Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Thế Lữ “Kẻ bộ hành phiêu lãng”
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="dunghoi" data-source="post: 7305" data-attributes="member: 19"><p><strong>THẾ LỮ - Cây đàn muôn điệu</strong></p><p></p><p><strong><span style="color: red">THẾ LỮ - Cây đàn muôn điệu</span></strong></p><p></p><p> <strong><u> I. Cuộc đời và văn nghiệp</u></strong></p><p></p><p> <em><strong><span style="font-size: 12px">Tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh ngày 6 – 10- 1907 ở Thái Hà ấp, Hà Nội. Từ năm 1930 đã viết những truyện ngắn đầu tiên. Có chân trong Tự lực văn đoàn, viết đều đặn trong nhiều mục của các báo Phong hóa và Ngày nay. Là một trong những người khởi xướng phong trào Thơ mới. Các bài trong Mấy vần thơ, tập một ( 1935) đã đưa ông lên hàng đầu những nhà Thơ mới và làm cho phong trào thơ này giành được thắng lợi quyết định. Ông còn viết Mấy vần thơ, tập mới ( 1941) nhiều tiểu thuyết và kịch. Lúc bé, từng theo gia đình sống một thời gian ở Lạng Sơn. Những chuyện đường rừng, chuyện miền núi bí mật và rùng rợn đã để lại dấu vết trong các tác phẩm Vàng và máu ( 1934), Bên đường Thiên lôi ( 1936), Mai Hương và Lê Phong ( 1937), Gió trăng ngàn ( 1941), Trại Bồ Tùng Linh ( 1941).Sau Cách mạng chuyển sang hoạt động sân khấu ( trước 1945 từng đóng kịch và thành lập Ban kịch Thế Lữ). Đã viết một số kịch bản và dịch một số vở của Seecxpia, Gơt, Sile, Pôgôđin. Từng là Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. </span></strong></em></p><p><em><strong><span style="font-size: 12px"></span></strong></em></p><p><em><strong><span style="font-size: 12px">Mất ngày 3 – 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh</span></strong></em></p><p></p><p> </p><p><strong><u>II. Vài nét lớn về tư tưởng, nghệ thuật</u></strong></p><p></p><p> <strong><u>1. Bản hòa tấu của “ cái tôi” khác lạ</u></strong></p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> Đọc bài Tự trào của Thế Lữ, ta cảm thông với một kẻ đi giầy nhầm chân mặc dù chuyện có thật trong thơ là chuyện áo quần vay mượn, thi sĩ lúng túng như gà mắc tóc . Từ bỏ con đường cử nghiệp khoa danh đi tìm kiếm nàng Ly Tao ở cùng đường cuối xứ đến khi trở lại Hà thành hoa lệ năm xưa, nhà thơ lạ lẫm “ như anh Mán học làm sang”. Chiều bạn mà sống khác mình, nhưng cũng chỉ được có dăm hôm. Nhớ đất, nhớ trời , cánh chim phải trở về với đại ngàn của nó:</span></em></strong></span></p><p></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em> Để cho tôi sống đời riêng tôi</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Cuộc đời lang thang, giản dị nhưng mà vui</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Riêng cùng với nàng thơ làm bầu bạn</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Cái sung sướng phồn hoa tôi đã chán. </em></strong></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue">Những câu thơ chưa hẳn đã nên thơ có phong vị đùa vui nhưng tình thì rất thực. Tìm về cội nguồn thi cảm, cái đẹp tự nhiên, kể cả cái hồn nhiên trong mộng tưởng với nhà thơ, đó mới là lã sống. Gọi nó là nghệ thuật vị nghệ thuật cũng không sai, nhưng chưa thể nói là hoàn toàn đúng hẳn. Bởi xét đến cùng , có lẽ đó cũng là một khía cạnh vị nhân sinh trên phương diện nào đó. Vì hành trình đi tìm cái đẹp xét đến cùng là gì nếu nó không là đòi hỏi tự thân của lòng ham sống? Thêm nữa , cái đẹp ở đây nên hiểu trên một biên độ rộng, một kích cỡ đa chiều chứ đâu chỉ là một quan điểm duy