Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Địa lí Việt Nam
Địa lí KT-XH Việt Nam
Tên gọi của sông Hồng: Dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hóa trong lịch sử người Việt
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 12944" data-attributes="member: 6"><p><strong>HỘI THẢO QUỐC TẾ VIỆT NAM HỌC LẦN THỨ BA</strong></p><p><strong>Hà Nội, 4-7 tháng 12 năm 2008</strong></p><p><strong>-------------------------------------</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong></strong></p><p><strong></strong></p><p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"><strong>TÊN GỌI CỦA SÔNG HỒNG: DẤU TÍCH BIỂU HIỆN NÉT ĐA DẠNG VĂN HOÁ TRONG LỊCH SỬ NGƯỜI VIỆT.</strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"></span></p><p></p><p style="text-align: right"><strong> Trần Trí Dõi</strong></p> <p style="text-align: right"></p> <p style="text-align: right"><strong> <em>Khoa Ngôn ngữ học</em></strong></p> <p style="text-align: right"></p> <p style="text-align: right"><strong> Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn </strong></p> <p style="text-align: right"></p> <p style="text-align: right"><strong> ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI. </strong></p><p></p><p></p><p> </p><p> <strong>1.Sông Hồng và những tên gọi có trong lịch sử.</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong></strong></p><p> 1.1. Sông Hồng là con sông giữ vị trí văn hoá vô cùng quan trọng không chỉ của riêng thủ dô Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn hiến mà còn của cả vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Ngoài dòng chảy chính đi qua Hà Nội, sông Hồng còn có nhiều chi lưu làm nên một châu thổ trù phú: đồng bằng châu thổ sông Hồng. Cho đến hiện nay, cả trong ghi chép của lịch sử và cả trong sử dụng của dân gian người ta đã nói đến những <em>tên gọi</em> khác nhau của con sông này. Do tính chất quan trọng của con sông trong đời sống cộng đồng dân cư trong vùng, mỗi một tên gọi của nó đều ít nhiều phản ánh dấu vết văn hoá của những chủ nhân đã từng sử dụng những tên gọi đó. Phân tích sự khác nhau của các tên gọi sông Hồng theo nguồn gốc ngôn ngữ và cách cấu tạo, trong một chừng mực nhất định, sẽ giúp chúng ta phần nào làm rõ tính đa dạng văn hoá trong tiến trình phát triển lịch sử của người Việt ở cái nôi hình thành nền văn hoá của dân tộc.</p><p> </p><p> <p style="text-align: center"><img src="https://www.ngonnguhoc.org/images/stories/2009/nghiencuu/bainghienncuu/050309.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p> <p style="text-align: center"> </p> <p style="text-align: center"><em> Bản đồ “các tiểu lưu vực của sông Hồng trên lãnh thổ Việt Nam”</em></p> <p style="text-align: center"></p><p> </p><p></p><p></p><p> 1.2. Theo bức tranh phân loại ngôn ngữ ở khu vực hiện được nhiều người đồng tình và sử dụng, Đông Nam Á có năm họ ngôn ngữ là Hán Tạng (Sino - Tibetan), Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesian), Thái - Kađai (Tai - Kadai) và Mông - Dao (Miêu - Yao) [TTD, (1999)]. Về ngôn ngữ, địa bàn Việt Nam được coi là “bức tranh thu nhỏ của khu vực Đông Nam Á” nên ở đây cũng là vùng lãnh thổ hiện diện năm họ ngôn ngữ này. Khi xem xét các tên gọi khác nhau của sông Hồng, chúng tôi sẽ xuất phát từ sự phân loại ngôn ngữ nói trên để nhìn nhận tính đa dạng về nguồn gốc ngôn ngữ, qua đó nhận diện tính đa dạng về văn hoá của chúng. Khi mà những cư dân cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (và cụ thể hơn là vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam) sử dụng tên gọi sông Hồng theo cách của “ngôn ngữ mình”, họ sẽ lưu những tên gọi đó lại trong lịch sử. Nhờ đó chúng ta nhận biết sự hội tụ nét đa dạng văn hoá của một vùng lãnh thổ cụ thể: vùng đồng bằng Bắc Bộ và một nền văn minh cụ thể: nền văn minh sông Hồng, một trong những cội nguồn chính làm nên tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam hiện nay.</p><p></p><p></p><p> 1.3. Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Ai Lao (<em>Ai Lão sơn</em>) thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Khi chảy vào lãnh thổ Việt Nam nó đi qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình rồi đỏ ra biển. Trên dòng chảy chính ấy, mỗi một khúc đoạn, nó lại có những tên gọi khác nhau. Ngoài ra, ngay cùng một khúc đoạn trong mỗi một thời gian lịch sử cụ thể nó lại có những tên gọi riêng do cư dân hay điều kiện văn hoá quy định. Và đây chính là nguyên do và cũng là cơ sở để chúng ta, trên cơ sở nhận diện nguồn gốc ngôn ngữ và cách cấu tạo những tên khác nhau của dòng sông chính ấy để qua đó nhận biết sự đa dạng văn hoá theo tên gọi của nó.</p><p></p><p></p><p> 1.3.1. Sử sách của nước ta [QSQTN, t4 (1997), 254] , [NVS,(2003) 349] ghi chép trên phần trên lãnh thổ Trung Quốc sông Hồng có tên gọi từ xưa là <em>Lan Thương, Nguyên Giang, Ma Hà</em> (hay <em>Lễ Xá</em>)<em>, Lê Hoa</em> và sông<em> Âu</em>; khi chảy vào nước ta người ta gọi nó là sông<em> Thao.</em> Ngày nay, những nghiên cứu về địa lý cho thấy <em>Lan Thương </em>là tên gọi thượng nguồn của dòng Mê Công chảy trên đất Trung Quốc chứ không phải là thượng nguồn sông Hồng như các tài liệu lịch sử cũ đã ghi lại.</p><p></p><p></p><p> 1.3.2. Khi chảy vào Việt Nam sách sử xưa cho biết sông Hồng có các tên là sông <em>Thao</em>, sông <em>Nhị/Nhĩ Hà</em>, sông <em>Phú Lương</em>, sông <em>Bạch Hạc, </em>sông <em>Tam Đới, </em>sông<em> Đại Hoàng,</em> sông <em>Xích Đằng, </em>sông <em>Hoàng Giang </em>và sông <em>Lô </em>hay <em>Lô Giang.</em> Những tên gọi này được sách sử ghi chép lại cụ thể như sau:</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Thao </em>[NVS, (2003) 349; QSQTN, t4 (1997), 253].</p><p> - Sông <em>Nhị Hà/Nhĩ Hà</em> [QSQTN, t4 (1997), 256]</p><p> - Sông <em>Phú Lương </em> [QSQTN, t3 (1997), 186]. Thực ra tên gọi Phú Lương này là dẫn theo <em>An Nam chí lược </em>của Cao Hùng Trưng.</p><p> - Sông <em>Bạch Hạc</em> [QSQTN, t3 (1997), 186; t4 (1997), 253].</p><p> - Sông <em>Tam Đới</em> [QSQTN, t3 (1997), 186; t4 (1997), 253].</p><p> - Sông <em>Đại Hoàng</em> [QSQTN, t3 (1997), 186; t4 (1997), 253].</p><p> - Sông <em>Xích Đằng</em> hay sông <em>Đằng</em> [QSQTN, t3 (1997), 297].</p><p> - Sông <em>Lô</em> hay <em>Lô Giang </em>[QSQTN, t4 (1997), 253].</p><p></p><p></p><p> Theo giải thích của những sách sử nói trên, hai tên gọi Phú Lương và Lô hay Lô Giang xuất hiện sớm hơn cả. Tên <em>Phú Lương</em> có từ thời Cao Hùng Trưng và vào thời Lý nó vẫn và đã được sử dụng. Còn tên gọi <em>Lô</em> hay <em>Lô Giang</em> có từ thời nhà Trần và đã được chép lại trong <em>Đại Việt sử ký toàn thư</em>. Những tài liệu lịch sử cũng cho thấy hai tên gọi nói trên có tính kế thừa nhau nhưng không loại trừ nhau trong lịch sử.</p><p></p><p></p><p> Ngoài những tên gọi được ghi chép đó ra, sông Hồng còn có một tên gọi dân gian là sông <em>Cái.</em> Khi thực dân pháp xâm lược nước ta, con sông <em>Cái</em> này luôn “đỏ nặng phù sa” nên được người Pháp gọi là “rivière rouge” (sông có màu nước đỏ/hồng) và tên gọi sông <em>Hồng</em> hay <em>Hồng Hà</em> bắt đầu được sử dụng. Có thể nói, tên gọi sồng <em>Hồng</em> hay <em>Hồng Hà</em> được dùng phổ biến hiện nay chính thức xuất hiện vào thế kỷ XIX.</p><p></p><p></p><p> 2. Như vây, cả trong sử sách và tên gọi dân gian, sông Hồng có khoảng mười tên gọi khác nhau và một số biến thể của mười tên gọi ấy. Dựa vào cách giải thích “nghĩa” (đúng hơn là lý do hay cách thức) gọi tên, người ta có thể chia chúng làm ba kiểu khác nhau. Mỗi một kiểu tên gọi trong số đó sẽ phản ánh “cách thức đặt tên” hay lý do gọi tên thể hiện nguồn gốc ngôn ngữ của những tên gọi ấy.