Trả lời chủ đề

Tâm lý học với việc nghiên cứu hạnh phúc con người



Hạnh phúc là gì? Định nghĩa về nó tưởng vô cùng đơn giản, song  lại khiến bao nhà nghiên cứu phải đau đầu và cho tới nay vẫn chưa có sự  thống nhất hoàn toàn trong việc định nghĩa hạnh phúc.



 Nhà tâm lý học Tal Ben-shahar, trong cuốn sách viết dưới nhan đề "Happier: Learn the Secrets of Daily Joy and Lasting Fulfillment” (tạm dịch: "Để hạnh phúc hơn: Hãy học những bí mật niềm vui hàng ngày và hiện thực hóa lâu dài"),  xuất bản cách đây không lâu, đã miêu tả hạnh phúc như sự cảm nhận những  đều sung sướng và cảm nhận ý nghĩa cuộc đời. Định nghĩa này không có gì  rõ ràng hơn, mới mẻ hơn và về cơ bản không khác gì lắm so với định  nghĩa mà nhà triết học Ba Lan Wadysalf' Tatarkiewicz đã nêu trong một  bài báo luận về hạnh phúc viết từ những năm phát xít Hitler chiếm đóng  Ba Lan. Trong bài viết này, ông gọi hạnh phúc là sự hài lòng mang tính  bền vững về cuộc sống và được chứng minh cơ sở tồn tại. Sự hài lòng là  gì thì ai cũng biết, cho nên chúng ta thử đi sâu phân tích tính bền vững  và tìm hiểu xem cơ sở tồn tại của nó đã được chứng minh như thế nào.  Nhưng trước tiên xin kể một câu chuyện có thật đã xảy ra cách đây một số  năm.


Ở ngoại vi thủ đô London của nước Anh có một thị trấn nhỏ  tên là Slough, tiếng Anh có nghĩa là bùn lầy hay vũng nước. Với tên gọi  ấy, thị trấn này chắc chắn không thể được liệt vào danh sách những địa  danh hấp dẫn khách thập phương về du lịch và cảnh quan. Vì trong quá khứ  nó đã từng là một khu công nghiệp, cư dân ở đây vừa rất vô sản vừa đa  sắc tộc. Đông đảo nhất là những người theo đạo Hồi (13,4%), người Xích  (9,1%), sau đó là người ấn và những người theo Thiên chúa giáo, con cháu  lính Ba Lan từng theo tường Anders lưu lạc sang đây: Chính vì cư dân  Slough không được coi là những người đặc biệt khá giả, không phải lo  miếng cơm manh áo hàng ngày và hạnh phúc nên nó đã thu hút sự chú ý của  một nhóm những người quan tâm đặc biệt đến tâm lý học xã hội, khiến họ  không ngần ngại chọn thị trấn này làm nơi ấn hành một cuộc thí nghiệm  với mục tiêu cao cả là biến. cư dân vùng này trở thành những người hạnh  phúc. Cuộc thí nghiệm đã được miêu tả tỉ mỉ trong cuốn sách nhan đề “Trở  thành người hạnh phúc như thế nào”? sau một thời gian xuất bản đã được  dịch ra khá nhiều ngôn ngữ trên thế giới.


Công việc mà những  người trong nhóm kể trên tiến hành khó có thể coi là một công trình khoa  học thực thụ, đúng hơn đó là chương trình phổ biến khoa học được chương  trình truyền hình BBC2 tài trợ và kết thúc thành công. Trong số sáu  người tổ chức cuộc thí nghiệm này có nhà tâm lý học thuộc một Trường Đại  học mở là ông Richard Stevens, nhà tâm lý tư liệu Brett Kahn, hai nữ  chuyên gia về đều kiện lao động là Jessica Pryce- Jones và.Philippa  Chapman, nhà hoạt động xã hội tích cực kiêm nhà doanh nghiệp Andrew  Mawson và nhà kinh tế học kiêm triết học Richard Reeves. Bao trùm cuộc  chơi là tinh thần của một lĩnh vực khoa học mới xuất hiện những năm 90 ở  Mỹ và được gọi tên là tâm lý học tích cực. Những người thừa nhận nó đặc  biệt nhấn mạnh niềm tin vào một điều răng bản chất con người là thứ có  thể dạy được, cho nên có thể dạy con người vươn tới hạnh phúc ra sao,  hay ít nhất có thể dạy con người ta cách tiếp cận với hạnh phúc.