mỹ giản đơn thu mình lại ở những khái niệm ngôn từ , hình thức văn chương thuần túy. Dấu hiệu đầu tiên của cái tôi lành mạnh, khỏe khoắn và mới mẻ là thái độ dứt khoát không đội chung trời với một “ xã hội vô nhân”, một sự hạ cấp để “ chịu ngang bầy” với những ai kia trong lồng cũi. Thái độ ấy là một định hướng một điểm tựa, một tuyên ngôn. Cái khoảng cách mà nhà thơ vạch ra muốn thục hiện được chỉ có một cách là thi sĩ ấy phải vượt được chính mình. Chẳng hạn như ở vào lứa tuổi đôi mươi , cũng như mọi người, Thế Lữ đâu dễ thoát vòng tình ái. Chứng cớ là dù lòng đã dặn lòng: “ Trong thưở bình sinh, đôi mắt ta, không hề cho đẫm lệ bao giờ”, ấy thế mà nghe tiếng gọi ái ân, nhà thơ tự thú: “ Nước mắt đầu tiên lã chã rơi”. Bởi vì tiếng hát người con gái nào kia lạ quá::</span></em></strong></span></p><p></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em>Tiếng hát trong như suối Ngọc tuyền</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Êm như hơi gió thoảng cung tiên</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Cao như thông vút, buồn như liễu</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.</em></strong></span></p><p> ( Tiếng gọi bên sông)</p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> “ Đứng yên” là một trạng thái bị động mà kẻ đầy tráng chí đã rơi vào. Nhưng dù trái tim mềm yếu đang đập những nhịp khác thường, bám víu vào lí trí, nhà thơ hăm hở gạt đi không thương tiếc::</span></em></strong></span></p><p></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em> Đang độ nam nhi vui vẻ hoài</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Sầu tư bi thiết gác bên tai</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Trái tim chỉ rộn khi căm tức</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Ghét lũ vô nhân, giận nỗi đời</em></strong></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> Như thế là phải bao nhiêu nước mắt, cái tôi của nhà thơ mới vươn tới sự tiếp cận, hơn thế, sự hòa nhập với cái tầng cao đẹp của nhân sinh, với cốt cách, với sự định hình của một lí tưởng. Tiếng gọi lên đường, tiếng gọi non sông( nhất là trong lúc “ non sông mờ cát bụi” ) dù không giục giã, bồn chồn nhưng thật thiết tha, trong trẻo. Nhất là nó thành thực, nhân văn. Day dứt, suy tư cho thế sự rõ ràng là một thái độ đầy trách nhiệm trước cuộc đời. Ta nên trân trọng cái mạch thơ trăn trở ấy::</span></em></strong></span></p><p></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em>Hai mươi sáu tuổi mà xem nhường</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Quá nửa đời dầu dãi nắng sương</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Các chén chua cay hồ dốc cạn</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Trăm lần ôm nặng nỗi bi thương</em></strong></span></p><p> ( Tôi muốn đi )</p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> Có thể nói vừa bước vào cuộc sống – cái cuộc sống không như mình tưởng là một giấc mộng ngọt ngào, một Thế Lữ đã già đi rất nhiều trước tuổi. Tâm trạng thơ giống cái ngơ ngác của kẻ lữ hành đứng giữa ngã ba lúc hoàng hôn buông xuống. Dù ngơ ngác, lạc loài, tâm hồn chưa một lần vẩn đục của người thanh niên không chịu lẫn vào cái xã hội ồn ào, bụi bặm kia vẫn thật đáng yêu::</span></em></strong></span></p><p></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em>Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Trong lúc gần xa pháo nổ ran</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Rũ áo