Ngôn ngữ thơ Haiku
Nguyễn Vũ Quỳnh Như (*)
1. Chất liệu mô tả – “Haiku là danh từ”
Trong thơ haiku là vô số hình ảnh của các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên vũ trụ như hoa, lá, chim, trăng, gió, tuyết....Vì thế danh từ được sử dụng nhiều nhất trong thơ haiku và trở thành chất liệu chủ lực để thể hiện (chứ không phải miêu tả) sự vật.
Danh từ là ngôn từ quan trọng của haiku đến mức danh từ được xem là chủ thể của ngôn từ haiku. Trong một bài haiku có thể xuất hiện hai hoặc ba danh từ hoặc nhiều hơn vì thế haiku còn được gọi “haiku là danh từ” (1). Về ngữ pháp, danh từ trong haiku vừa có thể trở thành chủ ngữ, cũng có thể đóng vai trò vị ngữ bổ nghĩa cho trợ từ và bổ ngữ. Sự miêu tả – cụ thể hoá các tín hiệu thẩm mỹ trong haiku được thể hiện thông qua danh từ là sự miêu tả mang tính biểu trưng, tĩnh lặng.
Về chất liệu, haiku chú trọng đến vật chất hữu hình (material) khác với cái gọi là tinh thần (spiritual) (2). Tinh thần trong haiku đã được hoà quyện bên trong sự vật hiện tượng “cái vô hạn trong hữu hạn, cử động trong bất động” theo thuyết thẩm mỹ Thiền tông (Zen). Trong Zen, chúng ta hiểu được rằng bên ngoài và bên trong không phải là hai, mà hoà quyện thành một (3). Cũng với tinh thần Thiền tông, haiku hướng chúng ta không chỉ biết nghe mà còn biết lắng nghe, không chỉ biết nhìn mà còn biết bắt gặp, biết cảm nhận, và quan trọng nhất là tính giản dị, sử dụng ít phương tiện nhất mà để lại ấn tượng sâu sắc nhất.
Danh từ sử dụng trong haiku bao gồm danh từ chung, danh từ riêng, danh từ tính từ, danh từ phức hợp, đại danh từ, danh từ số nhiều. Danh từ chung trong haiku rất phong phú bao gồm hoa, núi, tuyết, trăng, con người, trái tim, độ sâu, vẻ đẹp... Việc chăm chút lựa chọn một danh từ “thiện mỹ” đủ sức tạo nên âm điệu cho haiku trở nên rất quan trọng. Vì thế “sứ mệnh của các thi sĩ haiku là sáng tạo ra những danh từ thiện mỹ nhằm kiện toàn ngôn ngữ tiếng Nhật” (4).
山鳥の
yama dori no
Chim trĩ
尾を踏む春の
o wo fumu haru no
Trải đuôi
入日哉
iri hi kana
Xuân chiều tà.
(Yosa Buson)
Buson chỉ sử dụng một động từ fumu (trải dài, trải qua), nhưng đếnbốn danh từ yama (núi), tori (chim), o (đuôi), haru (mùa xuân), hi (ngày) trong đó yama-dori (chim núi) là từ ghép của hai danh từ chim và núi (chim trĩ, gà lôi), iri-hi là danh từ phức hợp được ghép giữa động từ iri (vào) và danh từ hi (ngày) với nghĩa mặt trời lặn, trời về chiều. Thậm chí có bài haiku không có một động từ hay tính từ nào.
花の雲
hana no kumo
Đám mây hoa
鐘は上野か
kane wa Ueno ka
Chuông chùa
浅草か
Asakusa ka
Từ Uneno hay Askakusa?
(Matsuo Basho)
山桜
yama zakura
Hoa đào núi
雪嶺天に
setsu rei ten ni
Trên đỉnh tuyết
声もなし
koe mo nashi
Thinh không.
(Mizuhara Shuoshi)
春雪や
shunsetsu ya
Tuyết xuân
胸の上なる
mune no ue naru
Dâng trào lồng ngực
夜の厚み
yoru no atsumi
Dày đặc cả đêm.
