Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
LỊCH SỬ THPT
Hỏi đáp Lịch sử THPT
Tài liệu ôn thi đại học môn Sử
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 123213" data-attributes="member: 17223"><p><strong>Câu 4: Những thành tựu của miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm tròn nghĩa vụ hậu phương (1969 - 1973)?</strong></p><p> </p><p><strong><em>a. Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và tiếp tục phát triển kinh tế</em></strong></p><p>- Ngày 1/11/1968, do thất bại nặng nề ở cả 2 miền Nam Bắc, Mĩ buộc phải tuyên bố ngừng hẳn ném bom bắn phá miền Bắc, miền Bắc đã hoà bình. Đảng và Chính phủ ta chủ trương khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, ra sức chi viện cho tiền tuyến. </p><p></p><p>- Thực hiện chủ trương trên, cuối 1969 ba cuộc vận động lớn được mở ra là: tích cực lao động sản xuất; phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ của xã viên ở nông thôn; nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh. </p><p>Nhân dân miền Bắc đã tích cực đẩy mạnh thi đua học tập, lao động sản xuất, nghiên cứu nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, thực hiện di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh.</p><p></p><p><em><u>- Thành tựu đạt được thể hiện:</u></em></p><p>+ Trong khôi phục và phát triển kinh tế: Ta chủ trương khôi phục và phát triển trước hết trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.</p><p></p><p>+ Trong nông nghiệp, ta chủ trương khôi phục sản xuất và chăn nuôi. Chăn nuôi được đưa thành ngành chính. Đẩy mạnh việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhờ đó nhiều hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha (có hợp tác xã đạt 6 -7 tấn). Năm 1970, sản lượng lương thực tăng hơn 1968 là 60 vạn tấn. Việc cải tiến quản lý hợp tác xã có bước tiến đáng kể.</p><p></p><p>+ Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp được khôi phục nhanh chóng. Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng đều có bước phát triển. Sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968.</p><p></p><p> +Hệ thống giao thông được khôi phục, nhất là các tuyến giao thông chiến lược.</p><p></p><p> + Về văn hoá, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân được ổn định.</p><p></p><p>+ Quốc phòng được củng cố nhằm sẵn sàng đối phó với âm mưu mới của địch.</p><p></p><p></p><ul> <li data-xf-list-type="ul">Với nhiều thành tựu đạt được trong công cuộc khôi phục và phát triển về mọi mặt đã tạo ra tiềm lực mới cho miền Bắc tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ và làm tốt vai trò hậu phương cũng như nghĩa vụ quốc tế.</li> </ul><p></p><p><strong><em>b. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương</em></strong></p><p><em><u>* Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ (Từ 16/4/1972 đến 22/10/1972 và 18/12/1972 đến 15/1/1973)</u></em></p><p>- Để cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” đang trên đà phá sản đồng thời tạo thế mạnh trên bàn đàm phán ở Hội nghị Pari, tập đoàn Níchxơn đã quyết định dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc lần thứ 2.</p><p></p><p>- Từ 6/4/1972, một tuần sau khi quân dân miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược (30/3/1972), Mĩ đã cho không quân, hải quân bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972, Níchxơn chính thức tuyên bố cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2. Đến ngày 9/5/1972, Ních xơn tuyên bố tăng cường, mở rộng quy mô đánh phá và phong toả cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc. </p><p></p><p>So với lần 1, cuộc chiến tranh phá hoại lần này lớn hơn hẳn về quy mô, tốc độ, cường độ đánh phá, chúng tập trung sử dụng những loại máy bay hiện đại nhất là B52, F111.</p><p></p><p> + Miền Bắc đã có sự chuẩn bị từ trước nên luôn sẵn sàng chiến đấu, đánh trả địch ngay từ trận đầu. Với cách đánh mưu trí, dũng cảm vận dụng những kinh nghiệm có được, các lực lượng phòng không, không quân và phòng thủ biển đã giành nhiều chiến thắng. Tính trong thời gian đầu (4 đến 10/1972), quân ta bắn rơi 651 máy bay, bắn cháy và bị thương 80 tàu chiến, bắt sống hàng trăm giặc lái. Buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động chống phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra vào ngày 22/10/1972.</p><p></p><p>- Tiếp theo, ngày 14/12/1972, để hỗ trợ cho đấu tranh ngoại giao, ép ta phải chấp nhận những điều khoản do Mĩ đưa ra, Níchxơn (8/11/1972 trúng lại chức tổng thống) đã quyết định cho tập kích bằng không quân chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng. Từ 18/12/1972 đến 29/12/1972, Mĩ sử dụng700 lần máy bay B52, gần 4.000 lần chiếc máy bay chiến thuật rải xuống các mục tiêu từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc 10 vạn tấn bom đạn (Hà Nội là 4 vạn tấn), với sức công phá bằng 5 quả bom nguyên tử mà Mĩ ném xuống Nhật Bản năm 1945.</p><p></p><p>+ Nhân dân miền Bắc do có tinh thần cảnh giác, tích cực chuẩn bị đã đánh bại chiến tranh phá hoại lần 2 lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”. Miền Bắc bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 B52, 5 F111), 44 giặc lái bị bắt (riêng Hà Nội bắn rơi 30 máy bay, trong đó có 23 máy bay B52, 2 F111).</p><p></p><p>Tính chung trên cả miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay (61 B52 và 10 F111), bắn cháy và bị thương 125 tàu chiến, bắt hàng trăm giặc lái.</p><p></p><p>Trước những thất bại thảm hại, 30/12/1972 chính phủ Mĩ tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và 15/1/1973 thì tuyên bố ngừng hoàn toàn hoạt động chống phá miền Bắc để đi đến ký hiệp định Pari với ta.</p><p> </p><p> </p><p><em><u>* Trên mặt trận sản xuất: </u></em></p><p>Trong điều kiện của cuộc chiến đấu ác liệt lại có kinh nghiệm kết hợp chiến đấu và sản xuất của lần trước, kinh tế miền Bắc một lần nữa chuyển hướng, các hoạt động sản xuất và xây dựng không bị ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội như văn hoá, giáo dục, ytế vẫn được duy trì và phát triển. Nhân dân sơ tán nhưng đời sống vẫn bảo đảm để tiếp tục sản xuất và chiến đấu thắng lợi. </p><p></p><p><strong><em><u>* ý nghĩa: </u></em></strong>Thắng lợi của quân dân miền Bắc góp phần quan trọng buộc Mĩ phải xuống thang chiến tranh chấp nhận ký hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước tạo điều kiện cho ta giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.</p><p></p><p><strong><em><u>* Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho miền Nam, chiến trường Lào, cămpuchia</u></em></strong></p><p>- Mặc dù phải khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại, miền Bắc trong 3 năm (1969 - 1971) đã động viên được hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ trong đó 60% được bổ sung cho chiến trường miền Nam, Lào, Cămpuchia. Khối lượng vật chất trong 3 năm tăng 1,6 lần so với 3 năm trước.</p><p></p><p>- Bước sang năm 1972, mặc dù Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại với mức cao hơn về quy mô, tốc độ, cường độ bắn phá, phong toả các hải cảng, bờ biển, cửa sông nhưng vẫn không ngăn cản được miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương. Kết quả, khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong năm 1972 tăng 1,7 lần so với năm 1971. Năm 1972, miền Bắc động viên 22 vạn thanh niên bổ sung cho miền Nam, Lào, Căm puchia. </p><p></p><p></p><ul> <li data-xf-list-type="ul">Với sự chi viện thường xuyên, đầy đủ của miền Bắc góp một phần quan trọng vào việc đập tan âm mưu của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hoá” chiến tranh và “Đông Dương hoá” chiến tranh.</li> </ul><p></p><p></p><p>Sưu tầm</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 123213, member: 17223"] [B]Câu 4: Những thành tựu của miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm tròn nghĩa vụ hậu phương (1969 - 1973)?[/B] [B][I]a. Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và tiếp tục phát triển kinh tế[/I][/B] - Ngày 1/11/1968, do thất bại nặng nề ở cả 2 miền Nam Bắc, Mĩ buộc phải tuyên bố ngừng hẳn ném bom bắn phá miền Bắc, miền Bắc đã hoà bình. Đảng và Chính phủ ta chủ trương khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, ra sức chi viện cho tiền tuyến. - Thực hiện chủ trương trên, cuối 1969 ba cuộc vận động lớn được mở ra là: tích cực lao động sản xuất; phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ của xã viên ở nông thôn; nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh. Nhân dân miền Bắc đã tích cực đẩy mạnh thi đua học tập, lao động sản xuất, nghiên cứu nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, thực hiện di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh. [I][U]- Thành tựu đạt được thể hiện:[/U][/I] + Trong khôi phục và phát triển kinh tế: Ta chủ trương khôi phục và phát triển trước hết trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải. + Trong nông nghiệp, ta chủ trương khôi phục sản xuất và chăn nuôi. Chăn nuôi được đưa thành ngành chính. Đẩy mạnh việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhờ đó nhiều hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha (có hợp tác xã đạt 6 -7 tấn). Năm 1970, sản lượng lương thực tăng hơn 1968 là 60 vạn tấn. Việc cải tiến quản lý hợp tác xã có bước tiến đáng kể. + Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp được khôi phục nhanh chóng. Một số ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng đều có bước phát triển. Sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với năm 1968. +Hệ thống giao thông được khôi phục, nhất là các tuyến giao thông chiến lược. + Về văn hoá, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân được ổn định. + Quốc phòng được củng cố nhằm sẵn sàng đối phó với âm mưu mới của địch. [LIST] [*]Với nhiều thành tựu đạt được trong công cuộc khôi phục và phát triển về mọi mặt đã tạo ra tiềm lực mới cho miền Bắc tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ và làm tốt vai trò hậu phương cũng như nghĩa vụ quốc tế. [/LIST] [B][I]b. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương[/I][/B] [I][U]* Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ (Từ 16/4/1972 đến 22/10/1972 và 18/12/1972 đến 15/1/1973)[/U][/I] - Để cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” đang trên đà phá sản đồng thời tạo thế mạnh trên bàn đàm phán ở Hội nghị Pari, tập đoàn Níchxơn đã quyết định dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc lần thứ 2. - Từ 6/4/1972, một tuần sau khi quân dân miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược (30/3/1972), Mĩ đã cho không quân, hải quân bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972, Níchxơn chính thức tuyên bố cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần 2. Đến ngày 9/5/1972, Ních xơn tuyên bố tăng cường, mở rộng quy mô đánh phá và phong toả cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc. So với lần 1, cuộc chiến tranh phá hoại lần này lớn hơn hẳn về quy mô, tốc độ, cường độ đánh phá, chúng tập trung sử dụng những loại máy bay hiện đại nhất là B52, F111. + Miền Bắc đã có sự chuẩn bị từ trước nên luôn sẵn sàng chiến đấu, đánh trả địch ngay từ trận đầu. Với cách đánh mưu trí, dũng cảm vận dụng những kinh nghiệm có được, các lực lượng phòng không, không quân và phòng thủ biển đã giành nhiều chiến thắng. Tính trong thời gian đầu (4 đến 10/1972), quân ta bắn rơi 651 máy bay, bắn cháy và bị thương 80 tàu chiến, bắt sống hàng trăm giặc lái. Buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động chống phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra vào ngày 22/10/1972. - Tiếp theo, ngày 14/12/1972, để hỗ trợ cho đấu tranh ngoại giao, ép ta phải chấp nhận những điều khoản do Mĩ đưa ra, Níchxơn (8/11/1972 trúng lại chức tổng thống) đã quyết định cho tập kích bằng không quân chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng. Từ 18/12/1972 đến 29/12/1972, Mĩ sử dụng700 lần máy bay B52, gần 4.000 lần chiếc máy bay chiến thuật rải xuống các mục tiêu từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc 10 vạn tấn bom đạn (Hà Nội là 4 vạn tấn), với sức công phá bằng 5 quả bom nguyên tử mà Mĩ ném xuống Nhật Bản năm 1945. + Nhân dân miền Bắc do có tinh thần cảnh giác, tích cực chuẩn bị đã đánh bại chiến tranh phá hoại lần 2 lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”. Miền Bắc bắn rơi 81 máy bay (trong đó có 34 B52, 5 F111), 44 giặc lái bị bắt (riêng Hà Nội bắn rơi 30 máy bay, trong đó có 23 máy bay B52, 2 F111). Tính chung trên cả miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay (61 B52 và 10 F111), bắn cháy và bị thương 125 tàu chiến, bắt hàng trăm giặc lái. Trước những thất bại thảm hại, 30/12/1972 chính phủ Mĩ tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và 15/1/1973 thì tuyên bố ngừng hoàn toàn hoạt động chống phá miền Bắc để đi đến ký hiệp định Pari với ta. [I][U]* Trên mặt trận sản xuất: [/U][/I] Trong điều kiện của cuộc chiến đấu ác liệt lại có kinh nghiệm kết hợp chiến đấu và sản xuất của lần trước, kinh tế miền Bắc một lần nữa chuyển hướng, các hoạt động sản xuất và xây dựng không bị ngừng trệ, giao thông vận tải bảo đảm thông suốt, các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội như văn hoá, giáo dục, ytế vẫn được duy trì và phát triển. Nhân dân sơ tán nhưng đời sống vẫn bảo đảm để tiếp tục sản xuất và chiến đấu thắng lợi. [B][I][U]* ý nghĩa: [/U][/I][/B]Thắng lợi của quân dân miền Bắc góp phần quan trọng buộc Mĩ phải xuống thang chiến tranh chấp nhận ký hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước tạo điều kiện cho ta giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. [B][I][U]* Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho miền Nam, chiến trường Lào, cămpuchia[/U][/I][/B] - Mặc dù phải khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại, miền Bắc trong 3 năm (1969 - 1971) đã động viên được hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ trong đó 60% được bổ sung cho chiến trường miền Nam, Lào, Cămpuchia. Khối lượng vật chất trong 3 năm tăng 1,6 lần so với 3 năm trước. - Bước sang năm 1972, mặc dù Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại với mức cao hơn về quy mô, tốc độ, cường độ bắn phá, phong toả các hải cảng, bờ biển, cửa sông nhưng vẫn không ngăn cản được miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương. Kết quả, khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong năm 1972 tăng 1,7 lần so với năm 1971. Năm 1972, miền Bắc động viên 22 vạn thanh niên bổ sung cho miền Nam, Lào, Căm puchia. [LIST] [*]Với sự chi viện thường xuyên, đầy đủ của miền Bắc góp một phần quan trọng vào việc đập tan âm mưu của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hoá” chiến tranh và “Đông Dương hoá” chiến tranh. [/LIST] Sưu tầm [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
LỊCH SỬ THPT
Hỏi đáp Lịch sử THPT
Tài liệu ôn thi đại học môn Sử
Top