phong sương trên gác trọ</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang</em></strong></span></p><p> ( Giây phút chạnh lòng)</p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> Thì ra hành trình đi tìm cái đẹp, “ đi hái những vần thơ” là một giải pháp tình thế giữa cuộc đời chứ phải đâu là trong mộng tưởng. Những câu thơ đầy dũng cảm ngang tàng cứ gọi nhau và không chỉ một lần trở đi trở lại: :</span></em></strong></span></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em> Năm năm theo tiếng gọi lên đường</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.</em></strong></span></p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> Chính là được gạn chắt, gợi khơi từ tinh chất tâm hồn nên nếu xâu chuỗi những tâm trạng tưởng chừng rất khác nhau, chúng vẫn chung nguồn mạch, vì thực chất lại rất gần nhau. Chẳng hạn như một bài thơ vào hàng kiệt tác: Nhớ rừng, người ta thường xem nó như một thứ tuyên ngôn nghệ thuật, mà thực ra đâu chỉ là nghệ thuật? Bằng nghệ thuật, nó nói được những điều hệ trọng nhất của cuộc đời. Với cuộc đời, nó đã là máu thịt, máu thịt ở cái phần cao đẹp nhất của nhân sinh. Đã có thời người ta phê phán bài thơ ở câu “ Ta biết ta là chúa tể của muôn loài”. Giờ nghĩ lại thấy thật là ấu trĩ. Bởi nếu cứ theo cái thiên kiến giai cấp hẹp hòi kia, nếu con hổ “ chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi” thì ở cái nơi “ bóng cả, cây già” kia, con hổ đâu còn là chính nó? “ Chúa tể của muôn loài” chẳng qua là một thuộc tính tự thân mà thiên nhiên ban phát. Nó đâu phải là một thứ đế vương của xã hội loài người, khi mà mọi thứ ngai vàng được dựng lên không ít là trên núi xương sông máu. Ấy là chưa kể đến sự toàn vẹn, đến tính logic của hình tượng thơ để nói cho được một tâm trạng, một giấc mơ, một khao khát!</span></em></strong></span></p><p><span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"></span></em></strong></span></p><p><span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> Chung quy cái đẹp của cõi thơ đâu có xa cách với cõi người . Chúng gặp nhau ở lòng thành thực. Đó là cái mạnh tạo nên sức hấp dẫn không cưỡng nổi của sáng tạo văn chương. Ta mới hiểu công lao của một thi sĩ. Trong các cuộc luận chiến liên quan đến sự ra đời của thơ mới, Thế Lữ hầu như không hề có mặt. Ấy thế mà như Hoài Thanh quan sát: “ Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc, cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ” ( Thi nhân Việt Nam). Sự thừa nhận của đông đảo độc giả với người chiến sĩ tiên phong này đâu chỉ thiên lệch dừng lại ở phạm trù mĩ cảm cho dù văn chương thì trước hết phải là nghệ thuật văn chương. Nghệ thuật vi diệu ấy đã đạt đến yêu cầu của sự khám phá, trước hết là tự khám phá. Và trên con đường tìm cái tôi, xuất hiện nhu cầu đến với cái đẹp. Cái đẹp này song hành với lí tưởng , với quan niệm nhân sinh mà ta vừa nói ở phần trên. Nó kết trái nở hoa trong nhận thức như một tình cờ . Thi nhân đã có lần hồi tưởng::</span></em></strong></span></p><p></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em> Ngày xưa còn nhỏ đi săn bướm</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Bướm sợ bay tìm trốn dưới hoa</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Ta thấy hoa cười mê mải ngắm</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Thế là từ đấy biết Nàng Thơ</em></strong></span></p><p> ( Ngày xưa còn nhỏ )</p><p></p><p> <span style="font-size: 12px"><strong><em><span style="color: blue"> Từ buổi tri ngộ tình cờ này, nhận thức ấy về vẻ đẹp và sứ mệnh thi ca sẽ còn được phát triển toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong bài Cây đàn muôn điệu. Để có trái ngọt thi ca, cây thơ phải sum suê cành lá. Và muốn thế , tất nhiên nó phải sâu rễ bền gốc vào lòng đất, lòng người. Nếu không muốn cảm hứng cạn vơi, phải vươn về phía đó, chứ còn tuyên ngôn này nọ chẳng có ý nghĩa gì nhiều nếu không kèm với nó – những tuyên ngôn ấy, là nghệ thuật, là đích thực văn chương::</span></em></strong></span></p><p></p><p> <span style="color: magenta"><strong><em>Anh thường bảo tính tình tôi thay đổi</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi?</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Tôi chỉ là một khách tình si</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Ham cái đẹp muôn hình muôn vẻ</em></strong></span></p><p><span style="color: magenta"><strong><em> Mượn lấy bút nàng </em></strong></span></p><p></p><p>(Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="dunghoi, post: 7305, member: 19"] [b]THẾ LỮ - Cây đàn muôn điệu[/b] [B][COLOR="red"]THẾ LỮ - Cây đàn muôn điệu[/COLOR][/B] [B][U] I. Cuộc đời và v[COLOR="blue"][/COLOR]ăn nghiệp[/U][/B] [I][B][SIZE="3"]Tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh ngày 6 – 10- 1907 ở Thái Hà ấp, Hà Nội. Từ năm 1930 đã viết những truyện ngắn đầu tiên. Có chân trong Tự lực văn đoàn, viết đều đặn trong nhiều mục của các báo Phong hóa và Ngày nay. Là một trong những người khởi xướng phong trào Thơ mới. Các bài trong Mấy vần thơ, tập một ( 1935) đã đưa ông lên hàng đầu những nhà Thơ mới và làm cho phong trào thơ này giành được thắng lợi quyết định. Ông còn viết Mấy vần thơ, tập mới ( 1941) nhiều tiểu thuyết và kịch. Lúc bé, từng theo gia đình sống một thời gian ở Lạng Sơn. Những chuyện đường rừng, chuyện miền núi bí mật và rùng rợn đã để lại dấu vết trong các tác phẩm Vàng và máu ( 1934), Bên đường Thiên lôi ( 1936), Mai Hương và Lê Phong ( 1937), Gió trăng ngàn ( 1941), Trại Bồ Tùng Linh ( 1941).Sau Cách mạng chuyển sang hoạt động sân khấu ( trước 1945 từng đóng kịch và thành lập Ban kịch Thế Lữ). Đã viết một số kịch bản và dịch một số vở của Seecxpia, Gơt, Sile, Pôgôđin. Từng là Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Mất ngày 3 – 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh[/SIZE][/B][/I] [B][U]II. Vài nét lớn về tư tưởng, nghệ thuật[/U][/B] [B][U]1. Bản hòa tấu của “ cái tôi” khác lạ[/U][/B] [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"] Đọc bài Tự trào của Thế Lữ, ta cảm thông với một kẻ đi giầy nhầm chân mặc dù chuyện có thật trong thơ là chuyện áo quần vay mượn, thi sĩ lúng túng như gà mắc tóc . Từ bỏ con đường cử nghiệp khoa danh đi tìm kiếm nàng Ly Tao ở cùng đường cuối xứ đến khi trở lại Hà thành hoa lệ năm xưa, nhà thơ lạ lẫm “ như anh Mán học làm sang”. Chiều bạn mà sống khác mình, nhưng cũng chỉ được có dăm hôm. Nhớ đất, nhớ trời , cánh chim phải trở về với đại ngàn của nó:[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I] Để cho tôi sống đời riêng tôi Cuộc đời lang thang, giản dị nhưng mà vui Riêng cùng với nàng thơ làm bầu bạn Cái sung sướng phồn hoa tôi đã chán. [/I][/B][/COLOR] [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"]Những câu thơ chưa hẳn đã nên thơ có phong vị đùa vui nhưng tình thì rất thực. Tìm về cội nguồn thi cảm, cái đẹp tự nhiên, kể cả cái hồn nhiên trong mộng tưởng với nhà thơ, đó mới là lã sống. Gọi nó là nghệ thuật vị nghệ thuật cũng không sai, nhưng chưa thể nói là hoàn toàn đúng hẳn. Bởi xét đến cùng , có lẽ đó cũng là một khía cạnh vị nhân sinh trên phương diện nào đó. Vì hành trình đi tìm cái đẹp xét đến cùng là gì nếu nó không là đòi hỏi tự thân của lòng ham sống? Thêm nữa , cái đẹp ở đây nên hiểu trên một biên độ rộng, một kích cỡ đa chiều chứ đâu chỉ là một quan điểm duy mỹ giản đơn thu mình lại ở những khái niệm ngôn từ , hình thức văn chương thuần túy. Dấu hiệu đầu tiên của cái tôi lành mạnh, khỏe khoắn và mới mẻ là thái độ dứt khoát không đội chung trời với một “ xã hội vô nhân”, một sự hạ cấp để “ chịu ngang bầy” với những ai kia trong lồng cũi. Thái độ ấy là một định hướng một điểm tựa, một tuyên ngôn. Cái khoảng cách mà nhà thơ vạch ra muốn thục hiện được chỉ có một cách là thi sĩ ấy phải vượt được chính mình. Chẳng hạn như ở vào lứa tuổi đôi mươi , cũng như mọi người, Thế Lữ đâu dễ thoát vòng tình ái. Chứng cớ là dù lòng đã dặn lòng: “ Trong thưở bình sinh, đôi mắt ta, không hề cho đẫm lệ bao giờ”, ấy thế mà nghe tiếng gọi ái ân, nhà thơ tự thú: “ Nước mắt đầu tiên lã chã rơi”. Bởi vì tiếng hát người con gái nào kia lạ quá::[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I]Tiếng hát trong như suối Ngọc tuyền Êm như hơi gió thoảng cung tiên Cao như thông vút, buồn như liễu Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.[/I][/B][/COLOR] ( Tiếng gọi bên sông) [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"] “ Đứng yên” là một trạng thái bị động mà kẻ đầy tráng chí đã rơi vào. Nhưng dù trái tim mềm yếu đang đập những nhịp khác thường, bám víu vào lí trí, nhà thơ hăm hở gạt đi không thương tiếc::[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I] Đang độ nam nhi vui vẻ hoài Sầu tư bi thiết gác bên tai Trái tim chỉ rộn khi căm tức Ghét lũ vô nhân, giận nỗi đời[/I][/B][/COLOR] [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"] Như thế là phải bao nhiêu nước mắt, cái tôi của nhà thơ mới vươn tới sự tiếp cận, hơn thế, sự hòa nhập với cái tầng cao đẹp của nhân sinh, với cốt cách, với sự định hình của một lí tưởng. Tiếng gọi lên đường, tiếng gọi non sông( nhất là trong lúc “ non sông mờ cát bụi” ) dù không giục giã, bồn chồn nhưng thật thiết tha, trong trẻo. Nhất là nó thành thực, nhân văn. Day dứt, suy tư cho thế sự rõ ràng là một thái độ đầy trách nhiệm trước cuộc đời. Ta nên trân trọng cái mạch thơ trăn trở ấy::[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I]Hai mươi sáu tuổi mà xem nhường Quá nửa đời dầu dãi nắng sương Các chén chua cay hồ dốc cạn Trăm lần ôm nặng nỗi bi thương[/I][/B][/COLOR] ( Tôi muốn đi ) [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"] Có thể nói vừa bước vào cuộc sống – cái cuộc sống không như mình tưởng là một giấc mộng ngọt ngào, một Thế Lữ đã già đi rất nhiều trước tuổi. Tâm trạng thơ giống cái ngơ ngác của kẻ lữ hành đứng giữa ngã ba lúc hoàng hôn buông xuống. Dù ngơ ngác, lạc loài, tâm hồn chưa một lần vẩn đục của người thanh niên không chịu lẫn vào cái xã hội ồn ào, bụi bặm kia vẫn thật đáng yêu::[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I]Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan Trong lúc gần xa pháo nổ ran Rũ áo phong sương trên gác trọ Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang[/I][/B][/COLOR] ( Giây phút chạnh lòng) [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"] Thì ra hành trình đi tìm cái đẹp, “ đi hái những vần thơ” là một giải pháp tình thế giữa cuộc đời chứ phải đâu là trong mộng tưởng. Những câu thơ đầy dũng cảm ngang tàng cứ gọi nhau và không chỉ một lần trở đi trở lại: :[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I] Năm năm theo tiếng gọi lên đường Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.