(Hasomi Ayako)
枯れ枝に
kare eda ni
Trên cành khô
からすの泊まりけり
karasu no tomari keri
Quạ đậu
秋の暮れ
aki no kure
Chiều cuối thu.
(Matsuo Basho)
Chất liệu miêu tả chủ yếu chỉ bằng danh từ trong haiku là nội lực vô song của tín hiệu thẩm mỹ của ngôn từ haiku, là sự cô đọng nhưng vẫn đạt hiệu quả tối đa của thi ca, đạt đến mức độ ẩn dấu vô song, thể hiện nét đẹp bên trong không phô trương.
2. Thi pháp mô tả: Sâu sắc tính giản lược
Một trong những thi pháp quan trọng của haiku là cú pháp giản lược để tăng hiệu quả cô đọng. Giản lược một cách hiệu quả các chất liệu miêu tả sẽ góp phần mang lại tính trầm mặc thần hồn cho haiku và cảm xúc sâu lắng nơi người đọc.
Ngôn từ trong thơ haiku phải được lựa chọn sao cho có thể tạo ra sự cộng hưởng cảm xúc chung đối với bất kỳ người đọc nào (5). Chỉ để muốn tả cảnh đẹp bên bờ sông ta bắt gặp bao nhiêu là chất liệu: bờ sông, cồn cát, dòng nước trôi, hàng cây ven bờ, mây xanh, gió thổi...rất rất nhiều chất liệu. Tất cả chất liệu đó không thể đưa vào trong một bài haiku vỏn vẹn chỉ 17 âm tiết, vậy chất liệu nào không cần đưa vào bài thơ, chất liệu nào phải bỏ mà vẫn tạo nên tính gợi, sức liên tưởng và cảm xúc cao độ nơi người đọc?Trong haiku có rất nhiều thủ pháp giản lược từ cách thể hiện cho đến ngôn từ...trong đó để đạt đến độ ẩn ý cao có thể kể đến các quy tắc cơ bản như sau:
2.1. Giản lược, kiềm chế cảm xúc cá nhân
Thơ haiku diễn tả không tràn trề màu sắc, nếu có thì chỉ là màu sắc ở độ không, ít mô tả chi tiết tác động trực tiếp vào giác quan như đậm màu như xanh lè, đỏ loét, sáng rực...hoặc tác động vào tình cảm như nỗi buồn, thương nhớ, rộn ràng, vui mừng. Thơ haiku chỉ gợi ở người đọc sự liên tưởng mạnh mẽ về một thế giới tiềm ẩn đằng sau lớp ngôn từ mang đầy tính tượng trưng, ước lệ.
行く春や
yuku haru ya
Mùa xuân trôi
鳥啼き魚の
tori naki uo no
Chim nức nở
目は涙
me wa namida
Mắt cá đẫm lệ.
(Matsuo Basho)
Ẩn ý rất mạnh đọng lại qua hình ảnh của chim, cá đại diện cho cả vũ trụ xung quanh đầy nước mắt khi phải vẫy chào tạm biệt mùa xuân, trong đó có cảm xúc của chính tác giả đã được ẩn dấu và giản lược chứ không mô tả ra bên ngoài: Basho lưu luyến không nguôi khi phải chia tay với mọi người vào ngày rời quê và cảnh vật xung quanh cũng buồn đến rơi nước mắt. Đến đây ta có thể liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn Du với một tâm trạng tương tự “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Theo mỹ học Nhật Bản, haiku không mô tả trực tiếp như vẻ đẹp của mưa rơi, cảnh đẹp khi lá rụng, sao lấp lánh mỹ miều...mà mô tả sự vật hiện tượng ngay tại khoảnh khắc bắt gặp được và diễn tả chúng như chính chúng đang có. Dù rung động trước cảnh đẹp tuyệt trần của đảo Matsushima – nơi được xem là đẹp nhất của Nhật Bản, thi hào Basho cũng chỉ thốt lên bằng ngôn từ của chính quang cảnh đó, không lời miêu tả như không lời nào diễn tả được đến mức “thơ Basho mang đầy tính hướng nội và nếu xét theo chuẩn của phương Tây thì thơ Basho thiếu vắng cảm xúc cá nhân đến lạ kỳ”(6).