Làm  cho 120.000 dân của thị trấn Slough trở nên hạnh phúc là một việc làm  vượt quá khả năng của sáu con người trong nhóm thực nghiệm, cho nên để  tham gia vào cuộc thí nghiệm với mục đích phục vụ cho nhu cầu của truyền  hình hơn là làm thí nghiệm khoa học, người ta mời 50 tình nguyện viên,  đại diện cho các nghề nghiệp và có những nẻo đường đời khác nhau. Trước  tiên, người ta đo mức độ hài lòng chung của những người này về cuộc sống  và thu được kết quả là 6,4, tức là thấp hơn chỉ số bình quân trên toàn  nước Anh (7,3), thấp hơn một chút so với Trung Quốc (6,5), nhưng cao hơn  hẳn Ba Lan (5,9). Sau khi xác định hiện trạng ban đầu, trong mấy tháng  liền, những người tình nguyện tham gia thí nghiệm, dưới sự hướng dẫn của  các chuyên gia, được tập huấn “chiến thuật", đã học hát tập thể và thực  hiện một số bài tập khác, với một tâm niệm thường trực trong đầu là con  người ta chỉ có thể đến được với hạnh phúc bằng những bước đi rất từ  từ. 


Sau bốn tháng kiên trì, cần mẫn hát trong đội đồng ca, gọi  điện thoại cho bạn bè, nở nụ cười với người quen cũng như người lạ, mang  xẻng đi đào hố trồng cây, những người dân Slough tình nguyện làm thí  nghiệm đã được đo lại mức độ hài lòng về cuộc sống của mình và những  người tổ chức thí nghiệm đã ngẩng cao đầu tuyên bố rằng chỉ số hạnh phúc  trung bình của 50 tình nguyện viên đã tăng33%, đạt mức bình quân của cư  dân Đan Mạch và Thụy Sĩ.

Cuộc thí nghiệm được tiến hành ở Sluogh,  suy cho cùng, chỉ là một trò chơi và những kết luận rút ra từ đó có thể  là hời hợt, nông cạn. Nhưng chuyện hạnh phúc con người thì không được  phép coi thường, bởi đây là vấn đề mà hàng ngàn năm nay, từ Aristoteles  đến Sigmund Freud và Bertrand Russell đều đã hao tổn không biết bao  nhiêu sức lực trong những đêm suy nghĩ lao lung để tìm ra câu trả lời  cho câu hỏi mà phần lớn nhân loại quan tâm. 


Trở lại định nghĩa  của Wladyslaw Tatarkiewicz, chúng ta thấy có hai vấn đề cần đi sâu  nghiên cứu, phân tích. Thứ nhất là tính bền vững của trạng thái hài  lòng: Tính bền vững này (theo quan niệm của Ben-shahar thì đó là tính  chất chung nhất) là cơ sở để chúng ta chỉ có thể nói đến hạnh phúc trong  ý nghĩa triết học của nó và trong bối cảnh toàn bộ những trải nghiệm  cuộc đời của con người. Ngay cả khi có một cuộc sống hạnh phúc, thành  đạt, chúng ta vẫn không tránh khỏi những phút giây đau đớn, khổ sở,  những thất bại tạm thời, thậm chí những thời điểm ta thấy tan nát cõi  lòng. Niềm sung sướng nhất thời đem lại cho ta sự hài lòng, mãn nguyện,  song kết quả cuối cùng mới thật sự là điều đáng nói. Chẳng hạn mong ước  của rất nhiều người trong chúng ta là trúng xổ số, đoạt giải thưởng lớn,  một may mắn mà nhiều người tin lả có thể làm thay đổi điều kiện sống  của họ và giúp họ trở thành những người hạnh phúc vĩnh viễn. Nhưng không  phải vậy, bằng chứng là vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước, nhà tâm  lý học xã hội người Mỹ, ông Philip Brickman và các đồng nghiệp của ông  đã quyết định kháo sát số phận 22 người may mắn đánh dấu đúng các ô số  nên trúng thưởng và trở thành các nhà triệu phú. Tất nhiên họ rất vui  mừng, nhưng mấy tháng sau độ mãn nguyện với cuộc sống của họ đã trở lại  mức độ trước đó, còn sau một năm thì nhiều người trong số này thậm chí  cảm thấy mình không hạnh phúc bằng những năm tháng trước khi trúng số  độc đắc. Cũng có thể họ sẽ mãn nguyện suốt cả cuộc đời nếu lần nào chơi  xổ số cũng trúng cả - mặc dù giả thiết chưa chắc đã đúng một khi khái  niệm về bản chất con người được hiểu rất khác nhau.