[/I][/B][/COLOR] [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"] Chính là được gạn chắt, gợi khơi từ tinh chất tâm hồn nên nếu xâu chuỗi những tâm trạng tưởng chừng rất khác nhau, chúng vẫn chung nguồn mạch, vì thực chất lại rất gần nhau. Chẳng hạn như một bài thơ vào hàng kiệt tác: Nhớ rừng, người ta thường xem nó như một thứ tuyên ngôn nghệ thuật, mà thực ra đâu chỉ là nghệ thuật? Bằng nghệ thuật, nó nói được những điều hệ trọng nhất của cuộc đời. Với cuộc đời, nó đã là máu thịt, máu thịt ở cái phần cao đẹp nhất của nhân sinh. Đã có thời người ta phê phán bài thơ ở câu “ Ta biết ta là chúa tể của muôn loài”. Giờ nghĩ lại thấy thật là ấu trĩ. Bởi nếu cứ theo cái thiên kiến giai cấp hẹp hòi kia, nếu con hổ “ chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi” thì ở cái nơi “ bóng cả, cây già” kia, con hổ đâu còn là chính nó? “ Chúa tể của muôn loài” chẳng qua là một thuộc tính tự thân mà thiên nhiên ban phát. Nó đâu phải là một thứ đế vương của xã hội loài người, khi mà mọi thứ ngai vàng được dựng lên không ít là trên núi xương sông máu. Ấy là chưa kể đến sự toàn vẹn, đến tính logic của hình tượng thơ để nói cho được một tâm trạng, một giấc mơ, một khao khát! Chung quy cái đẹp của cõi thơ đâu có xa cách với cõi người . Chúng gặp nhau ở lòng thành thực. Đó là cái mạnh tạo nên sức hấp dẫn không cưỡng nổi của sáng tạo văn chương. Ta mới hiểu công lao của một thi sĩ. Trong các cuộc luận chiến liên quan đến sự ra đời của thơ mới, Thế Lữ hầu như không hề có mặt. Ấy thế mà như Hoài Thanh quan sát: “ Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc, cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ” ( Thi nhân Việt Nam). Sự thừa nhận của đông đảo độc giả với người chiến sĩ tiên phong này đâu chỉ thiên lệch dừng lại ở phạm trù mĩ cảm cho dù văn chương thì trước hết phải là nghệ thuật văn chương. Nghệ thuật vi diệu ấy đã đạt đến yêu cầu của sự khám phá, trước hết là tự khám phá. Và trên con đường tìm cái tôi, xuất hiện nhu cầu đến với cái đẹp. Cái đẹp này song hành với lí tưởng , với quan niệm nhân sinh mà ta vừa nói ở phần trên. Nó kết trái nở hoa trong nhận thức như một tình cờ . Thi nhân đã có lần hồi tưởng::[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I] Ngày xưa còn nhỏ đi săn bướm Bướm sợ bay tìm trốn dưới hoa Ta thấy hoa cười mê mải ngắm Thế là từ đấy biết Nàng Thơ[/I][/B][/COLOR] ( Ngày xưa còn nhỏ ) [SIZE="3"][B][I][COLOR="blue"] Từ buổi tri ngộ tình cờ này, nhận thức ấy về vẻ đẹp và sứ mệnh thi ca sẽ còn được phát triển toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong bài Cây đàn muôn điệu. Để có trái ngọt thi ca, cây thơ phải sum suê cành lá. Và muốn thế , tất nhiên nó phải sâu rễ bền gốc vào lòng đất, lòng người. Nếu không muốn cảm hứng cạn vơi, phải vươn về phía đó, chứ còn tuyên ngôn này nọ chẳng có ý nghĩa gì nhiều nếu không kèm với nó – những tuyên ngôn ấy, là nghệ thuật, là đích thực văn chương::[/COLOR][/I][/B][/SIZE] [COLOR="magenta"][B][I]Anh thường bảo tính tình tôi thay đổi Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi? Tôi chỉ là một khách tình si Ham cái đẹp muôn hình muôn vẻ Mượn lấy bút nàng [/I][/B][/COLOR] (Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Thế Lữ “Kẻ bộ hành phiêu lãng”
Top