松島や
matsushima ya
Tùng Đảo
ああ松島や
aa matsushima ya
Ôi Tùng Đảo
松島や
matsushima ya
Tùng Đảo ơi.
松島や
matsushima ya
Tùng Đảo
鶴に身をかれ
tsuru no mi o kare
Chim đỗ quyên
ほととぎす
hototogisu
Khoác áo hạc vàng.
(Matsuo Basho)
Hoặc như Kobayashi Issa (1763 - 1827) một trong bốn đại thụ thi sĩ haiku của Nhật Bản, đã lặng lẽ thổn thức khi con gái qua đời:
露の世は
tsuyu no yo wa
Thế giới giọt sương
露の世ながら
tsuyu no yo nagara
Trong thế giới giọt sương
さりながら
sari nagara
Lìa xa!
(Kobayashi Issa)
Bài thơ là hình ảnh lấp lánh của những giọt sương hay đó chính là những giọt nước mắt rơi của tác giả khi đưa tiễn con gái lìa xa cõi trần. Cảm xúc thầm kín đau buồn của tác giảđã được thể hiện lặng lẽ khép kín phía sau những giọt sương.Một thế giới quá u buồn!
2.2. Giản lược từ mô tả
Mỗi từ được chắt lọc sử dụng trong haiku là một giá trị rất đắt, từ ít nhưng không khô khan, đem đến cho người đọc một bức tranh hoàn mỹ có cả thế giới thiên nhiên vũ trụ và cảm xúc thầm kín của người viết. Trong thơ haiku, những từ mô tả trạng thái như thế nào, màu gì, cảm xúc vui buồn nhớ nhung...đều được lược bỏ, chỉ lưu lại hình ảnh của sự vật. Cũng vì thế haiku còn được gọi là “văn học của hình ảnh” (8).
海暮れて
umi kurete
Biển chạng vạng
鴨の声
kamo no koe
Mờ nhạt
ほのかに白し
honokani shiroshi
Tiếng ngan.
(Matsuo Basho)
Người đọc khó có thể nắm bắt được bối cảnh không gian và thời gian của tác giảđược miêu tả như thế nào. Dường như Basho đang nhận ra trời sập tối, và ngay khoảnh khắc đó vang vọng tiếng ngan cất lên. Basho dùng từ “mờ nhạt” để mô tả tiếng ngan hay khung cảnh trước mắt mờ nhạt vì trời đã sập tối và không còn nhìn thấy rõ được gì, hay chỉ nghe gì đó loáng thoáng và mường tượng đến hình ảnh trăng trắng của chú ngan. Nhưng chính nhờ hình ảnh cô đọng “tiếng ngan mờ nhạt” lại tạo nên hiệu quả trữ tình cho tác phẩm. Thông tin về không gian, tâm trạng, cảm xúc của tác giả đều được che dấu chỉ bật lên một cảm xúc u hoài khi bắt gặp khoảnh khắc thoáng nghe tiếng ngan. Bài thơ được đánh giá là có hiệu quả cao nhất về sự giản lược các chất liệu của thơ (9), tín hiệu thẩm mỹ được thể hiện thông qua các hình ảnh vật thể trong haiku mang đậm chất biểu trưng.
Mưa là hình ảnh rất thường thấy tronghaiku nhưng không miêu tả cụ thể mưa ào ào, mưa vũ bão hay mưa rơi tí tách... mà rất cô đọng.
鶏頭の
keitou no
Cơn mưa cuối Thu
黒きにそそぐ
kuroki ni sosogu
Rót màu đen sẫm
時雨かな
shigure kana
Xuống hoa mào gà.
