), song các hạt đó làm xáo trộn từ trường của hành tinh, cụ thể là từ quyển, có thể gây ra rối loạn trong liên lạc vô tuyến hay thậm chí gây mất điện.
+ Các vụ phun trào khí và nhiễm điện từ Mặt Trời được xếp theo 3 cấp: C là yếu, M là trung bình, X là mạnh. Tùy theo cấp cao hay thấp mà ảnh hưởng của nó lên từ trường Trái Đất gây ra bão từ nhiều hay ít. Bão từ được xếp theo cấp từ G1 đến G5, G5 là cấp mạnh nhất. Theo nhiều nghiên cứu thì hiện nay các cơn bão từ xuất hiện nhiều hơn và mạnh hơn, điều này cho thấy rằng Mặt Trời đang ở vào thời kỳ hoạt động rất mạnh.
+ Bão từ là kết quả của quá trình hoạt động của mặt trời. Ngoài photon (ánh sáng) mặt trời còn phát ra vô số hạt tích điện như proton, hạt nhân heli (hạt α) và electron. Những hạt đó tạo thành gió mặt trời. Chúng bay đến vùng lân cận của Trái đất và tác dụng tương hỗ với từ trường Trái đất - tức là địa từ trường (ĐTT).
+ Hành tinh của chúng ta là một nam châm khổng lồ mà cực Nam và cực Bắc nằm ở gần hai địa cực. Càng gần các cực thì ĐTT càng mạnh. Các hạt tích điện bay từ Mặt trời, chịu ảnh hưởng của ĐTT, chạy xoay quanh đường sức của nó theo hình xoắn ốc và tạo thành lớp bức xạ nằm phía trên tầng khí quyển.
+ Nơi gần cực có các đường sức tiếp cận với Trái đất, các hạt tích điện tiếp xúc với bề mặt khí quyển, ion hóa lớp trên của nó nhờ đó mà chúng ta được chiêm ngưỡng hiện tượng phát quang ở vùng cực.
+ Khi Mặt trời tăng tần suất hoạt động thì các hạt tích điện tác dụng tương hỗ với ĐTT lớn hơn bình thường, sự cân bằng của ĐTT bị phá vỡ và cường độ của từ trường tăng lên. Hiện tượng cường độ của ĐTT đạt giá trị cao và gây tác động kéo dài thì gọi là hiện tượng bão từ.
+ Công tác dự báo và đo đạc bão từ dựa trên cơ sở quan sát các vết đen của Mặt trời. Vết đen là hố lớn hình phễu trên bề mặt Mặt trời nóng bỏng mà các hạt của plasma bay từ độ sâu thẳm và có nhiệt độ cao sẽ bay qua đó tớ Trái đất. Các loại hạt tích điện mất khoảng 1 đến 2 ngày mới tới được hành tinh của chúng và sẽ tác động đến ĐTT. Vết đen xuất hiện rồi lại biến mất. Đặc biệt có những vết lớn tồn tại hàng tháng. Nguồn phát ra các hạt tích điện có thể là một nhóm các vết đen nhỏ có thời gian tồn tại rất ngắn. Vì vậy, đối với loại này, dự báo lâu dài là không chính xác bởi có những vết đen mà lúc các nhà quan sát phát hiện ra lại có thể đã không còn tồn tại nữa.
+ Trên thế giới có nhiều cơ sở nghiên cứu tiến hành quan sát Mặt trời: Mỹ có NASA, Nga có Trường Đại học về Mặt Trời, Trường Đại học Địa từ và sóng bức xạ. Tại các cơ sở đó, người ta đo liên tục cái gọi là "địa từ đồ', trong đó biểu thị cường độ của ĐTT. Căn cứ vào kết quả đo đạc, người ta sẽ đánh giá mức độ tác động có liên quan đến bão từ.