</p><p></p><p></p><p> 2.1. Nhóm thứ nhất là tên gọi sông <em>Cái, </em>sông <em>Thao, </em>sông <em>Nhĩ Hà/Nhị Hà</em> và sông <em>Hồng/ Hồng Hà</em>. Đây là cách gọi tên thể hiện “tính chất, đặc điểm” của con sông do chủ thể nhận diện sử dụng ngôn ngữ của mình để gọi tên sông.</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Cái</em>, có nghĩa là sông<em> chính</em>. Những cư dân Việt nói tiếng Việt có nguồn gốc Nam Á (Austroasiatic) là chủ thể của cách gọi tên này. Bởi vì trong tiếng Việt, chúng ta có không ít những từ hay ngữ như “ngón tay <em>cái</em>”, “đường <em>cái”, </em>“sông <em>cái”</em>, “cầm <em>cái”</em>v.v có nét nghĩa như thế. Có thể thấy, việc nhận diện sông để đặt tên cho nó là căn cứ vào “tính chất” của sông: con sông giữ vai trò chính ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Thao</em>, cũng có nghĩa là sông <em>chính</em>. Tên gọi <em>Thao</em> là tên gọi theo cách của người Việt hoặc người Hán bắt nguồn từ tên gọi có nguồn gốc Thái - Kađai là <em>tao</em> (trong “nặm <em>tao</em>”, nghĩa là “sông lớn, sông chính”). Ở Việt Nam, người ta cũng còn gặp một tên gọi kiểu như thế ở vùng Thái Nghệ An: người Thái ở miền đất này gọi con “sông <em>Cả</em>” hay “sông <em>Lam</em>” của người Việt là “nặm <em>Pao</em>” với nghĩa là “sông <em>lớn, chính</em>”. (Năm 2000, trong dịp tham dự hội nghị về ngôn ngữ và văn hoá Thái Áo Hoa do Viện Khoa học Xã hội Vân Nam tổ chức ở huyện tự trị Tân Bình thuộc Ngọc Khê tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chúng tôi cũng thấy người Thái ở Tân Bình gọi đoạn thượng nguồn sông Hồng chảy qua đây trên lãnh thổ Trung Quốc là “nặm <em>tao</em>” với nghĩa là “con sông chính” của vùng đất.</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Nhị Hà</em>/<em>Nhĩ Hà</em> (tức là sông <em>Nhị</em>/<em>Nhĩ</em>) được giải thích là có từ thời nhà Minh chiếm đóng Đại Việt. Sách “Đại Nam nhất thống chí” dẫn lại “Đại Thanh nhất thống chí” ghi rằng “Lại xét về tên Nhị Hà thì Hoàng Phúc nước Minh đắp thành Đại La, thấy nước sông chảy vòng quanh như hình cái vành tai, bèn đặt tên này” [QSQTN, t4 (1997), 186]. Qua lời ghi chép ấy có thể thấy cách gọi <em>Nhị Hà</em>/<em>Nhĩ Hà</em> (sông <em>Nhị</em>/<em>Nhĩ</em>) là để giải thích đặc điểm “nước sông chảy vòng quanh như hình cái vành tai”. Đặc điểm của sông được thể hiện bằng tên gọi theo tiếng Hán và sau đó là tiếng Hán - Việt.</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Hồng</em>/<em>Hồng Hà</em> có nghĩa là “sông có mầu nước đỏ”. Theo cách ghi của “Đại Nam nhất thống chí” thì đến giữa thế kỷ XIX, tên sông vẫn là <em>Nhị</em> hay <em>Nhị Hà</em>. Đến Việt Nam, với yêu cầu ghi tên sông vào văn bản, người Pháp đã lựa chọn đặc điểm “sông có mầu nước đỏ/hồng” và thể hiện bằng ngôn ngữ của mình với nghĩa như vậy. Người ta cũng có sở khi giải thích rằng cách nhận diện để gọi tên sông là <em>Hồng</em>/<em>Hồng Hà</em> cũng có thể là của người Hán hay người Việt. Nhưng trong sử sách của Việt Nam cho đến thời điểm giữa thế kỷ XIX, tên gọi này không thấy xuất hiện. Với lại, đối với người Việt nếu gọi sông Hồng bằng tên Hán - Việt thì đã có <em>Nhị Hà</em>, <em>Phú Lương</em>, <em>Lô Giang</em>, <em>Đại Hoàng</em> v.v. Còn nếu gọi theo cách dân gian đã có tên gọi sông <em>Cái</em> quen thuộc. Vì thế, chúng tôi nghiêng về chấp nhận cách giải thích cho rằng sông <em>Hồng</em>/<em>Hồng Hà</em> là cách nhận diện và thể hiện tên gọi của sông theo tiếng Pháp khi họ đến xâm lược Việt Nam.</p><p></p><p></p><p> 2.2. Nhóm tên gọi thứ hai là <em>Bạch Hạc</em>, <em>Tam Đới</em>, <em>Xích Đằng</em> và <em>Đại Hoàng</em>. Những tên gọi theo tiếng Hán hay Hán - Việt này đều có một nét chung là để chỉ “địa danh lãnh thổ nơi con sông chảy qua”. Nói cách khác, những tên gọi sông Hồng này là căn cứ vào “địa điểm, lãnh thổ nơi con sông chảy qua”. </p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Bạch Hạc</em>, theo “Đại Nam nhất thống chí” dẫn lại <em>An nam chí lược</em> của Cao Hùng Trưng, là tên gọi khi con sông hợp lưu với sông Đà ở ngã ba Bạch Hạc. Sách này chép “Sông <em>Phú Lương</em>, ở địa phận huyện Đông Quan, phủ Giao Châu, có một tên nữa là sông <em>Lô</em>, thượng lưu giáp sông <em>Bạch Hạc</em> châu Tam Đái, chảy qua phía đông phủ thành, thông đến sông <em>Đại Hoàng</em> thuộc huyện Lý Nhân rồi đổ ra biển” [QSQTN, t4 (1997), 186].</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Tam Đới, </em>cũng theo “Đại Nam nhất thống chí”, là tên gọi con sông khi nó chảy qua châu Tam Đái/Đới. Sách này giải thích “Người ta vẫn theo lệ cũ mà gọi tên sông theo từng khúc một - ví dụ …khúc ở khoảng Bạch Hạc gọi là sông <em>Tam Đới, </em>…” [QSQTN, t4 (1997), 253].</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Xích Đằng</em> là tên gọi khi sông chảy qua Đằng Châu. Theo ghi chép của “Đồng Khánh địa dư chí” thì “Một dòng sông lớn, tên là sông Nhj Hà, cũng gọi là Xích Đằng (đoạn sông Nhị chảy qua Khoái Châu)” [QSQTN, (2003), 251]. Khoái Châu thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên ngày nay cũng là vùng đất cổ có những địa danh như đền <em>Đằng Châu</em>, bãi <em>Xích Đằng</em> “là kho của các đời và là chỗ xung yếu then khoá” [PHC (1960), 80].</p><p></p><p></p><p> - Sông <em>Đại Hoàng</em> là tên gọi sông Hồng từ Hưng Yên đến ngã ba Hoàng Giang hay ngã ba Vường (điểm giao nối sông Hồng và sông Luộc), qua huyện Lý Nhân chảy ra biển. Ở đoạn này, sông còn có một tên gọi khác nữa là <em>Hoàng Giang</em>. Có lẽ vì là khúc sông chảy qua vùng đất Đại Hoàng nên người ta đã gọi sông Hồng nơi đây là Đại Hoàng hay Hoàng Giang [QSQTN, t3 (1997), 340].</p><p></p><p></p><p> Một điều cần chú ý là các tên gọi thuộc nhóm này thường chỉ thấy chỉ thấy dùng nhiều trong sách vở. Sự “đóng khung” về phạm vi sử dụng hình như phản ánh có lẽ đây là những tên gọi Hán - Việt và mỗi một tên gọi ấy thường chỉ gắn với một khúc đoạn sông cụ thể.</p><p></p><p></p><p> 2.3. Nhóm tên gọi thứ ba là sông <em>Phú Lương</em> và sông <em>Lô</em>/<em>Lô Giang</em>. Đây tuy cũng là những tên gọi Hán và Hán - Việt nhưng tính chất không phải như nhóm thứ hai “là để chỉ địa danh lãnh thổ nơi con sông chảy qua” hay như nhóm thứ nhất “là cách gọi tên thể hiện đặc điểm của con sông”. Mặt khác, những tài liệu lịch sử ghi chép về tên gọi sông Hồng đều cho thấy đây là hai tên gọi <em>cổ xưa nhất</em>, khá chính thống và cũng được nhắc đến nhiều trong lịch sử. Việc không thuộc một trong hai phương thức gọi tên sông đã nói ở trên và tính chất cổ xưa của nó, ở phương diện ngôn ngữ học lịch sử, ẩn chứa nhiều điều thú vị.</p><p></p><p></p><p> Theo một vài kết quả nghiên cứu về nguồn gốc địa danh nói chung và tên sông nói riêng đã được nhiều tác giả cũng như chúng tôi công bố [TTD (2001), (2005)], có cơ sở để nhận thấy rằng <em>Phú Lương</em> và <em>Lô Giang</em> là cách Hán hoá rồi Hán - Việt hoá những tên gọi thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á. Nói một cách khác, hai tên gọi sông Hồng này mặc dù hình thức ngôn ngữ thể hiện là tiếng Hán hay Hán - Việt nhưng “ý nghĩa” ban đầu của chúng lại thuần tuý mang nghĩa thuần Việt.</p><p></p><p></p><p> 3. Để nhận thấy hai tên gọi bằng tiếng Hán và Hán - Việt này là căn cứ vào tên gọi thuần Việt rồi ghi chép lại, chúng ta sẽ lần lượt quan sát những vấn đề sau đây.