- Xu
- 458
Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du qua đoạn trích: Thúy Kiều báo ân báo oán (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Bài làm
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc tiểu thanh ký – Nguyễn Du)
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không).
Nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du (năm 1965). Tố Hữu viết “Kính gửi cụ Nguyễn Du” với những câu thơ mở đầu:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân,
Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều.
Và giờ đây trong hành trang văn hóa của thế kỉ XXI người đọc vẫn có Thúy Kiều và người đọc vẫn luôn “khóc cùng Tố Như”. Có lẽ sức hấp dẫn của “Truyện Kiều” chính là “lòng tê tái thương yêu” mà tác giả gửi gắm vào trong ấy. Đoạn “Thúy Kiều báo ân báo oán” là một dẫn chứng tiêu biểu.
Người ta thường nói Thúy Kiều chính là nhân vật tư tưởng của NGuyễn Du, qua nhân vật này ông không chỉ phần nào nói về thân phận mà còn muốn ký thác những tâm sự sâu kín của chính mình. Đã có lần ông thốt lên “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đoạn trích ‘Thúy Kiều báo ân báo oán” không chỉ bộc lộ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trong việc báo ân báo oán mà còn thể hiện khát vọng công lý cho người dân.
Trước hết là việc báo ân, được Nguyễn Du coi là việc quan trọng nhất phải làm trước. Tấm lòng coi trọng tình nghĩa được Thúy Kiều đối với những người đã giúp mình trong lúc hoạn nạn được tác giả thể hiện thật xúc động:
Cho gươm mời đến Thúc Lang.
Người có công được mời đến trong một nghi thức sang trọng. Nguyễn Du đã để Kiều nói ra những câu đầy lòng biết ơn “Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non”, tình nghĩa nặng như hàng ngàn quả núi. Với tấm lòng biết ơn sâu nặng như vậy thì chẳng có thứ vật chất nào có thể trả hết:
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng lễ xứng báo ân gọi là.
Như vậy ngay từ màn báo ân, Nguyễn Du đã thể hiện quan niệm, triết lý sống của dân gian hết sức sâu sắc. Cách báo ân này của Kiều không chỉ thể hiện cách sống của người Việt Nam ‘uống nước nhớ nguồn’ , ‘ăn quả nhớ kẻ trồng cây’ mà còn bộc lộ một vẻ đẹp trong ứng xử được tiếp thu từ tinh hoa văn hóa dân tộc từ ngàn đời nay.
Sau khi báo ân mới đến báo oán. Đạo Phật có câu ‘lấy oán trả oán,oán oán chất chồng, lấy ân trả oán, oán được hóa giải”. Câu Phật dạy thật đúng trong trường hợp báo oán giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trước những lý lẽ sắc như dao lại hết sức khéo léo của Hoạn Thư, Thúy Kiều đã báo oán một cách bất ngờ:
…Tha ra thì cũng mang đời,
Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền than gay.
Một cách báo oán hết sức nhân đạo. Việc tác giả dẫn dắt người đọc đi từ thái độ quyết tâm trả món nợ với Hoạn Thư “Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau” đến mỉa mai : “càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”, rồi “ đã lòng tri quá thì nên” (lòng đã biết lỗi nên tha bổng) là một diễn biến tâm lý rất logic. Việc Thúy Kiều tha cho Hoạn Thư không phải chỉ vì mụ ta khôn ngoan , nói năng khéo léo mà nó có một căn cứ sâu xa từ tấm lòng nhân hậu vị tha của Kiều hay chính xác hơn là từ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du.
Qua đoạn trích này người đọc còn cảm nhận được khát vọng mơ ước công lý chính nghĩa của thời đại mà tác giả đã ký thác vào trong truyện. Cô Kiều từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ đã trở thành quan tòa cầm cán cân công lý. Ở đâu có bất công ở đó có khát vọng công lý. Từ thời xa xưa ông cha ta đã từng gửi gắm những khát vọng chân chính của con người vào trong văn học . Truyện cổ tích Tấm Cám, truyện Thạch Sanh hay Cây tre trăm đốt…đều thể hiện mong muốn của nhân dân “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. Như vậy khát vọng muốn để những người dân bị áp bức trở thành người phán quyết công lý trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ước mơ hoàn toàn chính đáng, nó tiếp nối truyền thống và quan niệm sống của người dân Việt Nam.
Có thể nói để viết được Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tích lũy nhiều hiểu biết sâu sắc với nhiều vốn sống phong phú. Ông quả thực là một danh nhân văn hóa lớn. Những điều ấy Nguyễn Du không học hỏi ở đâu xa lạ mà ngay từ văn hóa dâ ngian. Viết lời tựa cho Truyện Kiều, Mộng Liên Đường cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du đối với con người, với cuộc đời : “Lời văn tả ra như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột…” Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy.