+ Liệu ĐTT có tác động đến con người ? Đối với nhiều người thì víệc trả lời cho câu hỏi trên không hẳn là có. Có người cho nó là điều tưởng tượng vô lý. Số khác lại thường xuyên kêu đau đầu trong thời gian có bão từ. Nhưng không ai có thể phủ định việc chim có thể bị lạc hướng trong khi bay chuyển vùng do bị bão từ chi phối vì chúng định vị bằng từ trường.
+ Mặc dù mặt trời đang đi đến giai đoạn yên tĩnh nhưng các trận bão từ vẫn có thể xảy ra. Chu kỳ hoạt động của mặt trời là 11 năm và đã đạt đỉnh vào năm 2001 - khi mặt trời hoạt động cực mạnh và có rất nhiều bão từ. Dự báo tới năm 2007 mặt trời mới yên tĩnh hoàn toàn. Tính tới 11g30 (ngày 22/9), dữ liệu từ 4 đài địa từ ở Phú Thuỵ (Gia Lâm), Sa Pa (Lào Cai), Đà Lạt (Lâm Đồng) và Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu) cho thấy hoạt động của mặt trời hoàn toàn yên tĩnh, chưa có dấu hiệu bùng nổ sắc cầu mặt trời. Tuy vậy, theo kinh nghiệm thì trước các trận bão từ lớn, hoạt động của mặt trời thường cực kỳ yên tĩnh như thế.
+ Bùng nổ sắc cầu mặt trời là những vụ nổ lớn nhất trong Thái dương hệ và có thể giải phóng lực của nhiều quả bom hạt nhân 1 tỷ mega tấn. Bùng nổ sắc cầu giải phóng các chùm plasma khổng lồ trung hoà về điện của các hạt tích điện. Trên đường đi tới trái đất, các chùm này sẽ bao trùm lên trái đất, tác động với từ quyển trái đất, tạo ra hệ dòng điện tròn xung quanh trái đấtvà nó cũng gây ra bão từ.
@ Ảnh hưởng của bão từ tới sức khỏe con người:
+ Thời kỳ có bão từ là thời kỳ rất nguy hiểm cho người có bệnh tim mạch bởi vì từ trường ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động của các cơ quan trong hệ tuần hoàn của con người. Ngoài ra từ trường của Trái Đất cũng giúp cho một số loài động vật thực hiện một số chức năng sống của chúng như là chức năng định hướng do đó bão từ cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến sự sống của các loài này.
+ Đã nhiều năm nay, các nhà bác học quan tâm đến vấn đề ảnh hưởng của bão từ đối với sức khỏe con người. Một số chuyên gia cho rằng đây là vấn đề rất nghiêm trọng, ngược lại, một số người khác không đồng tình với ý kiến ấy. Tiến sĩ khoa học y khoa Yuri Gurfinkel, giám đốc một trong những bệnh viện lớn ở Moskva, đã nghiên cứu rất nghiêm túc vấn đề này trong vòng hơn 15 năm nay. Ông đã thống kê được rằng, trong những ngày có bão từ, số lượng bệnh nhân tim mạch tăng lên 25-30%. Trong thực tế con số này lớn hơn rất nhiều. Ông chỉ ghi chép tỉ mỉ những trường hợp xác định ngày mắc bệnh một cách chính xác. Sau đó, ông chuyển các số liệu ấy cho Viện địa từ, tầng iôn và tán xạ sóng radio thuộc viện Hàn lâm khoa học Nga. Ở đó người ta tiến hành đối chiếu các số liệu này với các chỉ số hoạt tính địa từ. Hóa ra, trước hoặc trong những ngày có bão từ, bệnh nhân nhiều gấp đôi so với những ngày đẹp trời. Và đây không chỉ là các ghi chép của ông. Các đồng nghiệp ở nhiều thành phố khác cũng có những kết quả quan sát tương tự.