Tính bền vững hay  tính lặp lại của những sự kiện đem đến sự dễ chịu là không đủ để thỏa  mãn đòi hỏi của hạnh phúc nói chung. Chúng ta hãy hình dung một con  người - mà những người loại này đang đầy rẫy quanh ta - luôn có niềm vui  lớn khi được chứng kiến sự bất hạnh của người khác (cụ thể là sự bất  hạnh của ông hàng xóm gần gũi nhất). Chẳng hạn như năm nay ông ấy bị  chết con bò sữa và càng “tuyệt vời" hơn nếu năm sau nhà ông ta bị sét  đánh trúng và cả nhà kho với toàn bộ những gì có được sau một năm làm  lụng vất vả đã theo khói bay lên trời. Thậm chí nếu những điều “đáng  mừng” như vậy cứ lặp đi lặp lại, với hậu quả lần sau kinh khủng hơn lần  trước (đối với ông hàng xóm) thì con người ghen ăn ghét ở trong giả  thiết của chúng ta kia đằng nào cũng không vươn tới được cái hạnh phúc  hiểu theo ý nghãi mà Tatarkiewicz đã chỉ ra, bởi lẽ sự hài lòng, mãn  nguyện về cuộc sống của anh ta không có cơ sở vững chắc.


Yếu tố  thứ hai là cơ sở. Khi nói về việc chứng minh cơ sở của hạnh phúc, chúng  ta đã đi vào lĩnh vực triết học, đạo đức học, luật học và tâm lý học xã  hội. Con người là một sinh vật phức tạp. Giống như các con vật khác, con  người có những nhu cầu thiết yếu, sơ đẳng để sinh tồn (nhưng thêm vào  đó phải kể đến nhu cầu vượt lên trên đồng loại), song con người cũng lại  là sinh vật mang tính xã hội, cho nên một cá nhân lành mạnh (hoặc bình  thường) về mặt tâm lý không thể tồn tại mà bỏ qua những nguyên tắc đạo  đức chung sống trong xã hội. Nhu cầu được thừa nhận, sự hạn chế từ phía  những người khác là động lực to lớn trong các hoạt động của chúng ta và  điều đó cũng dẫn tội việc chúng ta thường xuyên làm những việc tốt để  xứng đáng được thừa nhận và để những việc làm tết đem đến cho chúng ta  sự mãn nguyện, hài lòng thực sự. Nhưng đáng tiếc là trong chúng ta vẫn  tồn tại những kẻ không chỉ có thói ghen ăn ghét ở mà còn có vấn đề về  thần kinh vô cùng nguy hiểm, những kẻ coi chuyện gây đau khổ, bất hạnh  cho người khác là niềm vui của bản thân mình (chẳng hạn những kẻ hiếp  dâm, những tên giết người hàng loạt) và những chuẩn mực của chung sống  xã hội đã được xây dựng theo hướng làm sao hạn chế đến mức tối đa khả  năng vươn tới sự mãn nguyện lâu dài nhờ được thỏa mãn thú vui của bọn  người này. Đối với chúng, xã hội cố gắng ngăn cản bước tiến tới sự sung  sướng mang tính ích kỷ, cá nhân. Để đáp ứng cảm giác công bằng xã hội,  bọn người kể trên bị tống giam hoặc phải nhận án tử hình.