Theo 100 bài văn hay 9*
Bài làm
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc tiểu thanh ký – Nguyễn Du)
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không).
Nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du (năm 1965). Tố Hữu viết “Kính gửi cụ Nguyễn Du” với những câu thơ mở đầu:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân,
Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều.
Và giờ đây trong hành trang văn hóa của thế kỉ XXI người đọc vẫn có Thúy Kiều và người đọc vẫn luôn “khóc cùng Tố Như”. Có lẽ sức hấp dẫn của “Truyện Kiều” chính là “lòng tê tái thương yêu” mà tác giả gửi gắm vào trong ấy. Đoạn “Thúy Kiều báo ân báo oán” là một dẫn chứng tiêu biểu.
Người ta thường nói Thúy Kiều chính là nhân vật tư tưởng của NGuyễn Du, qua nhân vật này ông không chỉ phần nào nói về thân phận mà còn muốn ký thác những tâm sự sâu kín của chính mình. Đã có lần ông thốt lên “ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đoạn trích ‘Thúy Kiều báo ân báo oán” không chỉ bộc lộ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trong việc báo ân báo oán mà còn thể hiện khát vọng công lý cho người dân.
Trước hết là việc báo ân, được Nguyễn Du coi là việc quan trọng nhất phải làm trước. Tấm lòng coi trọng tình nghĩa được Thúy Kiều đối với những người đã giúp mình trong lúc hoạn nạn được tác giả thể hiện thật xúc động:
Cho gươm mời đến Thúc Lang.
Người có công được mời đến trong một nghi thức sang trọng. Nguyễn Du đã để Kiều nói ra những câu đầy lòng biết ơn “Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non”, tình nghĩa nặng như hàng ngàn quả núi. Với tấm lòng biết ơn sâu nặng như vậy thì chẳng có thứ vật chất nào có thể trả hết:
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng lễ xứng báo ân gọi là.
Như vậy ngay từ màn báo ân, Nguyễn Du đã thể hiện quan niệm, triết lý sống của dân gian hết sức sâu sắc. Cách báo ân này của Kiều không chỉ thể hiện cách sống của người Việt Nam ‘uống nước nhớ nguồn’ , ‘ăn quả nhớ kẻ trồng cây’ mà còn bộc lộ một vẻ đẹp trong ứng xử được tiếp thu từ tinh hoa văn hóa dân tộc từ ngàn đời nay.
Sau khi báo ân mới đến báo oán. Đạo Phật có câu ‘lấy oán trả oán,oán oán chất chồng, lấy ân trả oán, oán được hóa giải”. Câu Phật dạy thật đúng trong trường hợp báo oán giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Trước những lý lẽ sắc như dao lại hết sức khéo léo của Hoạn Thư, Thúy Kiều đã báo oán một cách bất ngờ:
…Tha ra thì cũng mang đời,
Làm ra, thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền than gay.
Một cách báo oán hết sức nhân đạo. Việc tác giả dẫn dắt người đọc đi từ thái độ quyết tâm trả món nợ với Hoạn Thư “Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau” đến mỉa mai : “càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”, rồi “ đã lòng tri quá thì nên” (lòng đã biết lỗi nên tha bổng) là một diễn biến tâm lý rất logic. Việc Thúy Kiều tha cho Hoạn Thư không phải chỉ vì mụ ta khôn ngoan , nói năng khéo léo mà nó có một căn cứ sâu xa từ tấm lòng nhân hậu vị tha của Kiều hay chính xác hơn là từ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du.
Qua đoạn trích này người đọc còn cảm nhận được khát vọng mơ ước công lý chính nghĩa của thời đại mà tác giả đã ký thác vào trong truyện. Cô Kiều từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ đã trở thành quan tòa cầm cán cân công lý. Ở đâu có bất công ở đó có khát vọng công lý. Từ thời xa xưa ông cha ta đã từng gửi gắm những khát vọng chân chính của con người vào trong văn học . Truyện cổ tích Tấm Cám, truyện Thạch Sanh hay Cây tre trăm đốt…đều thể hiện mong muốn của nhân dân “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. Như vậy khát vọng muốn để những người dân bị áp bức trở thành người phán quyết công lý trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một ước mơ hoàn toàn chính đáng, nó tiếp nối truyền thống và quan niệm sống của người dân Việt Nam.
Có thể nói để viết được Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tích lũy nhiều hiểu biết sâu sắc với nhiều vốn sống phong phú. Ông quả thực là một danh nhân văn hóa lớn. Những điều ấy Nguyễn Du không học hỏi ở đâu xa lạ mà ngay từ văn hóa dâ ngian. Viết lời tựa cho Truyện Kiều, Mộng Liên Đường cũng đề cao tấm lòng của Nguyễn Du đối với con người, với cuộc đời : “Lời văn tả ra như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột…” Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy.
Theo 100 bài văn hay 9*
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: