Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔN NGỮ HỌC
Tiếng Việt
Phương ngữ
Tản mạn về tiếng Nghệ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 66554" data-attributes="member: 7"><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong>Tản mạn về tiếng Nghệ</strong></span></span></p> <p style="text-align: center"></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"> </span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">NGƯỜI Nghệ rất có ý thức trong việc gìn giữ tiếng nói của dân tộc. Trước họa xâm lăng nô dịch ngôn ngữ người Nghệ răn đe nhau không hùa theo tiếng nói ngọng của người nước ngoài bằng những câu ngạn ngữ: “Chưởi cha không bằng pha tiếng”, “Xấu hay mần tốt, dốt hay nói trự”. Nói “trự” là gì? Nói “trự” là nói theo chữ rồi phát âm theo cách phát âm ngọng của người nước ngoài. </span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Ví dụ: Người Pháp không thể nói và viết cho đúng được chữ “Đò lường”, “chợ Vịnh” nên phải nói ngọng và viết ngọng là “Đô Lương”, “Vinh”... Vua quan các thời theo cách phát âm trọ trẹ của người ngoài rồi viết tên núi, tên sông, tên đất, tên làng vào các văn bản hành chính sẽ bàn sau, bài viết này chỉ đề cập vấn đề tiếng Nghệ bảo lưu tiếng Việt. Tiếng Việt, tức là tiếng nói của người Lạc Việt, người Cửu Chân, người Việt Thường, người Giao Chỉ sống trên đất Việt hàng ngàn năm trước khi Sĩ Nhiếp mang chữ Hán và âm Hán sang nước ta.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Ta hãy xem, từ khi Sĩ Nhiếp đưa chữ Hán vào, tiếng Việt biến đổi thế nào và người Nghệ đã “chiến đấu” để bảo lưu tiếng nói của mình như thế nào? Sau thời chữ Hán, đến thời chữ Pháp, ta cũng xét tương tự. (Về sự đóng góp tích cực của chữ Hán và chữ Pháp là rất to lớn đối với ngôn ngữ, học thuật và các mặt khác xin không đề cập ở bài viết này).</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Sĩ Nhiếp đưa chữ Hán vào nước ta từ thời đầu Công Nguyên, đến nay đã 2000 năm. Tiếng Việt bị biến đổi theo chiều hướng phát âm ngọng, trọ trẹ không chính xác như nguyên gốc của nó. Chữ Hán không có khả năng viết đúng âm Việt nên phải viết các âm ngọng, từ đó sinh ra tiếng nói ngọng. Tất nhiên ngọng lâu ngày, cả làng nói ngọng thì quen đi rồi chẳng ai nghĩ là mình đang nói ngọng.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tên núi, tên sông, tên làng, tên xóm, tên đất, tên người có tự hàng ngàn năm trước, lần đầu tiên có chữ Hán nên bắt đầu được viết vào các văn bản.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Viết như thế nào?</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Ngàn Hống, không có chữ Hống, bèn viết chữ “Hồng”.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Sông Rum, không có chữ Rum, bèn viết chữ “Lam”</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Rú Đụn, không có chữ Đụn, bèn viết chữ Độn</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Rú Cuồi, không có chữ Cuồi, bèn viết chữ Quỳ</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Rú Già, không có chữ Già, bèn viết chữ Đà...vân vân và vv...</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Từ đấy, hệ chữ ngọng đó kéo theo một hệ âm ngọng. Người Nghệ chống lại âm ngọng đó, họ tiếp tục nói Ngàn Hống, Rú Đụn, Rú Cuồi, rú Mồng Ga, khe Bò Đấy, kẻ Om, kẻ Trù, kẻ Gám, đi mô rứa, mần chi đó, khoai ló, cá tràu, cá hẻn...</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nhờ thế, sau một ngàn năm văn bản chữ nghĩa, mặc ai nói “Trự”, nhân dân Nghệ Tĩnh đã bảo lưu tiếng Việt gần như nguyên gốc cổ sơ từ thời Lạc Việt, Việt Thường, Giao Chỉ cho đến ngày nay. Công lao đó phải được coi là to lớn. Các vùng đất khác, nhất là các vùng ở gần kinh thành đã để cho các từ nói ngọng ăn lẹm gần hết tiếng nói cổ xưa của dân tộc mình. Bây giờ, ai muốn tìm hiểu tiếng nói của cha ông ta xưa, thiết nghĩ chỉ còn người Mường, người Thổ và người Nghệ Tĩnh là những bảo tàng sống lưu giữ khá đầy đủ vốn quý về gốc từ, từ vựng tiếng Việt có tự ngàn xưa.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Trên đất nước ta mỗi vùng miền phát âm tiếng Việt mỗi kiểu. Đâu là tiếng chuẩn? Lấy cái gì làm chuẩn? Phải lấy tiếng nói của ông cha xưa mà làm chuẩn. Đâu nói ngọng, nói trọ trẹ chứ tôi tin người Nghệ nói đúng tiếng nói nguyên gốc của người Việt có từ thủa xa xưa.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nói “con tru” hay nói “con trâu” là đúng?</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nói “cơn ló” là đúng hay nói “cây lúa” là đúng?</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Trải các triều đại, chưa hề có văn bản nào quy định tiếng nào, âm nào là chính thống, âm nào là không chính thống. Các nhóm soạn sách từ điển nói “con trâu” là chính thống tiếng Việt mà “con tru” thì không chính thống tiếng Việt? Căn cứ vào đâu, vào cái gì mà nói như vậy? Nếu căn cứ vào tiếng Việt gốc thì nói “con tru” là đúng, “con trâu” là sai.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Vô vàn từ được gọi là phổ thông nhưng lại không đủ độ tinh vi để biểu hiện các sắc thái của tình cảm như trong vốn từ của tiếng Nghệ. Tôi lấy một ví dụ:</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Trăm năm dù lỗi hẹn hò</em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Cây đa bến cũ con đò khắc đưa</em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Cây đa bến cũ con lưa</em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Con đò năm ngoái năm xưa mô rồi...</em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em></em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Thay chữ “mô rồi” thành chữ “đâu rồi” thì câu ca không còn dư vị nữa. Đâu rồi là hỏi thật, hỏi để tìm con đò xem nó ở đâu còn “mô rồi” không hỏi thật thà như thế, buông trôi đầy ý vị. Có nhiều sự vật có trong từ vựng tiếng Nghệ nhưng tiếng phổ thông lại không có. Người ngoài Bắc không hề có từ ngữ để gọi cái rãnh nước ở trước thềm nhà. Trong lúc đó, tiếng Nghệ có từ ngữ, gọi nó là cái “đàng khanh”. Vậy tiếng Nghệ giàu hơn hay tiếng phổ thông giàu hơn?</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiếng Nghệ rất đẹp, giàu tính thẩm mĩ. Thẩm mĩ ở chỗ nào? Ở âm sắc, hình tượng, sức gợi, độ lan toả, có khả năng phân định sắc thái tình cảm của người nói và người nghe ở cấp độ tinh vi, tinh tế nhất. Về tính thẩm mĩ của âm sắc, xin lấy một ví dụ: <em>Ngàn Hống.</em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em></em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Người đi săn gọi người đi săn, người đi củi gọi người đi củi, từ đỉnh núi này gọi qua đỉnh núi khác:</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Có con thú đó “hông”?</span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">- Có cây gỗ đó “hông”?</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Chữ “Hông” đó vang dội trong 99 đỉnh núi, tiếng gọi từ vách núi này đập qua vách núi khác, đâu đâu cũng vang lên “có hông” “có hông”. Nếu con thú đã gặp, cây gỗ đã thấy thì người ở đỉnh núi kia “có hông”? “có rồi hống”? “gặp rồi hống”? Và từ đó, cái núi nơi người đi săn, đi củi gọi nhau ấy, tự nó hình thành tên của nó, theo âm thanh của tiếng hú gọi, ấy là “Ngàn Hống”... Chữ Hống đó chính là tiếng hú gọi của người xưa còn vang mãi cho đến ngày nay. Từ ngữ như thế rất sinh động, sức gợi của nó thật vô cùng cảm động!</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiếng Nghệ cũng rất giàu có âm hình. Khi tiếng nói đập vào tai nghe thì hình tượng, hình ảnh của sự vật, như dựng lên trước mắt của người nghe. Ví dụ: Núi Vụ Tru (vú con "tru"), khe Bò Đấy, dốc Giây Diều, chợ Cồn Lim, đò Ba Bến... Núi Vụ Tru ở Thanh Chương, bây giờ người ta gọi làng Vũ Trụ, khe Bò Đấy nay gọi là Bò Đái, thật là vô nghĩa và thiếu hình tượng.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Rồi mùa toóc rã, rơm khô</em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Bậu về quê bậu biết nơi mô mà tìm</em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em></em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Chữ “Toóc” nhất quyết là hay hơn chữ “Rạ” về âm sắc. “Toóc rã” là toóc rũ ra, rã ra ngả nghiêng rũ rượi ở trên đồng ruộng để mô tả cái cảnh hết hội, rồi mùa. Người gặp người nay phải chia tay. Nhớ thương, bịn rịn vương vấn mãi không cùng “Bậu về quê bậu biết nơi mô mà tìm”. Tiếng Nghệ vào văn chương hay lắm, đắc địa lắm!</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Khi mô cho đến Truông Dùng</em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Cho qua Truông Rạng, cho cùng Truông Si...</em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em></em></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Con đường (cũng là đường đời) thăm thẳm trước mắt, hết truông nọ đến truông kia, hay lắm và thương lắm!</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Chữ Hán vào nước ta, chữ Hống biến thành chữ “Hồng” chữ Rum biến thành chữ Lam. Từ đó có người lại bảo: Sông Lam là sông màu xanh, núi Hồng là núi màu đỏ... Những nhầm lẫn như thế sẽ làm méo mó, xuyên tạc ngữ nghĩa của tiếng nói. Tiếng Nghệ là thứ ngôn ngữ đã được người Việt sáng tạo, sàng lọc qua rất nhiều đời rất giàu có và rất thẩm mĩ. Ai chưa biết rõ điều đó, lại mang tâm lý “vọng ngoại” rồi chê bai tiếng Nghệ thì nên để tâm để ý mà nghiên cứu thêm, suy nghĩ thêm.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Còn lại một vấn đề là tính thẩm mĩ của ngữ âm, ngữ điệu. Đa phần người Nghệ thoàng thuyệch và đơn giản phát âm theo cách “thô kệch hoá” tiếng nói của mình, làm cho nó thô tháp vụng dại đôi khi gây chướng tai cho người nghe ở các vùng miền khác. Thật ra trước đây, trong những gia đình có gia phong, nề nếp tiếng Nghệ được phát âm rất dịu dàng khiêm nhường và chuẩn mực rất hay, rất ấm và rất đẹp. Tôi chưa hề nghe bà tôi hay mẹ tôi nói tiếng Nghệ vướng víu chút nào đến sự thô kệch và xấu xí. “Mần răng rứa con! Mẹ nói rồi, Bụt trên toà gà mô dám mổ...” “Ăn cơm nước cáy thì ngáy kho kho, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy, sau này lớn lên, nước cáy hay thịt bò cũng đều được cả con à!”. “Được mần răng mà được, thịt bò thì ra thịt bò, nước cáy thì ra nước cáy chớ lị”. Những tiếng nói của ông bà cha mẹ từ thủa ấu thơ luôn để lại trong tôi dư vị đậm đà về vẻ đẹp của tiếng Nghệ. Ngữ điệu tiếng Nghệ không xấu xí. Nói tiếng Nghệ, nếu trong lòng giữ được hoà âm và thanh khí thì tiếng Nghệ là tiếng nói chân tình và rất ấm áp.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em><strong>Theo Vanhoanghean.vn</strong></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"></span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 66554, member: 7"] [CENTER][FONT=Arial][SIZE=4][B]Tản mạn về tiếng Nghệ[/B][/SIZE][/FONT] [/CENTER] [FONT=Arial] [SIZE=4] NGƯỜI Nghệ rất có ý thức trong việc gìn giữ tiếng nói của dân tộc. Trước họa xâm lăng nô dịch ngôn ngữ người Nghệ răn đe nhau không hùa theo tiếng nói ngọng của người nước ngoài bằng những câu ngạn ngữ: “Chưởi cha không bằng pha tiếng”, “Xấu hay mần tốt, dốt hay nói trự”. Nói “trự” là gì? Nói “trự” là nói theo chữ rồi phát âm theo cách phát âm ngọng của người nước ngoài. Ví dụ: Người Pháp không thể nói và viết cho đúng được chữ “Đò lường”, “chợ Vịnh” nên phải nói ngọng và viết ngọng là “Đô Lương”, “Vinh”... Vua quan các thời theo cách phát âm trọ trẹ của người ngoài rồi viết tên núi, tên sông, tên đất, tên làng vào các văn bản hành chính sẽ bàn sau, bài viết này chỉ đề cập vấn đề tiếng Nghệ bảo lưu tiếng Việt. Tiếng Việt, tức là tiếng nói của người Lạc Việt, người Cửu Chân, người Việt Thường, người Giao Chỉ sống trên đất Việt hàng ngàn năm trước khi Sĩ Nhiếp mang chữ Hán và âm Hán sang nước ta. Ta hãy xem, từ khi Sĩ Nhiếp đưa chữ Hán vào, tiếng Việt biến đổi thế nào và người Nghệ đã “chiến đấu” để bảo lưu tiếng nói của mình như thế nào? Sau thời chữ Hán, đến thời chữ Pháp, ta cũng xét tương tự. (Về sự đóng góp tích cực của chữ Hán và chữ Pháp là rất to lớn đối với ngôn ngữ, học thuật và các mặt khác xin không đề cập ở bài viết này). Sĩ Nhiếp đưa chữ Hán vào nước ta từ thời đầu Công Nguyên, đến nay đã 2000 năm. Tiếng Việt bị biến đổi theo chiều hướng phát âm ngọng, trọ trẹ không chính xác như nguyên gốc của nó. Chữ Hán không có khả năng viết đúng âm Việt nên phải viết các âm ngọng, từ đó sinh ra tiếng nói ngọng. Tất nhiên ngọng lâu ngày, cả làng nói ngọng thì quen đi rồi chẳng ai nghĩ là mình đang nói ngọng. Tên núi, tên sông, tên làng, tên xóm, tên đất, tên người có tự hàng ngàn năm