</p><p></p><p></p><p> 3.1. Khi so sánh những địa danh Hán và Hán - Việt có liên quan với một địa danh thuần Việt chúng ta dễ dàng nhận thấy địa danh Hán và Hán - Việt thường có hai âm tiết, còn địa danh thuần Việt (cũng thường gọi là địa danh <em>Nôm</em>) sẽ chỉ có một âm tiết [TTD (2005)]. Trong hai âm tiết của địa danh Hán và Hán - Việt, thường thường một âm tiết có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với ngữ âm của âm tiết địa danh thuần Việt. Đồng thời đôi khi giữa chúng cũng có liên hệ về mặt ý nghĩa. Chính mối liên hệ ngữ âm lịch sử giữa hai dạng thức tên gọi này là lý do để chúng ta nhận biết tên gọi Hán hay Hán - Việt dẫn xuất từ tên gọi thuần Việt. Chúng ta có thể nêu lên một loạt tương ứng như thế đối với tên làng, tên sông ở Việt Nam để làm ví dụ:</p><p></p><p></p><p> Thuần Việt Hán Việt</p><p> sông <em>Rum</em> <em>Lam</em> Giang</p><p> làng <em>Mọc</em> Nhân <em>Mục</em> </p><p> làng <em>Chèm/Trèm</em> Từ <em>Liêm</em></p><p> làng <em>Chấp </em>Cá <em>Lập</em></p><p> làng <em>Trầu</em> Phù <em>Lưu</em> v.v</p><p></p><p></p><p> Rõ ràng, người ta có thể chứng minh được giữa các âm tiết thuần Việt <em>Rum, Mọc, Chèm/Trèm, Chấp</em> và <em>Trầu</em> nói trên có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với <em>Lam, Mục, Liêm (Từ Liêm), Lập (Cá Lập)</em> và <em>Lưu (Phù Lưu)</em> dựa vào ngữ âm lịch sử tiếng Việt [NTC (1989), (1995)]. Với lôgíc như vậy, chúng ta có thể thấy rằng trong hai địa danh Hán và Hán - Việt gọi sông Hồng là <em>Phú Lương</em> và <em>Lô Giang </em>mỗi một địa danh sẽ có một âm tiết có thể dẫn xuất từ một tên gọi thuần Việt xưa.</p><p></p><p></p><p> 3.2. Trong hai địa danh Hán và Hán - Việt là <em>Phú Lương</em> và <em>Lô Giang</em>, chúng ta có cơ sở để nhận ra âm tiết <em>Lương</em> và âm tiết <em>Lô</em> là âm tiết có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với dạng thức tên gọi thuần Việt.</p><p></p><p></p><p> 3.2.1.Đối với địa danh Lô Giang, rõ ràng Giang là một yếu tố Hán với nghĩa là “sông”. Vì thế, Lô Giang có nghĩa là “sông <em>Lô</em>” và nhờ đó chúng ta biết rằng ở địa danh gọi sông Hồng là <em>Lô Giang</em>, âm tiết <em>Lô</em> là âm tiết có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với một tên gọi thuần Việt. Nói cách khác, <em>Lô</em> Hán hay Hán - Việt này có lẽ dẫn xuất từ một tên gọi thuần Việt xưa dùng để chỉ sông.</p><p></p><p></p><p> Trong địa danh thuần Việt, dạng ngữ âm <em>lô</em> dùng làm địa danh sông không phải là đơn nhất. Chúng ta có sông Lô là nhánh sông nhập vào sông Thao ở Việt Trì để thành dòng chính sông Hồng. Cùng với dạng ngữ âm <em>lô</em> là biến thể ngữ âm <em>la</em> nên ta có sông <em>La</em> ở Hà Tĩnh và một vài nơi khác. Dạng ngữ âm gọi tên sông là <em>lô</em>, theo chúng tôi, còn có biến thể ngữ âm khác là <em>rào. </em>Trong địa danh tiếng Việt, chúng ta gặp không ít dạng ngữ âm <em>rào</em> có nghĩa là sông: <em>rào</em> <em>Quán</em> ở Quảng Trị, <em>rào Nậy</em> (sông Gianh) ở Quảng Bình, <em>cửa rào</em> (cửa sông Nậm Nơn hợp thành với sông Cả) ở Nghệ An v.v.</p><p></p><p></p><p> Nhờ ngữ âm lịch sử tiếng Việt, chúng ta nhận biết <em>lô ~ la ~ rào</em> thực ra có thể là những biến thể ngữ âm của một dạng duy nhất trong lịch sử. Trường hợp biến thể <em>lô ~ la</em> là khá đơn giản. Cả hai âm tiết đều có âm đầu [l], còn nguyên âm là [o] và [a] đều cùng là nguyên âm dòng trước và chỉ khác nhau về độ mở hẹp và rộng. Vì thế chúng ta có thể coi hai biến thể ngữ âm nói trên là thông thường. Và như vậy cũng có nghĩa chúng được dẫn xuất từ một dạng thức cổ xưa hơn.</p><p></p><p></p><p> Riêng biến thể <em>lô/la</em> với <em>rào</em>, tình hình có phức tạp hơn nhưng không phải là không tìm được mối liên hệ ngữ âm lịch sử giữa chúng. Đối với âm đầu của âm tiết, sự tương ứng [l] ~ [r] cũng rất thông thường (tiếng Việt: <em>lim ~ rim, lâm ~ râm, lầm ~ rầm, long ~ rồng, lè ~ rè </em>v.v.). Còn ở trường hợp vần của âm tiết thì tương ứng giữa một vần đơn [o/a] (chỉ có một nguyên âm) với một vần phức [aw] (gồm một nguyên âm và âm cuối bán nguyên âm) cũng không phải là hiếm. Những cặp tương ứng <em>tru, trù, gú, gi, chí, mi</em> v.v ở phương ngữ Bắc Trung Bộ với phương ngữ Bắc Bộ <em>trâu, trầu, gấu, giây, chấy, mày</em> v.v. của tiếng Việt cũng chính là sự tương ứng giữa một vần đơn (chỉ có một nguyên âm) với một vần phức (gồm một nguyên âm và âm cuối bán nguyên âm) giốngnhư ở trường hợp <em>lô/la ~ rào</em>.</p><p></p><p></p><p> Rõ ràng, nhờ mối liên hệ ngữ âm lịch sử và ngữ nghĩa của chúng, chúng ta có cơ sở để nghĩ rằng <em>lô/la/rào</em> là những biến thể ngữ âm của một âm tiết xưa có thể tái lập ở dạng [*lo], với nghĩa là “sông” mà hiện nay nó chỉ thấy lưu lại ở tên riêng như sông <em>Lô</em>, sông <em>La</em>, <em>Lô</em> Giang hay tồn tại ở thành tố chỉ tên chung như <em>rào</em> Quán, <em>rào</em> Nậy, <em>rào</em> Con (ở Hà Tĩnh) v.v. Dựa vào tính chất phương ngữ Việt và phạm vi địa lý sử dụng của các họ ngôn ngữ ở địa bàn Đông Nam Á, dạng thức ngữ âm xưa [*lo] chỉ có thể là dạng thức thuần Việt cổ xưa gốc Nam Á (Austroasiatic).</p><p></p><p></p><p> 3.2.2. Trường hợp địa danh Hán hay Hán - Việt <em>Phú Lương</em> có sự khác biệt với <em>Lô Giang</em>. Ở đây, âm tiết thứ hai <em>lương</em> là âm tiết cho thấy có một mối liên hệ ngữ âm lịch sử với tên gọi sông thuần Việt cổ xưa cũng gốc Nam Á là [*klɔŋ/krɔŋ]. Tên gọi cổ xưa này cũng có hai biến thể ngữ âm và hai biến thể sử dụng giống như <em>lô</em> và <em>rào</em>.</p><p></p><p></p><p> Trong tiếng Việt, không chỉ riêng sông Hồng trong tên gọi mang yếu tố <em>lương. </em>Chúng ta có sông <em>Hiền Lương</em>/<em>Minh Lương </em>(sông Bến Hải), khe<em> Lương</em> (ở Vĩnh Linh) tỉnh Quảng Trị, sông <em>Lương</em> (sông Chu) tỉnh Thanh Hoá, sông <em>Phú Lương</em> ở Thái Nguyên v.v. Việc dạng ngữ âm <em>lương </em>trở thành tên riêng của nhiều con sông, vì thế, không phải là ngẫu nhiên. Nó rất có thể chính là dạng ngữ âm có những biến thể khác hoặc là Hán - Việt <em>long </em>trong sông <em>Hoàng Long</em> ở Ninh Bình và <em>công</em> trong sông <em>Công</em> ở Thái Nguyên, hoặc là <em>rông</em> của sông <em>Đắc Rông</em> (ở Quảng Trị) hay <em>rằng</em> trong tên sông <em>Đà Rằng</em> ở Phú Yên.</p><p></p><p></p><p> Chúng ta biết, âm thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á [*klɔŋ/krɔŋ] đã biến đổi có quy luật trong tiếng Việt thành hai biến thể. Biến thể thứ nhất *klɔŋ/krɔŋ > <em>sông</em> hiện nay [HTC (1964] và nó trở thành yếu tố tên chung trong phức thể địa danh kiểu <em>sông</em> Hoàng Long, <em>sông</em> Phú Lương, <em>sông </em>Lam Giang v.v. Trường hợp này, hình như, nó cũng giống dạng ngữ âm thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á [*lo] biến đổi thành <em>rào</em> trong <em>rào</em> Nậy, <em>rào</em> Thanh (một tên gọi khác của sông Bến Hải), <em>rào</em> Con đã được chúng tôi giải thích sơ bộ ở trên. Ở đây, sự biến đổi ngữ âm có quy luật để *klɔŋ/krɔŋ > <em>sông</em> có thể tìm thấy trong những công trình nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt đã dược công bố [NTC (1995)].</p><p></p><p></p><p> Biến thể thứ hai của âm thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á [*klɔŋ/krɔŋ] chính là những dạng thức ngữ âm như <em>lương, long, công</em>, <em>rông </em>và<em> rằng</em>. Đối với những biến thể khác nhau này, người ta vẫn có thể nhận thấy mối liên hệ ngữ âm lịch sử giữa chúng. Trước hết, trong các âm tiết nói trên, tương ứng âm đầu [l] ~ [r], như đã chứng minh, là tương ứng thường xuyên; còn tương ứng âm đầu [l], [r] ~ [k] là do cách xử lý tổ hợp phụ âm đầu nghiêng về nhấn mạnh yếu tố <em>k</em> hay yếu tố <em>l/r </em>trong tổ hợp <em>*kl/kr</em> mà thôi. Như vậy, có thể nói sự tương ứng các âm đầu [l] ~ [r] ~ [k] là tương ứng thoả mãn tính quy luật của sự biến đổi ngữ âm lịch sử. Ở phần vần, nếu như các tương ứng [oŋ] (ông) ~ [ɔŋ] (ong) ~ [ăŋ] (ăng) là bình thường đối với biến đổi ngữ âm lịch sử tiếng Việt thì tương ứng giữa chúng với [ɨəŋ] (ương) tuy có khác biệt về nguyên âm là đơn [o, ɔ, ă]/đôi [ɨə] nhưng vẫn có thể giải thích được lý do.