Như vậy  liệu có phải chủ nghĩa tuân thủ những tập quán hiện đang tồn tại và  những chuẩn mực xã hội là điều kiện cần thiết để đạt tới hạnh phúc bền  vững? không hẳn thế. Bởi vì chúng ta không chỉ là những sinh vật mang  nặng tính xã hội mà còn là những đơn vị độc lập được thiên phú một hệ  thống nội tâm bao hàm rất nhiều niềm tin khác nhau được gọi chung là tâm  hồn. Đặc điểm này cho phép chúng ta bay bổng, vượt lên trên chủ nghĩa  tuân thủ và tự điều chỉnh cách xử sự của mình bằng những giá trị cao cả  hơn, chẳng hạn như những giá trị mang tính tôn giáo. Đôi khi, ví dụ như  trường hợp những người chấp nhận khổ hạnh nhân danh đức tin, cuộc sống  đã hiến dâng cho những điều tốt đẹp vẫn là cuộc sống hạnh phúc.


Nếu  cân nhắc lại đều chúng ta đã nói về hạnh phúc thật sự, có lẽ chúng ta  không còn phải ngạc nhiên tại sao các nhà triết học thông thái nhất lại  phải vò đầu bứt tai để tìm ra cốt lõi của vấn đề hạnh phúc và những cách  thức đạt tới hạnh phúc. Nói chung những điều các vị rút ra đều mang đậm  yếu tố bi quan. Có lẽ chúng ta nên biết ơn các nhà tư tưởng Anh thời kỳ  Ánh sáng khi họ đề nghị loài người đừng ảo tưởng hóa quan hệ con người  với con người, bởi “người với người là chó sói” (về điều này thì những  người La Ma cổ đại đã thấy rất rõ), đồng thời nói thêm rằng cuộc sống  con người là “khốn khổ, cô đơn, tàn bạo và ngắn ngủi”. Nhà tư tưởng  người Mỹ thế kỷ XIX, Henry David Thoreau, cũng có những quan điểm tương  tự khi ông khẳng định rằng “có biết bao người đang sống trong cô đơn  thầm lặng”. Cả Sigmund Freud lẫn Carl Jung đều không tin vào khả năng  cong người có một cuộc đời hạnh phúc khi các ông cho rằng hạnh phúc,  ngay cả trong trường hợp tốt đẹp nhất, cũng chỉ là một xúc cảm thoảng  qua, nó sẽ nhạt dần và biến mất không cách nào níu kéo. Tâm lý học, với  tư cách lĩnh vực nghiên cứu, nhưng từ buổi đầu hình thành cũng chỉ quan  tâm nghiên cứu chủ yếu các tệ nạn, tức là cái biến chúng ta thành những  kẻ bất hạnh, chứ không đặt ra các mục tiêu chứa đựng tham vọng lớn hơn  là giảm bất hạnh đến mức có thể chấp nhận được.


Hiện tượng hạnh  phúc con người cho đến tận đậu thập kỷ 90 vẫn chỉ có chỗ đứng trong mối  quan tâm chính của các nhà tâm lý học. Số các nhà nghiên cứu danh tiếng  quan tâm đến đề tài này có thể tính trên đầu ngón tay của hai bàn tay.  Một trong những nguyên nhân của tình trạng này chắc chắn là cái thực tế  đã chỉ ra rằng đối với các nhà hành vi học và cả các nhà tâm lý học nhận  thức (những người nghiên cứu về lý luận nhận thức) đề tài này mềm quá,  mang tính nhân văn và triết học quá, trong khi đó tham vọng của các nhà  khoa học là tạo ra một thứ tâm lý học thật sự "khoa học" hơn. Hạnh phúc  đã không giành được sự quan tâm thích đáng của những người thừa nhận  trường phái mới, trường phái tâm lý học tiến hóa với lý do là nhìn từ  góc độ quan điểm của Darwin, có thể dễ dàng giải thích niềm vui và sự  mãn nguyện về cuộc sống.


Đồng thời với lý thuyết tiến hóa, thuyết  di truyền cũng đã xuất hiện trong tâm lý học và vào năm 1996, các Giáo  sư của Đại học bang Minnesot là David Lykken và Auke Tellegen, những  người thuộc nhóm nghiên cứu tâm lý học các cặp song sinh có gen di  truyền giống hệt nhau tức là sinh đôi một trứng, nhưng bị tách ra ngay  sau khi sinh và được nuôi dạy trong những điều kiện môi trường khác nhau  đã công bố kết quả nghiên cứu của mình về vấn đề di truyền hạnh phúc.  Theo kết quả các nghiên cứu, nói chung việc chúng ta có hạnh phúc hay  không là do gen di truyền quyết định. Mỗi người chúng ta nha hai nhà  khoa học đã chứng minh, đều được thiên phú một mức độ hạnh phúc di  truyền tự nhiên, cho nên những sự kiện mang tính may rủi xảy ra chỉ làm  chúng ta mất thăng bằng trong chốc lát. Bằng chứng là những người trúng  xổ số cao và trở thành triệu phú, họ chỉ "sung sướng ngất trời" được một  thời gian ngắn là lại trở về với mức độ hạnh phúc trước đó. Tương tự  như vậy, thật may mắn, những người gặp bất hạnh lớn lao như bị bệnh hiểm  nghèo, trở nên tàn tật cũng thích nghi nhanh chóng với hoàn cảnh mới và  trở lại hạnh phúc như xưa, dù điều bất hạnh ấy có thể là bị mù mắt hay  liệt toàn thân.


Kết luận của Lykkerl và Tellegen, trong đó nói  rằng cố gắng vươn tới mức độ hạnh phúc lâu dài cũng vô nghĩa như mong  muốn của những người không may bị hạn chế về chiều cao, tự nhiên cao  xawngtimet, bị nhiều người coi là quan điểm quá bị quan và không phù hợp  với thực tế. Nghe đâu những suy nghĩ bi quan, sự hoài nghi trong quan  điểm của mình đã hành hạ chính bản thân ông Lykken, cho nên khi nghỉ  hưu, chỉ bốn năm sau thời điểm công bố bài báo gây nhiều tranh cãi, ông  đã cho xuất bản cuốn sách nhan đề: “Happiness: The Nature and Nurture of  Joy and Contentment” (“Hạnh phúc: ảnh hưởng của gen di truyền và môi  trường tới niềm vui và sự mãn nguyện”), trong đó ông đoạn tuyệt với tư  tưởng tiền định của mình và đồng ý với quan điểm rằng hạnh phúc một phần  là sản phẩm của gen di tuyền và một phần là sản phẩm của quá trình phát  triển tính cách.


Cuối cùng, thời đại tâm lý học tích cực đã đến.  Nó là lĩnh vực nhận nv nghiên cứu về mặt khoa học sự hành chức khả quan  nhất của cá nhân con người, bởi một khi hạnh phúc của chúng ta được sắp  đặt từ trước và do gen di truyền giữ vai trò chủ đạo thì những câu hùng  hồn trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, chẳng hạn về quyền vươn tới  hạnh phúc không thể phủ nhận là của mỗi con người, chắc chắn chỉ là  những lời trống rỗng. Đại đa số chúng ta tin tưởng, tuy mức độ có khác  nhau rằng chúng ta chính là người thợ rèn rèn nên số phận của mình Nhưng  các nhà tâm lý học cũng phải mất một thời gian dài để ghi chân lý này  vào chỉ tiêu tri thức của mình.


Thời điểm bước ngoặt diễn ra vào  năm 1998. Nhưng công đầu về việc khởi xướng tâm lý học tích cực lại được  Giáo sư Martin Seligman ghi cho cô con gái lúc ấy mới có mấy tuổi đầu  của mình, bởi lẽ cô không chỉ nổi tính cách lạnh lùng, bộ mặt rầu rĩ,  động một tý là kêu ca, phàn nàn của ông bố. Thực tế này đã đòi hỏi ông  trước hết phải xem xét lại bản thân cho mình. Cho đến thời điểm ấy,  chuyên môn nghề nghiệp của ông Seligman là nghiên cứu về sự ức chế và  những biểu hiện bất lực ở con người, song để đáp ứng thử thách do cô con  giá đặt ra, ông đã thay đổi hẳn đề tài nghiên cứu của mình và trở thành  một chuyên gia về chủ nghĩa lạc quan. Hiệu quả các công trình nghiên  cứu của ông có thể nhận thấy qua những bức ảnh chụp các nhà khoa học Mỹ  này xuất hiện dày đặc trên Internet. Đâu đâu cũng thấy một người đàn ông  tuổi không còn trẻ nữa, tóc thưa thớt trên đầu, nhưng nụ cười thì luôn  tươi roi rói.

 Để quảng bá một lĩnh vực nghiên cứu mới, ông Seligman đã tận dụng  thành quả trước đó của các đại diện trường phái tâm lý học nhân văn là  Abraham maslow and Carl Rogers cũng như công trình nghiên cứu của David  Myers, Ed Diener and Mihaly Csikszentmihalyi. Đặc biệt ông Seligman đã  phát triển một cách sáng tạo quan điểm cảm thụ lạc quan (optimal  experience), sau này được gọi ngắn gọn là FLOW, do Csikszentmihalyi đề  xuất trước đó khá lâu. 


'Theo lý thuyết- FLOW, điều kiện để đạt  tới sự mãn nguyện bền vững (và nếu mọi chuyện diễn ra suôn sẻ thì sẽ có  cả sự mãn nguyện có cơ sở vững chắc nữa) là việc tham gia vào các hoạt  động hơi khó khăn một chút nhằm mục đích chống lại cảm giác buồn chán và  đơn điệu, nhưng đông thời lại không khó đến mức vượt quá khả năng của  một cá nhân cụ thể để không tạo ra cảm giác thất bại trong đời, không  khiến người ta chán nản. Hạnh phúc khi đó không phải là mục đích tự thân  mà chỉ là một thứ sản phẩm phụ của hoạt động sáng tạo.


Ngày nay,  tâm lý học tích cực đã được giảng dạy tại hàng trăm trường Đại học, Cao  đẳng ở Mỹ và Anh.Liệu trong thời gian tới khoa báu tri thức này có được  mở toang để cung cấp hiểu biết cho tất cả mọi người trên thế giới không  và liệu khi đó hạnh phúc có phải là thứ phổ cập trên hành tinh, trở  thành chuyện “cơm bữa” của tất cả mọi người không? Có lẽ sẽ không xảy ra  khả năng này, đã thành bản chất tự nhiên của con người là trong khi có  những lúc nào cũng hăng hái, nhiệt tình đi tìm khía cạnh tích cực của  cuộc đời thì không thiếu gì những kẻ yếu thế, hơi một tý là nghĩ đến  chuyện trời sắp sập, nhìn mọi thứ đều màu đen. Hãy so sánh tâm trạng sau  khi có kết quả chuẩn đoán bệnh của hai loại người này. Những người lạc  quan coi bệnh tật chỉ là một thứ “trải nghiệm tích cực” của cuộc đời,  còn kẻ yếu thế lập tức thấy mình ốm nạng và bắt đầu than thân trách phận  về những nỗi đau mà con người ngàn đời phải chịu.


Các nhà nghiên cứu đã thống nhất đưa ra 10 nguyên tắc của một cuộc đời hạnh phúc, thành công như sau:

 1. Không lảng tránh sinh hoạt tình dục - sự gần gũi về mặt thể xác giữa hai con người đem lại cho chúng cảm giác về giá trị bản thân mình.

2. Hãy tắt tivi.

3. Luôn nở nụ cười - thậm chí cười miễn cưỡng cũng góp phần cải thiện tâm trạng mỗi người.

4. Gọi điện thường xuyên cho bạn bè.

5. Tận hưởng những giây phút thoải mái.

6. Đi dạo bằng những bước chân nhanh nhẹn mỗi ngày 2km

7. Hãy chọn lấy một nghề nghiệp mà mình yêu thích, còn thời gian rảnh rỗi thì tham gia các hoạt động xã hội - gia nhập đội đồng ca hoặc trồng cây ở những nơi công cộng.

8. Hãy hài lòng với những gì mình có.

9. Mỗi ngày nên tự thưởng cho mình một món quà và hãy dành cho mình thời gian tận hưởng món quà đó.

10. Mỗi ngày nên cố gắng làm điều gì đó tốt đẹp cho mình và cho người khác.


Nói  chung sẽ thật sự hời hợt và ngây thơ nếu chúng ta kết luận như đinh  đóng cột rằng có thể đem lại hạnh phúc cho cả một xã hội bằng cuộc vận  động mọi người tham gia đội đồng ca hoặc cuối tuần cầm cuốc xẻng đi  trồng cây hay dọn rác. Nhưng cũng không loại trừ khả năng là đối với một  số người, để có hạnh phúc trọn vẹn, họ chỉ còn thiếu mỗi một việc là  cầm cuốc xẻng đi trồng cây. - một cố gắng vừa phải sẽ tạo cảm giác phấn chấn.



Nguồn: Tri Thức Trẻ





Top