trước, lần đầu tiên có chữ Hán nên bắt đầu được viết vào các văn bản. Viết như thế nào? - Ngàn Hống, không có chữ Hống, bèn viết chữ “Hồng”. - Sông Rum, không có chữ Rum, bèn viết chữ “Lam” - Rú Đụn, không có chữ Đụn, bèn viết chữ Độn - Rú Cuồi, không có chữ Cuồi, bèn viết chữ Quỳ - Rú Già, không có chữ Già, bèn viết chữ Đà...vân vân và vv... Từ đấy, hệ chữ ngọng đó kéo theo một hệ âm ngọng. Người Nghệ chống lại âm ngọng đó, họ tiếp tục nói Ngàn Hống, Rú Đụn, Rú Cuồi, rú Mồng Ga, khe Bò Đấy, kẻ Om, kẻ Trù, kẻ Gám, đi mô rứa, mần chi đó, khoai ló, cá tràu, cá hẻn... Nhờ thế, sau một ngàn năm văn bản chữ nghĩa, mặc ai nói “Trự”, nhân dân Nghệ Tĩnh đã bảo lưu tiếng Việt gần như nguyên gốc cổ sơ từ thời Lạc Việt, Việt Thường, Giao Chỉ cho đến ngày nay. Công lao đó phải được coi là to lớn. Các vùng đất khác, nhất là các vùng ở gần kinh thành đã để cho các từ nói ngọng ăn lẹm gần hết tiếng nói cổ xưa của dân tộc mình. Bây giờ, ai muốn tìm hiểu tiếng nói của cha ông ta xưa, thiết nghĩ chỉ còn người Mường, người Thổ và người Nghệ Tĩnh là những bảo tàng sống lưu giữ khá đầy đủ vốn quý về gốc từ, từ vựng tiếng Việt có tự ngàn xưa. Trên đất nước ta mỗi vùng miền phát âm tiếng Việt mỗi kiểu. Đâu là tiếng chuẩn? Lấy cái gì làm chuẩn? Phải lấy tiếng nói của ông cha xưa mà làm chuẩn. Đâu nói ngọng, nói trọ trẹ chứ tôi tin người Nghệ nói đúng tiếng nói nguyên gốc của người Việt có từ thủa xa xưa. Nói “con tru” hay nói “con trâu” là đúng? Nói “cơn ló” là đúng hay nói “cây lúa” là đúng? Trải các triều đại, chưa hề có văn bản nào quy định tiếng nào, âm nào là chính thống, âm nào là không chính thống. Các nhóm soạn sách từ điển nói “con trâu” là chính thống tiếng Việt mà “con tru” thì không chính thống tiếng Việt? Căn cứ vào đâu, vào cái gì mà nói như vậy? Nếu căn cứ vào tiếng Việt gốc thì nói “con tru” là đúng, “con trâu” là sai. Vô vàn từ được gọi là phổ thông nhưng lại không đủ độ tinh vi để biểu hiện các sắc thái của tình cảm như trong vốn từ của tiếng Nghệ. Tôi lấy một ví dụ: [I]Trăm năm dù lỗi hẹn hò[/I] [I]Cây đa bến cũ con đò khắc đưa[/I] [I]Cây đa bến cũ con lưa[/I] [I]Con đò năm ngoái năm xưa mô rồi... [/I] Thay chữ “mô rồi” thành chữ “đâu rồi” thì câu ca không còn dư vị nữa. Đâu rồi là hỏi thật, hỏi để tìm con đò xem nó ở đâu còn “mô rồi” không hỏi thật thà như thế, buông trôi đầy ý vị. Có nhiều sự vật có trong từ vựng tiếng Nghệ nhưng tiếng phổ thông lại không có. Người ngoài Bắc không hề có từ ngữ để gọi cái rãnh nước ở trước thềm nhà. Trong lúc đó, tiếng Nghệ có từ ngữ, gọi nó là cái “đàng khanh”. Vậy tiếng Nghệ giàu hơn hay tiếng phổ thông giàu hơn? Tiếng Nghệ rất đẹp, giàu tính thẩm mĩ. Thẩm mĩ ở chỗ nào? Ở âm sắc, hình tượng, sức gợi, độ lan toả, có khả năng phân định sắc thái tình cảm của người nói và người nghe ở cấp độ tinh vi, tinh tế nhất. Về tính thẩm mĩ của âm sắc, xin lấy một ví dụ: [I]Ngàn Hống. [/I] Người đi săn gọi người đi săn, người đi củi gọi người đi củi, từ đỉnh núi này gọi qua đỉnh núi khác: - Có con thú đó “hông”? - Có cây gỗ đó “hông”? Chữ “Hông” đó vang dội trong 99 đỉnh núi, tiếng gọi từ vách núi này đập qua vách