</p><p></p><p></p><p> Chẳng hạn, trong tiếng Việt chúng ta gặp không ít những cách nói nước đôi do sự khác nhau giữa nguyên âm đơn/đôi như <em>giong </em>buồm/<em>giương </em>buồm, <em>đàng/đường</em>, màu <em>hồng/ </em>màu <em>hường</em>, <em>náng</em> thịt/<em>nướng</em> thịt, nói <em>ngọng</em>/nói <em>ngượng, trọng </em>nghĩa/<em>trượng </em>nghĩa v.v. Chính sự hiện diện ở phần vần của âm tiết là nguyên âm đơn với ba nguyên âm có độ mở khác nhau là [o, ɔ, ă] đã minh chứng khả năng đôi hoá nguyên âm của những vần nói trên. Vì thế khi nói rằng âm tiết thuần Việt xưa [*klɔŋ/krɔŋ] có các biến thể ngữ âm hiện nay là như <em>lương, long, công</em>, <em>rông </em>và<em> rằng</em> là có thể chấp nhận được về mặt ngữ âm lịch sử tiếng Việt.</p><p></p><p></p><p> Từ những gì đã được minh chứng, chúng ta có cơ sở để có thể nói rằng yếu tố <em>lương </em>trong địa danh <em>Phú Lương</em> để gọi tên sông Hồng là cách Hán hoá hay Hán - Việt hoá một tên gọi thuần Việt từ thời tối cổ. Dạng thức thuần Việt tối cổ ấy có thể phục nguyên là [*klɔŋ/krɔŋ] và nghĩa của nó là để chỉ “sông” hay “con sông”. Cách thức người Hán dùng chữ Hán ghi lại âm thuần Việt tối cổ rồi sau đó người Việt căn cứ vào chữ Hán của người Hán mà Hán - Việt hoá địa danh xưa trong ghi chép của mình là cách làm thông thường. Do dó, tên sông Hồng được ghi là <em>Phú Lương</em> cũng không phải đơn nhất và không phải là không thể nhận thấy “nghĩa ban đầu” hay “nghĩa khởi thuỷ” của nó. Nói một cách khác, <em>Phú Lương</em> là cách Hán hoá hay Hán - Việt hoá địa danh <em>sông</em> < [*klɔŋ/krɔŋ] mà có.</p><p></p><p></p><p> 4.Như vậy là, qua mười tên gọi khác nhau của sông Hồng và một số biến thể của chúng, có thể nhận thấy những tên gọi ban đầu dường như là những tên gọi có gốc gác Nam Á và Thái - Kađai. Về sau, trừ trường hợp tên gọi “sông Cái”, những tên gọi Nam Á và Thái - Kađai ấy đều bị “Hán hoá” hay “Hán - Việt” để có dạng thức như ngày nay.</p><p></p><p></p><p> 4.1. Trước hết, chúng ta nói về tình trạng tên gọi xét theo nguồn gốc ngôn ngữ.</p><p></p><p></p><p> Tên sông <em>Thao </em>< [<em>*taw</em>] là tên gọi gốc Thái - Kađai. Về mặt ngôn ngữ, đây là tên gọi thuộc về một ngữ hệ được coi là có mặt từ thời cổ xưa ở Đông Nam Á nói chung và ở bắc Việt Nam nói riêng. Cư dân chủ thể của họ ngôn ngữ này cho đến hiện nay vẫn sở hữu một nền văn hoá đa dạng, phong phú và đặc sắc. Tên gọi <em>sông Thao</em>, rõ ràng, là tên gọi thể hiện đặc điểm của con sông. Đặc điểm mà người ta sử dụng để đặt tên cho sông Hồng là “to, chính, quan trọng” nhất ở vùng lãnh thổ.</p><p></p><p></p><p> Còn về những tên gọi có nguồn gốc ngôn ngữ Nam Á thì tình hình đa dạng hơn nhiều. Đầu tiên là tên gọi sông<em> Cái</em>. Đây cũng là một kiểu tên gọi thể hiện đặc điểm của con sông. Những người dân thuộc họ Nam Á rõ ràng cũng nhấn mạnh vị trí “to, chính, quan trọng” mà con sông này đảm nhận. Ở đây rõ ràng một bộ phận cư dân nói ngôn ngữ Nam Á đã tri nhận vai trò của con sông tương tự như cách gọi tên của cư dân nguồn gốc Thái - Kađai. Do hai tên gọi “sông Thao” và “sông Cái” đều là loại tên gọi căn cứ vào đặc điểm hay tính chất/vai trò của con sông mà có nên chúng ta có lý do để có thể nói rằng chúng “mới hơn” so với hai tên gọi có dạng Hán - Việt hiện nay là <em>lương</em> và <em>lô</em>.</p><p></p><p></p><p> Khác với tên gọi sông<em> Cái, </em>tên gọi <em>Phú Lương</em> dẫn xuất từ <em>lương</em> hoặc <em> long, công</em>, <em>rông, rằng</em> < [*klɔŋ/krɔŋ]. Tên gọi này, như vậy, bắt nguồn từ danh từ chung nghĩa ban đầu là “sông”. Về sau, nó trở thành yếu tố địa danh chỉ tên riêng trong một phức thể địa danh “sông <em>Sông</em>”. Và sau nữa, khi Hán hoá, yếu tố <em>Sông </em>trong phức thể địa danh “sông <em>Sông</em>” chuyển thành <em>Phú Lương</em> và ta có địa danh “sông <em>Phú Lương</em>” như ngày nay. Tương tự như vậy, tên gọi <em>Lô/Lô Giang</em> dẫn xuất từ <em>lô, la, rào</em> < [*lo], một danh từ chung với nghĩa ban đầu là “sông”. Trường hợp này, nó trở thành yếu tố địa danh chỉ tên riêng trong một phức thể địa danh “sông <em>Lô</em>”. Và khi Hán hoá, yếu tố <em>Lô </em>trong phức thể địa danh “sông <em>Lô</em>” hoặc chuyển thành song tiết <em>Lô Giang</em> hoặc vẫn đơn tiết là <em>Lô</em> như chúng ta có hiện nay.</p><p></p><p></p><p> 4.2. Nếu sự nhìn nhận nguồn gốc ngôn ngữ và cách thức đặt tên của địa danh sông Hồng như trên có thể chấp nhận được, rõ ràng chúng ta có chứng cớ để suy luận về một hiện tượng văn hoá. Nói khác đi, người ta có cơ sở để nêu ra một vài nhận xét thú vị sau đây.</p><p></p><p></p><p> Hình như, trong mười tên gọi sông Hồng hiện đang dùng hay được ghi lại trong sử sách, hai địa danh Hán - Việt <em>Phú Lương </em>và <em>Lô/Lô Giang</em> là dẫn xuất từ dạng thức địa danh có nguồn gốc Nam Á <em>cổ xưa nhất. </em>Thứ đến là địa danh <em>Thao</em> gốc Thái - Kađai và <em>Cái </em>cũng là gốc Nam Á. Những địa danh Hán - Việt còn lại lần lượt xuất hiện về sau và có lẽ <em>Hồng</em>/<em>Hồng Hà</em> là địa danh xuất hiện muộn nhất, gần thời đại chúng ta nhất. Đối với các địa danh sông Phú Lương, sông Lô/Lô Giang, sông Thao và sông Cái việc định vị thời gian như vậy còn được sự ủng hộ của <em>phương thức cấu tạo địa danh</em> và <em>ý nghĩa của chúng</em>. Ở hai địa danh dầu, phương thức cấu tạo của chúng là “chuyển danh từ chung thành tên riêng” nên tính chất của chúng cổ xưa hơn; còn ở hai địa danh sau, việc đặt tên địa danh là dựa trên “đăc điểm hay tính chất” của nó tự nó cho thấy giá trị thời gian muộn hơn.</p><p></p><p></p><p> Từ góc nhìn văn hoá, người ta thấy rằng tên gọi sông Hồng là một sự hội tụ hay hoà hợp của hai cộng đồng cư dân sử dụng hai hệ ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic) và Thái - Kađai (Tai - Kadai). Trong đó, họ ngôn ngữ Nam Á là họ ngôn ngữ của cư dân bản địa ở vùng Đông Nam Á hiện nay và thuộc vào nhiều nhánh khác nhau; còn đối cư dân họ Thái - Kađai, dường như vào thời cổ xưa, sông Hồng là ranh giới Tây Nam của cộng đồng cư dân này. Về sau, các địa danh của cư dân hai họ ngôn ngữ ban đầu ấy đều bị cư dân Hán hoá rồi bị Hán - Việt hoá. Rõ ràng, tên gọi sông Hồng là một sự hội nhập, đan xen văn hoá của những lớp cư dân có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau trong lịch sử.</p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p> TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH</p><p> .</p><p></p><p></p><p> 1. Đào Duy Anh (1997), <em>Đất nước Việt Nam qua các đời</em>, Nxb Thuận Hoá, Huế 1997, 263 tr.</p><p> 2. Nguyễn Tài Cẩn (1989), <em>Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt,</em> Nxb ĐH&THCN, Hà Nội ; Tái bản Nxb ĐHQGHN (2000), Hà Nội, 354tr.</p><p> - (1995), <em>Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo),</em> Nxb Giáo dục, Hà Nội, 348tr.</p><p> - (2001), <em>Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, Nxb ĐHQG Hà Nội, 439 tr.</em></p><p> 3. Hoàng Thi Châu (1964), <em>Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông,</em> Thông báo khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập 3, tr 94-106. </p><p> 4. Phan Huy Chú (1960), <em>Lịch triều hiến chương loại chí</em>, tập 1, Nxb Sử học, Hà Nội, 352 tr.