+ Các cơn bão từ khác nhau về tần suất và cường độ. Hơi ngược đời một chút, nhưng ông nhận thấy rằng những cơn bão từ nhỏ nhiều khi lại tác động mạnh đến sức khỏe con người, hơn là những cơn bão từ lớn. Và bão từ đột ngột thường nguy hiểm hơn những cơn bão từ kéo đến dần dần. Nói chung, khoảng 85% bão từ ảnh hưởng đến cơ thể người theo từng mức độ khác nhau.
+ Luồng hạt bẩn sinh ra do các vụ nổ trên mặt trời sẽ xuống đến mặt đất sau khoảng 3 ngày đêm. Luồng này có ảnh hưởng xấu đến sự sống trên mặt đất. Tìm ra cơ chế ảnh hưởng này là nhiệm vụ chính của ông. Người ta đã lấy máu làm đối tượng nghiên cứu. Mấy năm gần đây xuất hiện giả thiết cho rằng tác nhân đầu tiên, đầu mối tiếp nhận tác động từ đối với cơ thể người là huyết cầu tố — chất protit có trong cấu tạo của tế bào máu. Trong thành phần của chất này có sắt. Trong cơ thể người liều lượng sắt là khoảng 4,5-5 gr, một nửa lượng này nằm trong các phân tử hồng cầu. Có lẽ vì vậy mà máu chính là yếu tố đầu tiên phản ứng trước sự thay đổi của luồng từ.
+ Trước hết, các nhà khoa học nghiên cứu các mao mạch trong hệ thống tuần hoàn máu. Những hồng cầu lưu chuyển trong các mao mạch này, đưa ô xy đi nuôi các mô, rồi cũng các hồng cầu này nhận thán khí và các sản phẩm trao đổi chất. Các nhà khoa học ở Viện thần kinh học nghiên cứu đặc tính lưu biến của máu, tức là tính lưu thông của máu, ở các bệnh nhân bị đột quỵ. Họ nhận thấy rằng trong khoảng thời gian một hai ngày trước khi có bão từ thì đặc tính lưu biến này bị biến đổi. Máu lưu thông chậm hẳn lại. Đỉnh điểm của hiện tượng này thể hiện trong ngày bão từ xuất hiện.
+ Nhà bác học đã sử dụng một thiết bị chuyên dụng để nghiên cứu máu của người bệnh một cách an toàn. Với sự hỗ trợ của máy này, họ khẳng định được rằng trong những ngày bão từ, quá trình trao đổi ô xy và các chất thải bị chậm lại. Trong mao mạch người khỏe mạnh máu lưu chuyển nhanh và đều đặn. Một ngày đêm sau khi bão từ xuất hiện, hồng cầu thường dính lại với nhau. Điều đó có nghĩa là chúng không thể dễ dàng chuyển ôxy cho các mô, và lúc đó hiện tượng thiếu ô xy bắt đầu. Đối với các bệnh nhân thiếu máu cục bộ thì thông thường các cơ tim đã không được cung cấp ô xy một cách đầy đủ. Có thể nói một cách hình tượng rằng trong những ngày bão từ, họ bị “hiệu ứng kép” thiếu ô xy, điều đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe.
+ Để phòng ngừa các hồng cầu dính kết, các nhà khoa học khuyến cáo người bệnh nên dùng thuốc aspirin. Trong thời gian bão từ, liều lượng hiệu quả nhất là 200mg. Bằng việc theo dõi bệnh nhân trong suốt ngày đêm, họ đã ghi nhận sự rối loạn hoạt động của tim, đồng thời cùng việc đó họ cũng ghi lại các theo dõi về quá trình bão từ. Kết quả cho thấy rằng khi bão từ đạt mức tối đa thì tần suất co bóp tim của bệnh nhân tăng cao, trong một số trường hợp huyết áp của họ cũng bị tăng lên. Và rốt cục là xảy ra điều tệ hại nhất. Khi bão từ mạnh nhất, máy ghi nhận sự rối loạn nhịp tim khiến các tâm thất rung, cơ bóp nhanh, loạn nhịp, không đồng đều. Phản ứng như vậy dễ gây ra tử vong đột ngột cho những người bị bệnh tim mạch. Trong thực tế, ngay cả đối với những người khỏe mạnh, bão từ cũng gây ảnh hưởng trên toàn bộ các bộ hệ thống cơ thể: các cảm xúc, hoạt động thể lực và hoạt động trí tuệ…đều suy giảm. Tất nhiên, người khỏe mạnh thì sức đề kháng tốt hơn và quá trình hồi phục cũng nhanh chóng hơn so với người bệnh.
+ Ông Yuri Gurfinkel kết luận, ông đã theo dõi chừng 10 000 bệnh nhân. Trong số đó có khoảng 5000 người đã bị nhồi máu cơ tim.
43.Bão từ.
BÃO TỪ (MAGNETIC STORM)
+ Các yếu tố của từ trường Trái đất biến đổi hầu như cùng một lúc trên quy mô tòan cầu gọi là bão từ.
+ Bão từ hay còn gọi là bão địa từ trên Trái Đất là những thời kỳ mà kim la bàn dao động mạnh. Nguyên nhân gây ra bão từ là do dòng hạt mang điện phóng ra từ các vụ bùng nổ trên Mặt Trời tác dụng lên các đường cảm ứng từ của Trái Đất. Trên một số hành tinh khác trong hệ Mặt Trời, nhất là các hành tinh có từ quyển (như Sao Thổ) cũng có hiện tượng tương tự.
+ Các quá trình được miêu tả như sau:
1.Các dòng hạt mang điện phóng ra từ Mặt Trời sinh ra một từ trường, có độ lớn vào khoảng 6.10-9tesla.
2.Từ trường này ép lên từ trường Trái Đất làm cho từ trường nơi bị ép tăng lên.
3.Khi từ trường Trái Đất tăng lên, từ thông sẽ biến thiên và sinh ra một dòng điện cảm ứng chống lại sự tăng từ trường của Trái Đất.
4.Dòng điện cảm ứng này có thể đạt cường độ hàng triệu ampe chuyển động vòng quanh Trái Đất và gây ra một từ trường rất lớn tác dụng lên từ trường Trái Đất.
5.Hiện tượng này tiếp diễn làm cho từ trường Trái Đất liên tục biến thiên và kim la bàn dao động mạnh.
+ Ảnh hưởng của bão từ: gây ra rối loạn trong liên lạc vô tuyến hay thậm chí gây mất điện.
+ Công tác dự báo và đo đạc bão từ dựa trên cơ sở quan sát các vết đen của Mặt trời. Vết đen là hố lớn hình phễu trên bề mặt Mặt trời nóng bỏng mà các hạt của plasma bay từ độ sâu thẳm và có nhiệt độ cao sẽ bay qua đó tớ Trái đất. Các loại hạt tích điện mất khoảng 1 đến 2 ngày mới tới được hành tinh của chúng và sẽ tác động đến ĐTT. Vết đen xuất hiện rồi lại biến mất. Đặc biệt có những vết lớn tồn tại hàng tháng. Nguồn phát ra các hạt tích điện có thể là một nhóm các vết đen nhỏ có thời gian tồn tại rất ngắn. Vì vậy, đối với loại này, dự báo lâu dài là không chính xác bởi có những vết đen mà lúc các nhà quan sát phát hiện ra lại có thể đã không còn tồn tại nữa.
@ Ảnh hưởng của bão từ tới sức khỏe con người:
+ Thời kỳ có bão từ là thời kỳ rất nguy hiểm cho người có bệnh tim mạch bởi vì từ trường ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động của các cơ quan trong hệ tuần hoàn của con người. Ngoài ra từ trường của Trái Đất cũng giúp cho một số loài động vật thực hiện một số chức năng sống của chúng như là chức năng định hướng do đó bão từ cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến sự sống của các loài này.
+ Đã nhiều năm nay, các nhà bác học quan tâm đến vấn đề ảnh hưởng của bão từ đối với sức khỏe con người. Một số chuyên gia cho rằng đây là vấn đề rất nghiêm trọng, ngược lại, một số người khác không đồng tình với ý kiến ấy. Tiến sĩ khoa học y khoa Yuri Gurfinkel, giám đốc một trong những bệnh viện lớn ở Moskva, đã nghiên cứu rất nghiêm túc vấn đề này trong vòng hơn 15 năm nay. Ông đã thống kê được rằng, trong những ngày có bão từ, số lượng bệnh nhân tim mạch tăng lên 25-30%. Trong thực tế con số này lớn hơn rất nhiều. Ông chỉ ghi chép tỉ mỉ những trường hợp xác định ngày mắc bệnh một cách chính xác. Sau đó, ông chuyển các số liệu ấy cho Viện địa từ, tầng iôn và tán xạ sóng radio thuộc viện Hàn lâm khoa học Nga. Ở đó người ta tiến hành đối chiếu các số liệu này với các chỉ số hoạt tính địa từ. Hóa ra, trước hoặc trong những ngày có bão từ, bệnh nhân nhiều gấp đôi so với những ngày đẹp trời. Và đây không chỉ là các ghi chép của ông. Các đồng nghiệp ở nhiều thành phố khác cũng có những kết quả quan sát tương tự.
+ Các cơn bão từ khác nhau về tần suất và cường độ. Hơi ngược đời một chút, nhưng ông nhận thấy rằng những cơn bão từ nhỏ nhiều khi lại tác động mạnh đến sức khỏe con người, hơn là những cơn bão từ lớn. Và bão từ đột ngột thường nguy hiểm hơn những cơn bão từ kéo đến dần dần. Nói chung, khoảng 85% bão từ ảnh hưởng đến cơ thể người theo từng mức độ khác nhau.
+ Trước hết, các nhà khoa học nghiên cứu các mao mạch trong hệ thống tuần hoàn máu. Những hồng cầu lưu chuyển trong các mao mạch này, đưa ô xy đi nuôi các mô, rồi cũng các hồng cầu này nhận thán khí và các sản phẩm trao đổi chất. Các nhà khoa học ở Viện thần kinh học nghiên cứu đặc tính lưu biến của máu, tức là tính lưu thông của máu, ở các bệnh nhân bị đột quỵ. Họ nhận thấy rằng trong khoảng thời gian một hai ngày trước khi có bão từ thì đặc tính lưu biến này bị biến đổi. Máu lưu thông chậm hẳn lại. Đỉnh điểm của hiện tượng này thể hiện trong ngày bão từ xuất hiện.
+ Nhà bác học đã sử dụng một thiết bị chuyên dụng để nghiên cứu máu của người bệnh một cách an toàn. Với sự hỗ trợ của máy này, họ khẳng định được rằng trong những ngày bão từ, quá trình trao đổi ô xy và các chất thải bị chậm lại. Trong mao mạch người khỏe mạnh máu lưu chuyển nhanh và đều đặn. Một ngày đêm sau khi bão từ xuất hiện, hồng cầu thường dính lại với nhau. Điều đó có nghĩa là chúng không thể dễ dàng chuyển ôxy cho các mô, và lúc đó hiện tượng thiếu ô xy bắt đầu. Đối với các bệnh nhân thiếu máu cục bộ thì thông thường các cơ tim đã không được cung cấp ô xy một cách đầy đủ. Có thể nói một cách hình tượng rằng trong những ngày bão từ, họ bị “hiệu ứng kép” thiếu ô xy, điều đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe.
+ Để phòng ngừa các hồng cầu dính kết, các nhà khoa học khuyến cáo người bệnh nên dùng thuốc aspirin. Trong thời gian bão từ, liều lượng hiệu quả nhất là 200mg. Bằng việc theo dõi bệnh nhân trong suốt ngày đêm, họ đã ghi nhận sự rối loạn hoạt động của tim, đồng thời cùng việc đó họ cũng ghi lại các theo dõi về quá trình bão từ. Kết quả cho thấy rằng khi bão từ đạt mức tối đa thì tần suất co bóp tim của bệnh nhân tăng cao, trong một số trường hợp huyết áp của họ cũng bị tăng lên. Và rốt cục là xảy ra điều tệ hại nhất. Khi bão từ mạnh nhất, máy ghi nhận sự rối loạn nhịp tim khiến các tâm thất rung, cơ bóp nhanh, loạn nhịp, không đồng đều. Phản ứng như vậy dễ gây ra tử vong đột ngột cho những người bị bệnh tim mạch. Trong thực tế, ngay cả đối với những người khỏe mạnh, bão từ cũng gây ảnh hưởng trên toàn bộ các bộ hệ thống cơ thể: các cảm xúc, hoạt động thể lực và hoạt động trí tuệ…đều suy giảm. Tất nhiên, người khỏe mạnh thì sức đề kháng tốt hơn và quá trình hồi phục cũng nhanh chóng hơn so với người bệnh.
44. bar
Đơn vị áp suất thường dùng trong khí tượng, bằng 105 Pa, gần bằng 1 atmôtphe. Ước: .
45. bất biến
Đại lượng không thay đổi đối với một phép biến đổi nào đó. Ví dụ gia tốc là bất biến đối với các hệ quy chiếu quán tính, vì nó không đổi khi ta thay hệ quy chiếu quán tính này bằng hệ quy chiếu quán tính khác.
Nếu một phương trình biểu diễn một định luật vật lý không đổi dạng trong phép biến đổi đang xét thì người ta cũng nói rằng định luật là bất biến đổi với phép biến đổi ấy. Ví dụ: Định luật II của Niutơn là bất biến đối với các hệ quy chiếu quán tính (nó giữ nguyên dạng khi đổi hệ).
46. bay hơi
Sự tạo thành hơi từ mặt thoáng của chất lỏng, xảy ra ở nhiệt độ bất kỳ dưới nhiệt độ sôi. Nếu chất lỏng đựng trong bình kín thì nó bay hơi cho đến khi áp suất hơi bằng một giá trị xác định cho từng nhiệt độ, gọi là áp suất hơi bão hòa.
47. ben(B)
Đơn vị không thứ nguyên của tỉ số hai đại lượng cùng loại P1/P2, ký hiệu B. Tỉ số 10 ứng với 1 ben, tỉ số 10x ứng với x ben, nghĩa là: x(B) = log P1/P2.
Thường dùng ước đexiben, ký hiệu dB; 1 dS = 0,1 B dùng trong Âm học, Điện học.
48. biến dạng
Sự thay đổi kích thước và hình dạng của các vật rắn khi chịu tác dụng của các lực. Nếu sau khi lực ngưng tác dụng, vật lấy lại kích thước và hình dạng ban đầu thì biến dạng gọi là biến dạng đàn hồi; nếu vật còn biến dạng, thì ta có biến dạng còn dư, ha biến dạng dẻo.
Có nhiều loại biến dạng: căng, nén, lệch, uốn, xoắn…
49. biến trở
Điện trở mà giá trị có thể thay đổi.
50.biến điệu
Sự biến đổi một đặc trưng (biên độ, tần số, hoặc pha) của một sóng điện từ cao tần (sóng mang của vô tuyến truyền thanh chẳng hạn) theo một sóng tín hiệu cần truyền đi (sóng âm tần của tiếng nói, nhạc. Trong hình 10, a là sóng mang; b là sóng tín hiệu; c là sóng mang đã biến điệu theo biên độ (điều biên): tần số không thay đổi, biên độ biến đổi theo sóng tín hiệu; d là sóng mang đã biến điệu theo tần số (điều tần): biên độ không đổi, tần số biến đổi theo sóng tín hiệu.