núi khác, đâu đâu cũng vang lên “có hông” “có hông”. Nếu con thú đã gặp, cây gỗ đã thấy thì người ở đỉnh núi kia “có hông”? “có rồi hống”? “gặp rồi hống”? Và từ đó, cái núi nơi người đi săn, đi củi gọi nhau ấy, tự nó hình thành tên của nó, theo âm thanh của tiếng hú gọi, ấy là “Ngàn Hống”... Chữ Hống đó chính là tiếng hú gọi của người xưa còn vang mãi cho đến ngày nay. Từ ngữ như thế rất sinh động, sức gợi của nó thật vô cùng cảm động! Tiếng Nghệ cũng rất giàu có âm hình. Khi tiếng nói đập vào tai nghe thì hình tượng, hình ảnh của sự vật, như dựng lên trước mắt của người nghe. Ví dụ: Núi Vụ Tru (vú con "tru"), khe Bò Đấy, dốc Giây Diều, chợ Cồn Lim, đò Ba Bến... Núi Vụ Tru ở Thanh Chương, bây giờ người ta gọi làng Vũ Trụ, khe Bò Đấy nay gọi là Bò Đái, thật là vô nghĩa và thiếu hình tượng. [I]Rồi mùa toóc rã, rơm khô[/I] [I]Bậu về quê bậu biết nơi mô mà tìm [/I] Chữ “Toóc” nhất quyết là hay hơn chữ “Rạ” về âm sắc. “Toóc rã” là toóc rũ ra, rã ra ngả nghiêng rũ rượi ở trên đồng ruộng để mô tả cái cảnh hết hội, rồi mùa. Người gặp người nay phải chia tay. Nhớ thương, bịn rịn vương vấn mãi không cùng “Bậu về quê bậu biết nơi mô mà tìm”. Tiếng Nghệ vào văn chương hay lắm, đắc địa lắm! [I]Khi mô cho đến Truông Dùng[/I] [I]Cho qua Truông Rạng, cho cùng Truông Si... [/I] Con đường (cũng là đường đời) thăm thẳm trước mắt, hết truông nọ đến truông kia, hay lắm và thương lắm! Chữ Hán vào nước ta, chữ Hống biến thành chữ “Hồng” chữ Rum biến thành chữ Lam. Từ đó có người lại bảo: Sông Lam là sông màu xanh, núi Hồng là núi màu đỏ... Những nhầm lẫn như thế sẽ làm méo mó, xuyên tạc ngữ nghĩa của tiếng nói. Tiếng Nghệ là thứ ngôn ngữ đã được người Việt sáng tạo, sàng lọc qua rất nhiều đời rất giàu có và rất thẩm mĩ. Ai chưa biết rõ điều đó, lại mang tâm lý “vọng ngoại” rồi chê bai tiếng Nghệ thì nên để tâm để ý mà nghiên cứu thêm, suy nghĩ thêm. Còn lại một vấn đề là tính thẩm mĩ của ngữ âm, ngữ điệu. Đa phần người Nghệ thoàng thuyệch và đơn giản phát âm theo cách “thô kệch hoá” tiếng nói của mình, làm cho nó thô tháp vụng dại đôi khi gây chướng tai cho người nghe ở các vùng miền khác. Thật ra trước đây, trong những gia đình có gia phong, nề nếp tiếng Nghệ được phát âm rất dịu dàng khiêm nhường và chuẩn mực rất hay, rất ấm và rất đẹp. Tôi chưa hề nghe bà tôi hay mẹ tôi nói tiếng Nghệ vướng víu chút nào đến sự thô kệch và xấu xí. “Mần răng rứa con! Mẹ nói rồi, Bụt trên toà gà mô dám mổ...” “Ăn cơm nước cáy thì ngáy kho kho, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy, sau này lớn lên, nước cáy hay thịt bò cũng đều được cả con à!”. “Được mần răng mà được, thịt bò thì ra thịt bò, nước cáy thì ra nước cáy chớ lị”. Những tiếng nói của ông bà cha mẹ từ thủa ấu thơ luôn để lại trong tôi dư vị đậm đà về vẻ đẹp của tiếng Nghệ. Ngữ điệu tiếng Nghệ không xấu xí. Nói tiếng Nghệ, nếu trong lòng giữ được hoà âm và thanh khí thì tiếng Nghệ là tiếng nói chân tình và rất ấm áp. [I][B]Theo Vanhoanghean.vn[/B][/I] [/SIZE][/FONT][FONT=Arial] [SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔN NGỮ HỌC
Tiếng Việt
Phương ngữ
Tản mạn về tiếng Nghệ
Top