</p><p> - (1997), <em>Hoàng Việt địa dư chí, </em>Nxb Thuận Hoá, Huế.</p><p> 5. Trần Trí Dõi (1999), <em>Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, </em>NXb ĐHQG Hà Nội, 301 tr.( tái bản 2000)</p><p> - (2001), <em>Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội</em>, Nxb Văn hoá Thông tin, 266 tr</p><p> - (2005), <em>Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo)</em>, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2005, 268 tr.</p><p> - (2005),<em>Tiếp tục tìm hiểu về xuất xứ và ý nghĩa địa danh Cổ Loa (…), </em>Ngôn ngữ 11(198)/11-2005, tr 21-27. </p><p> 6. Ngô Sỹ Liên (1998), <em>Đại Việt sử ký toàn thư</em>, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, </p><p> 7. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), <em>Đại Nam nhất thống chí</em>, Nxb Thuận Hoá, Huế 1997, Tập 3, Tập 4. </p><p> 8.Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), <em>Đồng Khánh dư địa chí,</em> Nxb Thế giới, Hà Nội 2003.</p><p> 9. Nguyễn Văn Siêu (1997), <em>Đại Việt địa dư toàn biên</em>, Nxb Văn hoá, Hà Nội.</p><p> - (2003), <em>Phương Đình dư địa chí</em>, Nxb Thế giới, Hà Nội 2003.</p><p> 10. Ngô Thì Sỹ (1997), <em>Đại Việt sử ký tiền biên</em>, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998.</p><p></p><p></p><p><em>Nguồn : Ngonnguhoc.org</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 12944, member: 6"] [B]HỘI THẢO QUỐC TẾ VIỆT NAM HỌC LẦN THỨ BA[/B] [B]Hà Nội, 4-7 tháng 12 năm 2008[/B] [B]------------------------------------- [/B] [CENTER] [SIZE=4][B]TÊN GỌI CỦA SÔNG HỒNG: DẤU TÍCH BIỂU HIỆN NÉT ĐA DẠNG VĂN HOÁ TRONG LỊCH SỬ NGƯỜI VIỆT.[/B] [/SIZE][/CENTER] [RIGHT][B] Trần Trí Dõi[/B] [B] [I]Khoa Ngôn ngữ học[/I][/B] [B] Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn [/B] [B] ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI. [/B][/RIGHT] [B]1.Sông Hồng và những tên gọi có trong lịch sử. [/B] 1.1. Sông Hồng là con sông giữ vị trí văn hoá vô cùng quan trọng không chỉ của riêng thủ dô Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn hiến mà còn của cả vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Ngoài dòng chảy chính đi qua Hà Nội, sông Hồng còn có nhiều chi lưu làm nên một châu thổ trù phú: đồng bằng châu thổ sông Hồng. Cho đến hiện nay, cả trong ghi chép của lịch sử và cả trong sử dụng của dân gian người ta đã nói đến những [I]tên gọi[/I] khác nhau của con sông này. Do tính chất quan trọng của con sông trong đời sống cộng đồng dân cư trong vùng, mỗi một tên gọi của nó đều ít nhiều phản ánh dấu vết văn hoá của những chủ nhân đã từng sử dụng những tên gọi đó. Phân tích sự khác nhau của các tên gọi sông Hồng theo nguồn gốc ngôn ngữ và cách cấu tạo, trong một chừng mực nhất định, sẽ giúp chúng ta phần nào làm rõ tính đa dạng văn hoá trong tiến trình phát triển lịch sử của người Việt ở cái nôi hình thành nền văn hoá của dân tộc. [CENTER][IMG]https://www.ngonnguhoc.org/images/stories/2009/nghiencuu/bainghienncuu/050309.jpg[/IMG] [I] Bản đồ “các tiểu lưu vực của sông Hồng trên lãnh thổ Việt Nam”[/I] [/CENTER] 1.2. Theo bức tranh phân loại ngôn ngữ ở khu vực hiện được nhiều người đồng tình và sử dụng, Đông Nam Á có năm họ ngôn ngữ là Hán Tạng (Sino - Tibetan), Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesian), Thái - Kađai (Tai - Kadai) và Mông - Dao (Miêu - Yao) [TTD, (1999)]. Về ngôn ngữ, địa bàn Việt Nam được coi là “bức tranh thu nhỏ của khu vực Đông Nam Á” nên ở đây cũng là vùng lãnh thổ hiện diện năm họ ngôn ngữ này. Khi xem xét các tên gọi khác nhau của sông Hồng, chúng tôi sẽ xuất phát từ sự phân loại ngôn ngữ nói trên để nhìn nhận tính đa dạng về nguồn gốc ngôn ngữ, qua đó nhận diện tính đa dạng về văn hoá của chúng. Khi mà những cư dân cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (và cụ thể hơn là vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam) sử dụng tên gọi sông Hồng theo cách của “ngôn ngữ mình”, họ sẽ lưu những tên gọi đó lại trong lịch sử. Nhờ đó chúng ta nhận biết sự hội tụ nét đa dạng văn hoá của một vùng lãnh thổ cụ thể: vùng đồng bằng Bắc Bộ và một nền văn minh cụ thể: nền văn minh sông Hồng, một trong những cội nguồn chính làm nên tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam hiện nay. 1.3. Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Ai Lao ([I]Ai Lão sơn[/I]) thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Khi chảy vào lãnh thổ Việt Nam nó đi qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình rồi đỏ ra biển. Trên dòng chảy chính ấy, mỗi một khúc đoạn, nó lại có những tên gọi khác nhau. Ngoài ra, ngay cùng một khúc đoạn trong mỗi một thời gian lịch sử cụ thể nó lại có những tên gọi riêng do cư dân hay điều kiện văn hoá quy định. Và đây chính là nguyên do và cũng là cơ sở để chúng ta, trên cơ sở nhận diện nguồn gốc ngôn ngữ và cách cấu tạo những tên khác nhau của dòng sông chính ấy để qua đó nhận biết sự đa dạng văn hoá theo tên gọi của nó. 1.3.1. Sử sách của nước ta [QSQTN, t4 (1997), 254] , [NVS,(2003) 349] ghi chép trên phần trên lãnh thổ Trung Quốc sông Hồng có tên gọi từ xưa là [I]Lan Thương, Nguyên Giang, Ma Hà[/I] (hay [I]Lễ Xá[/I])[I], Lê Hoa[/I] và sông[I] Âu[/I]; khi chảy vào nước ta người ta gọi nó là sông[I] Thao.[/I] Ngày nay, những nghiên cứu về địa lý cho thấy [I]Lan Thương [/I]là tên gọi thượng nguồn của dòng Mê Công chảy trên đất Trung Quốc chứ không phải là thượng nguồn sông Hồng như các tài liệu lịch sử cũ đã ghi lại. 1.3.2. Khi chảy vào Việt Nam sách sử xưa cho biết sông Hồng có các tên là sông [I]Thao[/I], sông [I]Nhị/Nhĩ Hà[/I], sông [I]Phú Lương[/I], sông [I]Bạch Hạc, [/I]sông [I]Tam Đới, [/I]sông[I] Đại Hoàng,[/I] sông [I]Xích Đằng, [/I]sông [I]Hoàng Giang [/I]và sông [I]Lô [/I]hay [I]Lô Giang.[/I] Những tên gọi này được sách sử ghi chép lại cụ thể như sau: - Sông [I]Thao [/I][NVS, (2003) 349; QSQTN, t4 (1997), 253]. - Sông [I]Nhị Hà/Nhĩ Hà[/I] [QSQTN, t4 (1997), 256] - Sông [I]Phú Lương [/I] [QSQTN, t3 (1997), 186]. Thực ra tên gọi Phú Lương này là dẫn theo [I]An Nam chí lược [/I]của Cao Hùng Trưng. - Sông [I]Bạch Hạc[/I] [QSQTN, t3 (1997), 186; t4 (1997), 253]. - Sông [I]Tam Đới[/I] [QSQTN, t3 (1997), 186; t4 (1997), 253]. - Sông [I]Đại Hoàng[/I] [QSQTN, t3 (1997), 186; t4 (1997), 253]. - Sông [I]Xích Đằng[/I] hay sông [I]Đằng[/I] [QSQTN, t3 (1997), 297]. - Sông [I]Lô[/I] hay [I]Lô Giang [/I][QSQTN, t4 (1997), 253]. Theo giải thích của những sách sử nói trên, hai tên gọi Phú Lương và Lô hay Lô Giang xuất hiện sớm hơn cả. Tên [I]Phú Lương[/I] có từ thời Cao Hùng Trưng và vào thời Lý nó vẫn và đã được sử dụng. Còn tên gọi [I]Lô[/I] hay [I]Lô Giang[/I] có từ thời nhà Trần và đã được chép lại trong [I]Đại Việt sử ký toàn thư[/I]. Những tài liệu lịch sử cũng cho thấy hai tên gọi nói trên có tính kế thừa nhau nhưng không loại trừ nhau trong lịch sử. Ngoài những tên gọi được ghi chép đó ra, sông Hồng còn có một tên gọi dân gian là sông [I]Cái.