(Masaoka Shiki)
Bài thơ đã sử dụng hai quý ngữ “keitou” (hoa mào gà) và “shigure” (nhưng chủ đạo là “shigure”) (mưa rào cuối Thu – báo hiệu mùa Đông sắp đến). Nhưng “một màu đen sẫm” thật rất tinh tế khi mô tả những cánh hoa mào gà đang phải hứng chịu một cơn mưa rào nặng hạt đang ào ào xối xả. Và một lần nữa, âm thanh tiếng mưa rào sầm sập, ầm ầm được ẩn mình trong một khoảng lặng! 2.3. Giản lược các quan hệ từ
Giản lược các quan hệ từ hay cú pháp ngữ pháp để nâng cáo tính sáng tạo trong cách diễn đạt để nhằm nhấn mạnh về sự vật mà tác giả muốn nhắm đến, bên cạnh đó làm tăng giá trị biểu cảm và ngữ nghĩa mới cho tác phẩm. Trong haiku hay sử dụng các hình thức đảo từ, đảo ngữ, xáo trộn trật tự. Không có sự liên hệ ngữ nghĩa rành mạch giữa các con chữ, liên hệ tuyến tính bị lu mờ làm tăng thêm tính đa nghĩa, mơ hồ của tác phẩm. Quan hệ giữa các từ nhiều khi bị phá vỡ, khiến người đọc có cảm giác bài thơ như sự chơi chữ. Vì tính cô đọng, thơ haiku cũng buộc phải giản lược ngay cả những giới từ thuộc phạm trù ngữ pháp làm cho haiku thêm mơ hồ.
Trong một bài haiku chỉ có một chủ ngữ và vị ngữ giải thích cho chủ ngữ (10). Một cụm từ có khi là chủ ngữ, có khi có vai trò là vị ngữ đôi khi gây khó hiểu hoặc dễ hiểu lầm nhất là đối với những người mới bước chân vào thế giới haiku và chưa nắm bắt hết quy tắc ngôn ngữ của nó.
時島
hototogisu
Chim đỗ quyên
雲にぬれたる
kumo ni nuretaru
Bên cửa sổ ban mai
朝の窓
asa no mado
Thấm đẫm mây.
Hototogisu (chim đỗ vũ, đỗ quyên, chim cu) sống trên đồi và chỉ bay đến kinh đô vào tháng năm được tượng trưng cho mùa hè. Trong ngôn ngữ thi ca Nhật Bản, mây gợi sự liên tưởng đến cơn mưa. Cửa sổ ban sớm ướt đẫm mây liên tưởng đến cơn mưa đêm qua của mùa hè. Sự mơ hồ của bài thơ có thể dẫn đến cách liên tưởng cũng mơ hồ theo: Chủ ngữ của ‘Thấm đẫm mây” là chim quyên hay cửa sổ còn đẫm ướt mây? Nhưng tận cùng đằng sau hình ảnh cơn mưa mùa hè ban đêm này chính là nỗi buồn và cô đơn của tác giả - thông qua hình ảnh của chim đỗ quyên đang lạnh lẽo ướt sũng - chứ không chỉ miêu tả khoảnh khắc của đêm mưa mùa hè.hototogisu
Chim đỗ quyên
雲にぬれたる
kumo ni nuretaru
Bên cửa sổ ban mai
朝の窓
asa no mado
Thấm đẫm mây.
(Masaoka Shiki)
Rất nhiều bài thơ haiku sử dụng theo lối viết như vậy và dễ dẫn đến hiểu lầm như vậy nếu không phân tích kỹ về mặt ngữ pháp và biểu hiện ngôn ngữ thi ca của haiku.
稲妻や
inazuma ya
Trong chớp sáng
闇の方行く
yami no katayuku
Tiếng diệc
五位の声
go i no koe
Xuyên vào màn đêm.
(Matsuo Basho)
Có lẽ không ai ngoài tác giả hiểu được ngữ cảnh của bài thơ, nội tâm mà tác giả muốn thể hiện. Chỉ đơn giản là các hình ảnh xen lẫn âm thanh: tia chớp, bóng đêm và âm thanh của con diệc. Nếu không nắm bắt được cấu trúc ngôn từ của tiếng Nhật dễ dẫn đến những liên tưởng khác nhau: Là tiếng diệc xé vào không gian chứ không phải hình ảnh con diệc đang xuyên vào màn đêm.
