Thơ về các con vật thuộc 12 con giáp
ĐÁM CƯỚI CHUỘT (Tý)
Trạng Chuột ơn vua cưới vợ làng
Kiệu son lộng lẫy, lộng hoa vàng.
Nàng dâu xứ Chuột đi chân đất,
Ngón nhỏ, bùn đen vẫn dính chân.
Có con Mèo mướp ngồi trên trốc,
Chồm hỗm, vênh râu, đợi lễ dâng.
Chú Chuột thổi kèn, chân rúm lại,
Con chép đồng quê, vẩy ngấn vàng .
Không biết quan Mèo có chịu yên,
Có đòi lễ lạc phải nhiều thêm.
Mà bao năm tháng, trên tranh Tết,
Tiếng trống vinh quy vẫn rộn ràng.
Ngựa hồng, quan trạng giong cương bước,
Chuột vợ chưa hay mình đã quan.
Một bước lên bà là thế đấy,
Khối cô Chuột khác, nghĩ mà thèm!
Chao ôi chuyện học xưa nay thế !
Đời trước, đời sau vẫn ước mơ,
Hoa tay dân giã, người không vẽ,
Vẽ Chuột nhung nhăn đến tận giờ!
NGÔ VĂN PHÚ CHỌI TRÂU
NĂM SỬU
Đất biển ăn sóng và nói gió,
Chọi Trâu, lễ hội tự bao giờ ?
Đôi con Trâu mộng to lừng lững,
Đen bóng như tảng đá hoa cương .
Sừng nhọn, mặt hầm hầm dữ tợn,
Về săn móng cắm, mắt hòn than.
Chiêng trống nhịp nhàng rung núi biển,
Cờ hội năm màu phấp phới bay.
Xới chọi thênh thang bãi cỏ phẳng,
Chen chân người đứng chật vòng ngoài.
Sừng đã đối sừng, mặt đối mặt,
Hai vầng hoa cương đâm vào nhau.
Đất lún, tiếng sừng va lắc cắc,
Vai khoẻ vồng lên, Trâu chọi trâu.
Miếng ghì, miếng lấn, miếng đánh dứ,
Khi đến, khi lùi, tranh được thua.
Rồi một đòn ra, đầy điệu nghệ,
Con bại bỏ chạy. Người reo hò.
Màu xanh từ núi về chân sóng,
Dâu bãi xum xuê, lúa ngấn bờ
Lễ hội năm Trâu đầy khí thế,
Chắc hẳn mùa này sẽ bội thu.
NGÔ VĂN PHÚM HANG HÙM(Dần)
(Xướng hoạ thơ)
Bà xướng
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ bó tay
HỒ XUÂN HƯƠNG
Bài hoạ
Này ông tỉnh ! Này ông say!
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẳng không ai ngó,
Sao có hùm con bỗng trốc tay.
PHẠM ĐÌNH HỔ
MÈO (Mão)
Lọ vằn (1) sinh mãi ở Phương Tây (2)
Phụng sự Như Lai trộm phép thầy
Hơn chó được ngồi khi mặt bếp
Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây
Đi nào kẻ cấm buồng the kín
Aên đợi ai làm bàn soạn đầy
Khó liễu (miễn) sang chăng chớ phụ
Nhưng chưng giận chuột phải nuôi mày.
NGUYỄN TRÃI
(1) Lọ vằn : lắc lọ pha vằn
(2) Phương Tây : chủ tích Ngọc diện miêu (mèo mặt ngọc ) của Phật Như Lai : có tin con Chuột
đi cướp vợ người . Bao công phải mượn uy Phật Như Lai cho mượn mèo mặt ngọc để Chuột phải
hiện nguyên hình chuột.
CÓ RỒNG KHÔNG
CHẲNG BIẾT (Thìn)
(Trích)
Vịnh Hạ Long có rồng không chẳng biết,
Nhưng từ lâu huyền bí của thiên nhiên
Vẫn mơn man như gió vuốt ve thuyền
Những ý nghĩa phiêu lưu, những tâm hồn mơ mộng
Khi nắng mé hàng mi qua cửa động
Khi sóng trào tóc quấn đảo chon von
Khi mây chập chờn ẩn hiện đầu non
Khi mưa lẫn xanh trời và biếc bể
Người càng hiểu vịnh Hạ Long là thế
Trong mơ màng giấc ngủ có Rồng bay.
Nhưng thần tiên hiền diệu nhất là ngày
Người bỗng thấy trên sườn non óng ánh
Đất gợn tóc bay đất cười đen nhánh ?
Người tìm ra than đá, Hạ Long ơi !
Người tìm ra năng lực đổi thay đời
Cả cuộc sống ngàn năm như lột vỏ
Một giải đất bao la thành xứ mỏ,
Nhanh hơn cây, thành phố mọc, người dây
Nào Hồng Gai, nào Cẩm Phả, Cửa Ông
Nào Hà Lầm, nào Hà Tu, Uông Bí……
Một giải đất điểm thêm mầu thế kỷ
Tôi đến đây đất nước đã hoà bình,
Trên những đường còn loang lỗ chiến tranh
Cả vùng mỏ đang tưng bừng kiến thiết
Tôi càng thấy Tổ quốc mình giàu đẹp
Cõi mong chờ kỳ lạ chính là đây
Một bên tầng tầng lớp lớp than dầy
Núi nhấp nhánh như muôn ngàn đợt sóng
Một bên điệp điệp trùng trùng chuyển động
Biển mang trong lòng sức sống vô biên,
Và còn bao giá trị thiên nhiên
Đất bí mật mãi ngàn năm che giấu ?
Nhìn dưới bến những chiếc tàu nghiêm đậu
Chờ ăn than, soi sóng bóng cờ bay
Nhìn trên bờ chi chít những đường ray
Những va gông, những cần, những trục,
Đẹp bằng mấy các long châu hổ chực !
TẾ HANH
RẮN ĐẦU
BIẾNG HỌC (Tỵ)
Chẳng phải liu diu (1) cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép vốn quen lời lếu láo,
Lằng lưng chẳng khỏi vệt năm ba
Từ nay Trâu lỗ xin siêng học.
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
LÊ QUÝ ĐÔN
(1) liu diu : rắn nước
QUÂN MÃ HOÀNG
(Ngọ)
Quân mã hoàng, thần mã bạch
Kim lặc tử ty cương
Tịch không Trường An mạch (1)
Diệt ảnh nhĩ phù vân
Kiên đề, đạp băng thạch
Trường kiếm, cao quang, thân thất xích
Nam nhi nhuỵ địa tư báo quốc
Giáp cốt (2) lưu hương tử phi tích
TÙNG THIỆN VƯƠNG
NGỰA VUA VÀNG
Ngựa vua vàng, ngựa tôi trắng
Nhàm vàng, cương tía, dây tơ thẳng .
Xóng bước nẻo Tràng An
Mây nổi, bóng hình an.
Giẫm đá, đạp băng, vó lướt tràn.
Gươm dài, mũi cao, thân bảy thước
Làm trai ở đời lo nợ nước,
Sử sách tiếng thơm, chết chẳng tiếc.
Ngô Linh Ngọc dịch
(1) Trường An : chỉ kinh đô
(2) Giáp cốt : loại chữ viết trên mai rùa, chỉ chữ sách
DÊ CỎN (Mùi)
Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa
HỒ XUÂN HƯƠNG
ỚI KHỈ ƠI
LÀ KHỈ (Thân)
Cử nhân : cậu ấm Kỷ
Tú tài : con đô Mỹ
Thi thế mới là thi
Ơùi khỉ ơi là khỉ
TRẦN TẾ XƯƠNG
BỨC TRANH GÀ
(Dậu)
Khuôn tranh làng Hồ,
Thơm mùi gỗ thị
Vỏ xơ mướp khô
Vuốt trên giấy bản
Sắc màu đã tô
Bác thợ lật giấy
Con gà đứng dậy
Ơ sao bỗng thấy
Mắt gà chớp nhanh
Mắt bác không chớp.
Cái màu lửa cháy
Cổ vươn tiếng gáy,
O o bình minh
Chân vàng sừng sững
Đầu như đầu phượng
Đuôi xoè đuôi trĩ
Mình tựa mình công
Sống hơn gà sống
Nòi gà để lại
Từ đời cha ông
Aáp bằng hơi thở
Nuôi bằng tấm lòng
Ngàn sau nỡ mãi
Trẻ như cô gái
Khoẻ như lúa đồng.
Con gà xoè lông
Bảy màu cầu vồng
Màu đen than cói, màu xanh gỉ đồng
Màu lam lá chàm
Màu vàng hạt dành
Vỏ sò vỏ hến
Quê bờ biển xanh
Như còn long lanh
Bao mùa xuân qua
Để màu hồng lại
Sông núi cho xanh
Hồn nước đứng mãi
Con gà đứng canh
Bác thợ ngắm tranh
Thấy lòng vỗ cánh
Thấy đời lại xanh
Ơi người nghệ sỹ
Tên là dân gian
Góp cùng trời đất
Con gà Việt Nam
Gà tử trong tranh
Gà ra cuộc đời
Gáy lên ! gà ơi!
Hoài Anh
SAO KHÔNG VỀ
VÀNG ƠI
(Tuất)
Tao đi học về nhà
Là mày chạy xồ ra
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mày ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi, rung râu
Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt
Bắt tay tao rất chặt
Thế là mày tất bật
Đưa vội tao vào nhà
Dù tao đi đâu xa
Cũng nhớ mày lắm đấy
Hôm nay tao bỗng thấy
Cái cổng rộng thế này !
Vì không thấy bóng mày
Nằm chờ tao trước cửa
Không nghe tiếng mày sủa
Như những buổi trưa nào
Không thấy mày đón tao
Cái đuôi mày ngoáy tít
Cái mũi đen khịt khịt
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao………
Sao không về hả chó
Nghe bom thằng Mỹ nổ
Mày bỏ chạy đi đâu
Tao chờ mày đã lâu
Cơm phần mày để cửa
Sao không về hở chó ?
Tao nhớ mày lắm đó
Vàng ơi là vàng ơi !
1967
TRẦN ĐĂNG KHOA
LỢN (Hợi)
Dài hàm nhọn mũi cứng lông
Được dưỡng vì chúng có thể dùng
Lỗi hoà đàn, tinh Bắc Đẩu (1)
Lang một điểm, thuỵ Liêu Đông (2)
Chân khi mặt nước khi hay lạt
……………….(Câu này mất)
Triệu chẳng hay bề biến hoá
Trưng hai con mắt lại xem rồng (3)
NGUYỄN TRÃI
(1) Tích cổ : đời Đường có thiền sư Nhất Hàng, muốn cứu một người tù, mách người nhà anh TA thấy ai nuôi bảy con vật thì nhốt lại. Người nhà tìm được nhà có bảy con lợn . Khi nhốt , Sao Bắc Đẩu biến mất. Vua hỏi, sư bảo thả bảy con lợn ra thì sao Bắc Đẩu hiện . Vua Đường liền tha người tù. (2 )Lang một điểm : lợn lang đốm trên đầu (tích cổ) : có người ở Liêu Đông có con lợn đốm đầu , dâng vua tưởng là của quý ai dè ở Liêu Đông loại lợn này rất nhiều.
(tuvi.tretoday.net)