[/I] Khi thực dân pháp xâm lược nước ta, con sông [I]Cái[/I] này luôn “đỏ nặng phù sa” nên được người Pháp gọi là “rivière rouge” (sông có màu nước đỏ/hồng) và tên gọi sông [I]Hồng[/I] hay [I]Hồng Hà[/I] bắt đầu được sử dụng. Có thể nói, tên gọi sồng [I]Hồng[/I] hay [I]Hồng Hà[/I] được dùng phổ biến hiện nay chính thức xuất hiện vào thế kỷ XIX. 2. Như vây, cả trong sử sách và tên gọi dân gian, sông Hồng có khoảng mười tên gọi khác nhau và một số biến thể của mười tên gọi ấy. Dựa vào cách giải thích “nghĩa” (đúng hơn là lý do hay cách thức) gọi tên, người ta có thể chia chúng làm ba kiểu khác nhau. Mỗi một kiểu tên gọi trong số đó sẽ phản ánh “cách thức đặt tên” hay lý do gọi tên thể hiện nguồn gốc ngôn ngữ của những tên gọi ấy. 2.1. Nhóm thứ nhất là tên gọi sông [I]Cái, [/I]sông [I]Thao, [/I]sông [I]Nhĩ Hà/Nhị Hà[/I] và sông [I]Hồng/ Hồng Hà[/I]. Đây là cách gọi tên thể hiện “tính chất, đặc điểm” của con sông do chủ thể nhận diện sử dụng ngôn ngữ của mình để gọi tên sông. - Sông [I]Cái[/I], có nghĩa là sông[I] chính[/I]. Những cư dân Việt nói tiếng Việt có nguồn gốc Nam Á (Austroasiatic) là chủ thể của cách gọi tên này. Bởi vì trong tiếng Việt, chúng ta có không ít những từ hay ngữ như “ngón tay [I]cái[/I]”, “đường [I]cái”, [/I]“sông [I]cái”[/I], “cầm [I]cái”[/I]v.v có nét nghĩa như thế. Có thể thấy, việc nhận diện sông để đặt tên cho nó là căn cứ vào “tính chất” của sông: con sông giữ vai trò chính ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. - Sông [I]Thao[/I], cũng có nghĩa là sông [I]chính[/I]. Tên gọi [I]Thao[/I] là tên gọi theo cách của người Việt hoặc người Hán bắt nguồn từ tên gọi có nguồn gốc Thái - Kađai là [I]tao[/I] (trong “nặm [I]tao[/I]”, nghĩa là “sông lớn, sông chính”). Ở Việt Nam, người ta cũng còn gặp một tên gọi kiểu như thế ở vùng Thái Nghệ An: người Thái ở miền đất này gọi con “sông [I]Cả[/I]” hay “sông [I]Lam[/I]” của người Việt là “nặm [I]Pao[/I]” với nghĩa là “sông [I]lớn, chính[/I]”. (Năm 2000, trong dịp tham dự hội nghị về ngôn ngữ và văn hoá Thái Áo Hoa do Viện Khoa học Xã hội Vân Nam tổ chức ở huyện tự trị Tân Bình thuộc Ngọc Khê tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chúng tôi cũng thấy người Thái ở Tân Bình gọi đoạn thượng nguồn sông Hồng chảy qua đây trên lãnh thổ Trung Quốc là “nặm [I]tao[/I]” với nghĩa là “con sông chính” của vùng đất. - Sông [I]Nhị Hà[/I]/[I]Nhĩ Hà[/I] (tức là sông [I]Nhị[/I]/[I]Nhĩ[/I]) được giải thích là có từ thời nhà Minh chiếm đóng Đại Việt. Sách “Đại Nam nhất thống chí” dẫn lại “Đại Thanh nhất thống chí” ghi rằng “Lại xét về tên Nhị Hà thì Hoàng Phúc nước Minh đắp thành Đại La, thấy nước sông chảy vòng quanh như hình cái vành tai, bèn đặt tên này” [QSQTN, t4 (1997), 186]. Qua lời ghi chép ấy có thể thấy cách gọi [I]Nhị Hà[/I]/[I]Nhĩ Hà[/I] (sông [I]Nhị[/I]/[I]Nhĩ[/I]) là để giải thích đặc điểm “nước sông chảy vòng quanh như hình cái vành tai”. Đặc điểm của sông được thể hiện bằng tên gọi theo tiếng Hán và sau đó là tiếng Hán - Việt. - Sông [I]Hồng[/I]/[I]Hồng Hà[/I] có nghĩa là “sông có mầu nước đỏ”. Theo cách ghi của “Đại Nam nhất thống chí” thì đến giữa thế kỷ XIX, tên sông vẫn là [I]Nhị[/I] hay [I]Nhị Hà[/I]. Đến Việt Nam, với yêu cầu ghi tên sông vào văn bản, người Pháp đã lựa chọn đặc điểm “sông có mầu nước đỏ/hồng” và thể hiện bằng ngôn ngữ của mình với nghĩa như vậy. Người ta cũng có sở khi giải thích rằng cách nhận diện để gọi tên sông là [I]Hồng[/I]/[I]Hồng Hà[/I] cũng có thể là của người Hán hay người Việt. Nhưng trong sử sách của Việt Nam cho đến thời điểm giữa thế kỷ XIX, tên gọi này không thấy xuất hiện. Với lại, đối với người Việt nếu gọi sông Hồng bằng tên Hán - Việt thì đã có [I]Nhị Hà[/I], [I]Phú Lương[/I], [I]Lô Giang[/I], [I]Đại Hoàng[/I] v.v. Còn nếu gọi theo cách dân gian đã có tên gọi sông [I]Cái[/I] quen thuộc. Vì thế, chúng tôi nghiêng về chấp nhận cách giải thích cho rằng sông [I]Hồng[/I]/[I]Hồng Hà[/I] là cách nhận diện và thể hiện tên gọi của sông theo tiếng Pháp khi họ đến xâm lược Việt Nam. 2.2. Nhóm tên gọi thứ hai là [I]Bạch Hạc[/I], [I]Tam Đới[/I], [I]Xích Đằng[/I] và [I]Đại Hoàng[/I]. Những tên gọi theo tiếng Hán hay Hán - Việt này đều có một nét chung là để chỉ “địa danh lãnh thổ nơi con sông chảy qua”. Nói cách khác, những tên gọi sông Hồng này là căn cứ vào “địa điểm, lãnh thổ nơi con sông chảy qua”. - Sông [I]Bạch Hạc[/I], theo “Đại Nam nhất thống chí” dẫn lại [I]An nam chí lược[/I] của Cao Hùng Trưng, là tên gọi khi con sông hợp lưu với sông Đà ở ngã ba Bạch Hạc. Sách này chép “Sông [I]Phú Lương[/I], ở địa phận huyện Đông Quan, phủ Giao Châu, có một tên nữa là sông [I]Lô[/I], thượng lưu giáp sông [I]Bạch Hạc[/I] châu Tam Đái, chảy qua phía đông phủ thành, thông đến sông [I]Đại Hoàng[/I] thuộc huyện Lý Nhân rồi đổ ra biển” [QSQTN, t4 (1997), 186]. - Sông [I]Tam Đới, [/I]cũng theo “Đại Nam nhất thống chí”, là tên gọi con sông khi nó chảy qua châu Tam Đái/Đới. Sách này giải thích “Người ta vẫn theo lệ cũ mà gọi tên sông theo từng khúc một - ví dụ …khúc ở khoảng Bạch Hạc gọi là sông [I]Tam Đới, [/I]…” [QSQTN, t4 (1997), 253]. - Sông [I]Xích Đằng[/I] là tên gọi khi sông chảy qua Đằng Châu. Theo ghi chép của “Đồng Khánh địa dư chí” thì “Một dòng sông lớn, tên là sông Nhj Hà, cũng gọi là Xích Đằng (đoạn sông Nhị chảy qua Khoái Châu)” [QSQTN, (2003), 251]. Khoái Châu thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên ngày nay cũng là vùng đất cổ có những địa danh như đền [I]Đằng Châu[/I], bãi [I]Xích Đằng[/I] “là kho của các đời và là chỗ xung yếu then khoá” [PHC (1960), 80]. - Sông [I]Đại Hoàng[/I] là tên gọi sông Hồng từ Hưng Yên đến ngã ba Hoàng Giang hay ngã ba Vường (điểm giao nối sông Hồng và sông Luộc), qua huyện Lý Nhân chảy ra biển. Ở đoạn này, sông còn có một tên gọi khác nữa là [I]Hoàng Giang[/I]. Có lẽ vì là khúc sông chảy qua vùng đất Đại Hoàng nên người ta đã gọi sông Hồng nơi đây là Đại Hoàng hay Hoàng Giang [QSQTN, t3 (1997), 340]. Một điều cần chú ý là các tên gọi thuộc nhóm này thường chỉ thấy chỉ thấy dùng nhiều trong sách vở. Sự “đóng khung” về phạm vi sử dụng hình như phản ánh có lẽ đây là những tên gọi Hán - Việt và mỗi một tên gọi ấy thường chỉ gắn với một khúc đoạn sông cụ thể. 2.3. Nhóm tên gọi thứ ba là sông [I]Phú Lương[/I] và sông [I]Lô[/I]/[I]Lô Giang[/I]. Đây tuy cũng là những tên gọi Hán và Hán - Việt nhưng tính chất không phải như nhóm thứ hai “là để chỉ địa danh lãnh thổ nơi con sông chảy qua” hay như nhóm thứ nhất “là cách gọi tên thể hiện đặc điểm của con sông”. Mặt khác, những tài liệu lịch sử ghi chép về tên gọi sông Hồng đều cho thấy đây là hai tên gọi [I]cổ xưa nhất[/I], khá chính thống và cũng được nhắc đến nhiều trong lịch sử. Việc không thuộc một trong hai phương thức gọi tên sông đã nói ở trên và tính chất cổ xưa của nó, ở phương diện ngôn ngữ học lịch sử, ẩn chứa nhiều điều thú vị. Theo một vài kết quả nghiên cứu về nguồn gốc địa danh nói chung và tên sông nói riêng đã được nhiều tác giả cũng như chúng tôi công bố [TTD (2001), (2005)], có cơ sở để nhận thấy rằng [I]Phú Lương[/I] và [I]Lô Giang[/I] là cách Hán hoá rồi Hán - Việt hoá những tên gọi thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á. Nói một cách khác, hai tên gọi sông Hồng này mặc dù hình thức ngôn ngữ thể hiện là tiếng Hán hay Hán - Việt nhưng “ý nghĩa” ban đầu của chúng lại thuần tuý mang nghĩa thuần Việt. 3. Để nhận thấy hai tên gọi bằng tiếng Hán và Hán - Việt này là căn cứ vào tên gọi thuần Việt rồi ghi chép lại, chúng ta sẽ lần lượt quan sát những vấn đề sau đây. 3.1. Khi so sánh những địa danh Hán và Hán - Việt có liên quan với một địa danh thuần Việt chúng ta dễ dàng nhận thấy địa danh Hán và Hán - Việt thường có hai âm tiết, còn địa danh thuần Việt (cũng thường gọi là địa danh [I]Nôm[/I]) sẽ chỉ có một âm tiết [TTD (2005)]. Trong hai âm tiết của địa danh Hán và Hán - Việt, thường thường một âm tiết có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với ngữ âm của âm tiết địa danh thuần Việt. Đồng thời đôi khi giữa chúng cũng có liên hệ về mặt ý nghĩa. Chính mối liên hệ ngữ âm lịch sử giữa hai dạng thức tên gọi này là lý do để chúng ta nhận biết tên gọi Hán hay Hán - Việt dẫn xuất từ tên gọi thuần Việt. Chúng ta có thể nêu lên một loạt tương ứng như thế đối với tên làng, tên sông ở Việt Nam để làm ví dụ: Thuần Việt Hán Việt sông [I]Rum[/I] [I]Lam[/I] Giang làng [I]Mọc[/I] Nhân [I]Mục[/I] làng [I]Chèm/Trèm[/I] Từ [I]Liêm[/I] làng [I]Chấp [/I]Cá [I]Lập[/I] làng [I]Trầu[/I] Phù [I]Lưu[/I] v.v Rõ ràng, người ta có thể chứng minh được giữa các âm tiết thuần Việt [I]Rum, Mọc, Chèm/Trèm, Chấp[/I] và [I]Trầu[/I] nói trên có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với [I]Lam, Mục, Liêm (Từ Liêm), Lập (Cá Lập)[/I] và [I]Lưu (Phù Lưu)[/I] dựa vào ngữ âm lịch sử tiếng Việt [NTC (1989), (1995)]. Với lôgíc như vậy, chúng ta có thể thấy rằng trong hai địa danh Hán và Hán - Việt gọi sông Hồng là [I]Phú Lương[/I] và [I]Lô Giang [/I]mỗi một địa danh sẽ có một âm tiết có thể dẫn xuất từ một tên gọi thuần Việt xưa. 3.2. Trong hai địa danh Hán và Hán - Việt là [I]Phú Lương[/I] và [I]Lô Giang[/I], chúng ta có cơ sở để nhận ra âm tiết [I]Lương[/I] và âm tiết [I]Lô[/I] là âm tiết có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với dạng thức tên gọi thuần Việt. 3.2.1.Đối với địa danh Lô Giang, rõ ràng Giang là một yếu tố Hán với nghĩa là “sông”. Vì thế, Lô Giang có nghĩa là “sông [I]Lô[/I]” và nhờ đó chúng ta biết rằng ở địa danh gọi sông Hồng là [I]Lô Giang[/I], âm tiết [I]Lô[/I] là âm tiết có mối liên hệ ngữ âm lịch sử với một tên gọi thuần Việt. Nói cách khác, [I]Lô[/I] Hán hay Hán - Việt này có lẽ dẫn xuất từ một tên gọi thuần Việt xưa dùng để chỉ sông. Trong địa danh thuần Việt, dạng ngữ âm [I]lô[/I] dùng làm địa danh sông không phải là đơn nhất. Chúng ta có sông Lô là nhánh sông nhập vào sông Thao ở Việt Trì để thành dòng chính sông Hồng. Cùng với dạng ngữ âm [I]lô[/I] là biến thể ngữ âm [I]la[/I] nên ta có sông [I]La[/I] ở Hà Tĩnh và một vài nơi khác. Dạng ngữ âm gọi tên sông là [I]lô[/I], theo chúng tôi, còn có biến thể ngữ âm khác là [I]rào. [/I]Trong địa danh tiếng Việt, chúng ta gặp không ít dạng ngữ âm [I]rào[/I] có nghĩa là sông: [I]rào[/I] [I]Quán[/I] ở Quảng Trị, [I]rào Nậy[/I] (sông Gianh) ở Quảng Bình, [I]cửa rào[/I] (cửa sông Nậm Nơn hợp thành với sông Cả) ở Nghệ An v.v. Nhờ ngữ âm lịch sử tiếng Việt, chúng ta nhận biết [I]lô ~ la ~ rào[/I] thực ra có thể là những biến thể ngữ âm của một dạng duy nhất trong lịch sử. Trường hợp biến thể [I]lô ~ la[/I] là khá đơn giản. Cả hai âm tiết đều có âm đầu [l], còn nguyên âm là [o] và [a] đều cùng là nguyên âm dòng trước và chỉ khác nhau về độ mở hẹp và rộng. Vì thế chúng ta có thể coi hai biến thể ngữ âm nói trên là thông thường. Và như vậy cũng có nghĩa chúng được dẫn xuất từ một dạng thức cổ xưa hơn. Riêng biến thể [I]lô/la[/I] với [I]rào[/I], tình hình có phức tạp hơn nhưng không phải là không tìm được mối liên hệ ngữ âm lịch sử giữa chúng. Đối với âm đầu của âm tiết, sự tương ứng [l] ~ [r] cũng rất thông thường (tiếng Việt: [I]lim ~ rim, lâm ~ râm, lầm ~ rầm, long ~ rồng, lè ~ rè [/I]v.v.). Còn ở trường hợp vần của âm tiết thì tương ứng giữa một vần đơn [o/a] (chỉ có một nguyên âm) với một vần phức [aw] (gồm một nguyên âm và âm cuối bán nguyên âm) cũng không phải là hiếm. Những cặp tương ứng [I]tru, trù, gú, gi, chí, mi[/I] v.v ở phương ngữ Bắc Trung Bộ với phương ngữ Bắc Bộ [I]trâu, trầu, gấu, giây, chấy, mày[/I] v.v. của tiếng Việt cũng chính là sự tương ứng giữa một vần đơn (chỉ có một nguyên âm) với một vần phức (gồm một nguyên âm và âm cuối bán nguyên âm) giốngnhư ở trường hợp [I]lô/la ~ rào[/I]. Rõ ràng, nhờ mối liên hệ ngữ âm lịch sử và ngữ nghĩa của chúng, chúng ta có cơ sở để nghĩ rằng [I]lô/la/rào[/I] là những biến thể ngữ âm của một âm tiết xưa có thể tái lập ở dạng [*lo], với nghĩa là “sông” mà hiện nay nó chỉ thấy lưu lại ở tên riêng như sông [I]Lô[/I], sông [I]La[/I], [I]Lô[/I] Giang hay tồn tại ở thành tố chỉ tên chung như [I]rào[/I] Quán, [I]rào[/I] Nậy, [I]rào[/I] Con (ở Hà Tĩnh) v.v. Dựa vào tính chất phương ngữ Việt và phạm vi địa lý sử dụng của các họ ngôn ngữ ở địa bàn Đông Nam Á, dạng thức ngữ âm xưa [*lo] chỉ có thể là dạng thức thuần Việt cổ xưa gốc Nam Á (Austroasiatic). 3.2.2. Trường hợp địa danh Hán hay Hán - Việt [I]Phú Lương[/I] có sự khác biệt với [I]Lô Giang[/I]. Ở đây, âm tiết thứ hai [I]lương[/I] là âm tiết cho thấy có một mối liên hệ ngữ âm lịch sử với tên gọi sông thuần Việt cổ xưa cũng gốc Nam Á là [*klɔŋ/krɔŋ]. Tên gọi cổ xưa này cũng có hai biến thể ngữ âm và hai biến thể sử dụng giống như [I]lô[/I] và [I]rào[/I]. Trong tiếng Việt, không chỉ riêng sông Hồng trong tên gọi mang yếu tố [I]lương. [/I]Chúng ta có sông [I]Hiền Lương[/I]/[I]Minh Lương [/I](sông Bến Hải), khe[I] Lương[/I] (ở Vĩnh Linh) tỉnh Quảng Trị, sông [I]Lương[/I] (sông Chu) tỉnh Thanh Hoá, sông [I]Phú Lương[/I] ở Thái Nguyên v.v. Việc dạng ngữ âm [I]lương [/I]trở thành tên riêng của nhiều con sông, vì thế, không phải là ngẫu nhiên. Nó rất có thể chính là dạng ngữ âm có những biến thể khác hoặc là Hán - Việt [I]long [/I]trong sông [I]Hoàng Long[/I] ở Ninh Bình và [I]công[/I] trong sông [I]Công[/I] ở Thái Nguyên, hoặc là [I]rông[/I] của sông [I]Đắc Rông[/I] (ở Quảng Trị) hay [I]rằng[/I] trong tên sông [I]Đà Rằng[/I] ở Phú Yên. Chúng ta biết, âm thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á [*klɔŋ/krɔŋ] đã biến đổi có quy luật trong tiếng Việt thành hai biến thể. Biến thể thứ nhất *klɔŋ/krɔŋ > [I]sông[/I] hiện nay [HTC (1964] và nó trở thành yếu tố tên chung trong phức thể địa danh kiểu [I]sông[/I] Hoàng Long, [I]sông[/I] Phú Lương, [I]sông [/I]Lam Giang v.v. Trường hợp này, hình như, nó cũng giống dạng ngữ âm thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á [*lo] biến đổi thành [I]rào[/I] trong [I]rào[/I] Nậy, [I]rào[/I] Thanh (một tên gọi khác của sông Bến Hải), [I]rào[/I] Con đã được chúng tôi giải thích sơ bộ ở trên. Ở đây, sự biến đổi ngữ âm có quy luật để *klɔŋ/krɔŋ > [I]sông[/I] có thể tìm thấy trong những công trình nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt đã dược công bố [NTC (1995)]. Biến thể thứ hai của âm thuần Việt xưa có nguồn gốc Nam Á [*klɔŋ/krɔŋ] chính là những dạng thức ngữ âm như [I]lương, long, công[/I], [I]rông [/I]và[I] rằng[/I]. Đối với những biến thể khác nhau này, người ta vẫn có thể nhận thấy mối liên hệ ngữ âm lịch sử giữa chúng. Trước hết, trong các âm tiết nói trên, tương ứng âm đầu [l] ~ [r], như đã chứng minh, là tương ứng thường xuyên; còn tương ứng âm đầu [l], [r] ~ [k] là do cách xử lý tổ hợp phụ âm đầu nghiêng về nhấn mạnh yếu tố [I]k[/I] hay yếu tố [I]l/r [/I]trong tổ hợp [I]*kl/kr[/I] mà thôi. Như vậy, có thể nói sự tương ứng các âm đầu [l] ~ [r] ~ [k] là tương ứng thoả mãn tính quy luật của sự biến đổi ngữ âm lịch sử. Ở phần vần, nếu như các tương ứng [oŋ] (ông) ~ [ɔŋ] (ong) ~ [ăŋ] (ăng) là bình thường đối với biến đổi ngữ âm lịch sử tiếng Việt thì tương ứng giữa chúng với [ɨəŋ] (ương) tuy có khác biệt về nguyên âm là đơn [o, ɔ, ă]/đôi [ɨə] nhưng vẫn có thể giải thích được lý do. Chẳng hạn, trong tiếng Việt chúng ta gặp không ít những cách nói nước đôi do sự khác nhau giữa nguyên âm đơn/đôi như [I]giong [/I]buồm/[I]giương [/I]buồm, [I]đàng/đường[/I], màu [I]hồng/ [/I]màu [I]hường[/I], [I]náng[/I] thịt/[I]nướng[/I] thịt, nói [I]ngọng[/I]/nói [I]ngượng, trọng [/I]nghĩa/[I]trượng [/I]nghĩa v.v. Chính sự hiện diện ở phần vần của âm tiết là nguyên âm đơn với ba nguyên âm có độ mở khác nhau là [o, ɔ, ă] đã minh chứng khả năng đôi hoá nguyên âm của những vần nói trên. Vì thế khi nói rằng âm tiết thuần Việt xưa [*klɔŋ/krɔŋ] có các biến thể ngữ âm hiện nay là như [I]lương, long, công[/I], [I]rông [/I]và[I] rằng[/I] là có thể chấp nhận được về mặt ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Từ những gì đã được minh chứng, chúng ta có cơ sở để có thể nói rằng yếu tố [I]lương [/I]trong địa danh [I]Phú Lương[/I] để gọi tên sông Hồng là cách Hán hoá hay Hán - Việt hoá một tên gọi thuần Việt từ thời tối cổ. Dạng thức thuần Việt tối cổ ấy có thể phục nguyên là [*klɔŋ/krɔŋ] và nghĩa của nó là để chỉ “sông” hay “con sông”. Cách thức người Hán dùng chữ Hán ghi lại âm thuần Việt tối cổ rồi sau đó người Việt căn cứ vào chữ Hán của người Hán mà Hán - Việt hoá địa danh xưa trong ghi chép của mình là cách làm thông thường. Do dó, tên sông Hồng được ghi là [I]Phú Lương[/I] cũng không phải đơn nhất và không phải là không thể nhận thấy “nghĩa ban đầu” hay “nghĩa khởi thuỷ” của nó. Nói một cách khác, [I]Phú Lương[/I] là cách Hán hoá hay Hán - Việt hoá địa danh [I]sông[/I] < [*klɔŋ/krɔŋ] mà có. 4.Như vậy là, qua mười tên gọi khác nhau của sông Hồng và một số biến thể của chúng, có thể nhận thấy những tên gọi ban đầu dường như là những tên gọi có gốc gác Nam Á và Thái - Kađai. Về sau, trừ trường hợp tên gọi “sông Cái”, những tên gọi Nam Á và Thái - Kađai ấy đều bị “Hán hoá” hay “Hán - Việt” để có dạng thức như ngày nay. 4.1. Trước hết, chúng ta nói về tình trạng tên gọi xét theo nguồn gốc ngôn ngữ. Tên sông [I]Thao [/I]< [[I]*taw[/I]] là tên gọi gốc Thái - Kađai. Về mặt ngôn ngữ, đây là tên gọi thuộc về một ngữ hệ được coi là có mặt từ thời cổ xưa ở Đông Nam Á nói chung và ở bắc Việt Nam nói riêng. Cư dân chủ thể của họ ngôn ngữ này cho đến hiện nay vẫn sở hữu một nền văn hoá đa dạng, phong phú và đặc sắc. Tên gọi [I]sông Thao[/I], rõ ràng, là tên gọi thể hiện đặc điểm của con sông. Đặc điểm mà người ta sử dụng để đặt tên cho sông Hồng là “to, chính, quan trọng” nhất ở vùng lãnh thổ. Còn về những tên gọi có nguồn gốc ngôn ngữ Nam Á thì tình hình đa dạng hơn nhiều. Đầu tiên là tên gọi sông[I] Cái[/I]. Đây cũng là một kiểu tên gọi thể hiện đặc điểm của con sông. Những người dân thuộc họ Nam Á rõ ràng cũng nhấn mạnh vị trí “to, chính, quan trọng” mà con sông này đảm nhận. Ở đây rõ ràng một bộ phận cư dân nói ngôn ngữ Nam Á đã tri nhận vai trò của con sông tương tự như cách gọi tên của cư dân nguồn gốc Thái - Kađai. Do hai tên gọi “sông Thao” và “sông Cái” đều là loại tên gọi căn cứ vào đặc điểm hay tính chất/vai trò của con sông mà có nên chúng ta có lý do để có thể nói rằng chúng “mới hơn” so với hai tên gọi có dạng Hán - Việt hiện nay là [I]lương[/I] và [I]lô[/I]. Khác với tên gọi sông[I] Cái, [/I]tên gọi [I]Phú Lương[/I] dẫn xuất từ [I]lương[/I] hoặc [I] long, công[/I], [I]rông, rằng[/I] < [*klɔŋ/krɔŋ]. Tên gọi này, như vậy, bắt nguồn từ danh từ chung nghĩa ban đầu là “sông”. Về sau, nó trở thành yếu tố địa danh chỉ tên riêng trong một phức thể địa danh “sông [I]Sông[/I]”. Và sau nữa, khi Hán hoá, yếu tố [I]Sông [/I]trong phức thể địa danh “sông [I]Sông[/I]” chuyển thành [I]Phú Lương[/I] và ta có địa danh “sông [I]Phú Lương[/I]” như ngày nay. Tương tự như vậy, tên gọi [I]Lô/Lô Giang[/I] dẫn xuất từ [I]lô, la, rào[/I] < [*lo], một danh từ chung với nghĩa ban đầu là “sông”. Trường hợp này, nó trở thành yếu tố địa danh chỉ tên riêng trong một phức thể địa danh “sông [I]Lô[/I]”. Và khi Hán hoá, yếu tố [I]Lô [/I]trong phức thể địa danh “sông [I]Lô[/I]” hoặc chuyển thành song tiết [I]Lô Giang[/I] hoặc vẫn đơn tiết là [I]Lô[/I] như chúng ta có hiện nay. 4.2. Nếu sự nhìn nhận nguồn gốc ngôn ngữ và cách thức đặt tên của địa danh sông Hồng như trên có thể chấp nhận được, rõ ràng chúng ta có chứng cớ để suy luận về một hiện tượng văn hoá. Nói khác đi, người ta có cơ sở để nêu ra một vài nhận xét thú vị sau đây. Hình như, trong mười tên gọi sông Hồng hiện đang dùng hay được ghi lại trong sử sách, hai địa danh Hán - Việt [I]Phú Lương [/I]và [I]Lô/Lô Giang[/I] là dẫn xuất từ dạng thức địa danh có nguồn gốc Nam Á [I]cổ xưa nhất. [/I]Thứ đến là địa danh [I]Thao[/I] gốc Thái - Kađai và [I]Cái [/I]cũng là gốc Nam Á. Những địa danh Hán - Việt còn lại lần lượt xuất hiện về sau và có lẽ [I]Hồng[/I]/[I]Hồng Hà[/I] là địa danh xuất hiện muộn nhất, gần thời đại chúng ta nhất. Đối với các địa danh sông Phú Lương, sông Lô/Lô Giang, sông Thao và sông Cái việc định vị thời gian như vậy còn được sự ủng hộ của [I]phương thức cấu tạo địa danh[/I] và [I]ý nghĩa của chúng[/I]. Ở hai địa danh dầu, phương thức cấu tạo của chúng là “chuyển danh từ chung thành tên riêng” nên tính chất của chúng cổ xưa hơn; còn ở hai địa danh sau, việc đặt tên địa danh là dựa trên “đăc điểm hay tính chất” của nó tự nó cho thấy giá trị thời gian muộn hơn. Từ góc nhìn văn hoá, người ta thấy rằng tên gọi sông Hồng là một sự hội tụ hay hoà hợp của hai cộng đồng cư dân sử dụng hai hệ ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic) và Thái - Kađai (Tai - Kadai). Trong đó, họ ngôn ngữ Nam Á là họ ngôn ngữ của cư dân bản địa ở vùng Đông Nam Á hiện nay và thuộc vào nhiều nhánh khác nhau; còn đối cư dân họ Thái - Kađai, dường như vào thời cổ xưa, sông Hồng là ranh giới Tây Nam của cộng đồng cư dân này. Về sau, các địa danh của cư dân hai họ ngôn ngữ ban đầu ấy đều bị cư dân Hán hoá rồi bị Hán - Việt hoá. Rõ ràng, tên gọi sông Hồng là một sự hội nhập, đan xen văn hoá của những lớp cư dân có nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau trong lịch sử. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH . 1. Đào Duy Anh (1997), [I]Đất nước Việt Nam qua các đời[/I], Nxb Thuận Hoá, Huế 1997, 263 tr. 2. Nguyễn Tài Cẩn (1989), [I]Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt,[/I] Nxb ĐH&THCN, Hà Nội ; Tái bản Nxb ĐHQGHN (2000), Hà Nội, 354tr. - (1995), [I]Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo),[/I] Nxb Giáo dục, Hà Nội, 348tr. - (2001), [I]Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, Nxb ĐHQG Hà Nội, 439 tr.[/I] 3. Hoàng Thi Châu (1964), [I]Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông,[/I] Thông báo khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tập 3, tr 94-106. 4. Phan Huy Chú (1960), [I]Lịch triều hiến chương loại chí[/I], tập 1, Nxb Sử học, Hà Nội, 352 tr. - (1997), [I]Hoàng Việt địa dư chí, [/I]Nxb Thuận Hoá, Huế. 5. Trần Trí Dõi (1999), [I]Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, [/I]NXb ĐHQG Hà Nội, 301 tr.( tái bản 2000) - (2001), [I]Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội[/I], Nxb Văn hoá Thông tin, 266 tr - (2005), [I]Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo)[/I], Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2005, 268 tr. - (2005),[I]Tiếp tục tìm hiểu về xuất xứ và ý nghĩa địa danh Cổ Loa (…), [/I]Ngôn ngữ 11(198)/11-2005, tr 21-27. 6. Ngô Sỹ Liên (1998), [I]Đại Việt sử ký toàn thư[/I], Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, 7. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), [I]Đại Nam nhất thống chí[/I], Nxb Thuận Hoá, Huế 1997, Tập 3, Tập 4. 8.Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), [I]Đồng Khánh dư địa chí,[/I] Nxb Thế giới, Hà Nội 2003. 9. Nguyễn Văn Siêu (1997), [I]Đại Việt địa dư toàn biên[/I], Nxb Văn hoá, Hà Nội. - (2003), [I]Phương Đình dư địa chí[/I], Nxb Thế giới, Hà Nội 2003. 10. Ngô Thì Sỹ (1997), [I]Đại Việt sử ký tiền biên[/I], Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998. [I]Nguồn : Ngonnguhoc.org[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Địa lí Việt Nam
Địa lí KT-XH Việt Nam
Tên gọi của sông Hồng: Dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hóa trong lịch sử người Việt
Top