Có thể nói đây cũng là một giá trị đích thực của thi ca: giá trị của thơ là nằm ngay trên văn bản, chứ không chỉ dựa trên bối cảnh xuất xứ của tác phẩm. Và hơn hết đó là sự cảm nhận vô hình vạn trạng từ người đọc. Một tác phẩm có thể sản sinh ra nhiều bài thơ khác dựa trên các tín hiệu thẩm mỹ mà người đọc nắm bắt được qua bài thơ. Giá trị của thơ haiku là khả năng gợi mở để người tiếp nhận có thể khai phá được giá trịtiềm ẩn đã được giản lược đằng sau cái hữu hình của ngôn từ. Vì thế giản lược còn được xem là cú pháp đặc trưng và là “sinh mệnh của haiku”.
Lời kết
Haiku đã tạo được hiệu quả thẩm mỹ cao nhất của cái đẹp không lời, chạm được đến cái tận cùng của hình ảnh ngoài hình ảnh, nghe được thanh âm của vô thanh, đọc được cảm xúc của những khoảng lặng, chuyển cái Tĩnh thành Động, biến cái không lời thành có lời, cái vô hình thành hữu hình, trừu tượng thành cụ thể đem đến cho người đọc một siêu cảm về thế giới xung quanh, một sự liên tưởng phong phú về vạn vật.
牛部屋に
ushi-beya ni
Trong chuồng bò
蚊の声よわし
ka no koe yowashi
Vo ve tiếng muỗi
秋の風
aki no kaze
Gió thu.
(Matsuo Basho)
Quá trình lựa chọn 17 âm tiết mang ngữ nghĩa sâu sắc cũng là lúc mang lại hơi thở sức sống, có tác dụng làm tăng thêm độ âm vang, tạo ra tính hư ảo không tưởng trong haiku. Chỉ một từ nhưng mở ra cả một thế giới truyền đạt vô cùng. Âm vang đọng lại của haiku chính là cái không nhìn thấy trên bề mặt chữ của haiku. Vì thế haiku còn được xem là “văn học của trầm mặc” (7). Việc đề cao sự đối lập tương phản giữa VÔ CÙNG và HỮU HẠN trong thể hiện ngôn từ haiku là con đường dẫn đến Chân, Thiện, Mỹ trong haiku nói riêng và văn hóa Nhật Bản nói chung, là sân khấu Noh im lặng với ngôn ngữ của âm nhạc, là những bình hoa Ikebana phải ngắt bớt cành bớt lá chỉ điểm vài bông hoa tạo cảm giác cần phải lấp đầy những khoảng trống, là âm thanh của tiếng nước sôi khi rót vào chén trà trong khung cảnh u tịch của trà thất, thể hiện cảm thức thẩm mỹ trầm lắng mà dễ lan toả, lặng lẽ nhưng dễ lay thức hồn người, có thể thấu hiểu bản ý (本意 – hon i) của vạn vật.
ものいわず
mono iwazu
Thinh lặng
客と亭主と
kyaku to teishu to
Khách và chủ
白菊と
shira giku to
Và hoa cúc trắng.
(Oshima Ryota)
____________
(1) (4) (5) (7) (8) Hasegawa Kai, 現代俳句の鑑賞101 – Cảm thụ 101 haiku hiện đại, Shinshokan, Japan, 2004, tr.70; tr.71 ; tr.251 ; tr.192 ; tr.238. Kurahashi Youson, 俳句添削入門 – Nhập môn tu chỉnh haiku, Iizuka Shoten, Japan, 1998, tr.72.
(2) (6) Donald Keene - Kanaseki Hisao, 日本人の美意識 – Thẩm mỹ của người Nhật, Chuokoron Shinsha Inc, Japan, 1999, tr.222; tr.90.
(3) Shuichi Kato, Japan Spirit & Form – Hình thức và linh hồn của Nhật Bản, Charles E.Tuttle Publishing, Italy, 1994, tr.68.
(9) Haiku Gihyo Nyuumon Henshu Iinkai, 俳句技法入門 – Nhập môn thi pháp haiku, Iizuka Shoten, Japan, 2005, tr.194.
(10) Ishihara Yatsuka, 俳句文法入門 – Nhập môn ngữ pháp haiku, Iizuka Shoten, Japan, 2008, tr.66.
(*) ThS, Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP.HCM
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: