Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Tài liệu ôn tập Văn 11 học kỳ II
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="bichngoc" data-source="post: 33711" data-attributes="member: 1814"><p>BÀI 7: ĐÂY THÔN VĨ DẠ</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hàn Mặc Tử</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) xuất hiện trên thi đàn văn học đã tạo ra một bất ngờ lớn nhưng sự xuất hiện của Hàn Mặc Tử còn tạo ra sự ngạc nhiên hơn nhiều. Một đời thơ không dài nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một lượng tác phẩm đáng phục và anh được ví như "ngôi sao băng có ánh sáng khác lạ vụt qua bầu trời văn học" và làm người ta nhớ mãi không quên. Hàn Mặc Tử khiến người ta nhớ đến bởi giọng thơ độc đáo mới lạ của một hồn thơ luôn quằn quại đau đớn trong bất hạnh. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực với một thế giới đầy ma quái là một giọng thơ trữ tình đằm thắm. Tất cả thể hiện một tình yêu đời tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như thế. Mười hai câu thơ là một mạch cảm xúc chan chứa tình cảm với xứ Huế thơ mộng, với con người trần thế.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Đây thôn Vĩ Dạ ra đời khi Hàn Mặc Tử đã lâm bệnh nặng, không có cơ hội để trở về với cuộc sống đời thường bởi căn bệnh phong quái ác. Vì vậy bài thơ là sự hoà quyện giữa thực và ảo. Hiện thực là những kỉ niệm về xứ Huế, ảo mộng là những hình ảnh về con người trong mơ tưởng của thi nhân. Theo những người bạn của Hàn Mặc Tử kể lại thì bài thơ được gợi cảm xúc từ tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc gửi cho thi sĩ. Bài thơ là sự quyện hoà của giọng điệu chủ thể trữ tình (thi nhân) và khách thể trữ tình (em).</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>1. Tác giả & tác phẩm</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hàn Mặc Tử (1912 1940) là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới (1932 1945). Ông cũng là nhà thơ có số phận bất hạnh hiếm có. Hàn Mặc Tử là một tài năng độc đáo, một tiếng thơ lạ, thể hiện rõ tấn bi kịch của một con người bất hạnh. Mắc phải căn bệnh phong quái ác, phải sống trong sự cách li khi đang tràn trề nhựa sống đã khiến thơ ông nhiều khi như điên loạn với một thế giới hình ảnh thơ đầy ma quái. Thơ Hàn Mặc Tử vừa gợi cho người ta nỗi sợ hãi, vừa đem đến niềm say mê. Chế Lan Viên từng quả quyết rằng : "Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử. Bên cạnh thơ điên, Hàn Mặc Tử còn có những vần thơ trữ tình rất dịu dàng và duyên dáng. Trong số đó có Đây thôn Vĩ Dạ”.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ đã lâm bệnh nặng và không còn cơ hội để trở lại với cuộc sống đời thường. Bài thơ mang vẻ đẹp huyền ảo và trong sáng. Thực và hư hoà quyện tạo nên vẻ riêng cho cảm xúc. Bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu. Đây cũng là những cố gắng cuối cùng của thi sĩ để níu lại trong mình những giây phút ngọt ngào của cuộc sống trần thế. Cảnh thì đẹp mà tình thì buồn là sự thể hiện đầy đủ nhất tình yêu cuộc sống của thi sĩ bất hạnh mà đầy tài năng này.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>2. Phân tích</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mở đầu bài thơ là khổ thơ viết về thiên nhiên thôn Vĩ với những vẻ đẹp đầy thơ mộng qua dòng hồi tưởng của nhà thơ. Câu thơ đầu có một khả năng gợi mở rất lớn :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Câu thơ là lời mời, lời trách hay sự nuối tiếc ? Có lẽ là cả ba. Đó là lời mời của cô gái nào đó đang trách hờn "anh" chủ thể trữ tình của bài thơ hay câu thơ chính là sự phân thân của nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm trạng nuối tiếc của mình vì không được trở lại thôn Vĩ nữa. Ba câu sau được nối với câu trước bởi nghệ thuật "vắt dòng" của câu hai. Nhìn nắng hàng cau là lời giải thích "sao anh không về để nhìn nắng" còn nắng mới lên tồn tại độc lập. Đây là lời của cô gái hay chàng trai. Lời của cô gái nhưng bắt đầu có sự xuất hiện của nhân vật trữ tình. Cảnh và người thôn Vĩ hiện lên rõ dần. Bắt đầu là hình ảnh hàng cau một loại cây quen thuộc trong những khu nhà vườn xứ Huế. Ta đã từng gặp hình ảnh hàng cau trong Nhớ của Hồng Nguyên :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Đây là hàng cau trong nắng chiều còn ở Đây thôn Vĩ Dạ là hình ảnh hàng cau trong nắng sớm ban mai, giữa những vườn mướt "xanh như ngọc" một hình ảnh trong sáng, thân thuộc đến bất ngờ. Câu thơ như một cái ngước nhìn đầy thú vị. Nắng ban mai êm dịu xen giữa những thân cau thẳng tắp lá còn ướt đẫm sương đêm tạo ra cho cảnh vật một nét đẹp rất thơ mà cũng rất đời thường. Khi nhớ đến thôn Vĩ, nhớ đến xứ Huế mơ mộng người ta không thể không nhắc đến những khu nhà vườn xinh đẹp dưới ánh nắng mai.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Vườn ai mướt quá xanh như ngọc</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Vẻ đẹp của thôn Vĩ đã được cảm nhận bằng nỗi nhớ của nhân vật trữ tình (tác giả) chứ không phải là của cô gái nữa. Nhân vật trữ tình đã hiện ra bằng lời trầm trồ thán phục trước vẻ đẹp của thôn Vĩ. Chữ mướt gợi màu xanh non tơ, mềm mại đầy xuân sắc và màu "xanh như ngọc" là màu xanh như có ánh sáng từ bên trong. Ngọc vừa có màu vừa có ánh, vừa toả mát ánh sáng, vừa rười rượi sắc xanh, mướt quá là trầm trồ chứ không phải là nhận xét "quá mướt". Đọc thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh có nhận xét : "có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng lạ". Nhận xét này thật đúng với câu thơ trên. Có lẽ những giọt sương đêm vẫn còn đọng trên lá và khi ánh bình minh soi xuống đã tạo cho khu vườn vẻ đẹp lung linh huyền ảo. Câu thơ cho thấy Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ, yêu Huế biết bao nhiêu. Ai có thể tin rằng câu thơ đầy sức sống này lại là của một thi sĩ không còn cơ hội trở lại với đời thường. Ta cũng từng gặp cảnh thiên nhiên như thế ở thi sĩ Xuân Diệu khi anh còn trẻ và đang tràn đầy nhựa sống : “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tình yêu Vĩ Dạ của thi nhân bắt nguồn từ tình yêu cuộc sống, từ tình yêu với người con gái xứ Huế. Vì vậy con người xứ Huế trong cảm nhận của nhà thơ trong khung cảnh thật gợi :</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p>Lá trúc che ngang mặt chữ điền</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Câu thơ viết theo hướng cách điệu hoá. Cách điệu từ đường nét "lá trúc che ngang" đến hình ảnh "mặt chữ điền". Mặt chữ điền từng xuất hiện trong những câu ca dao xứ Huế :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mặt em vuông tựa chữ điền,</p><p></p><p></p><p></p><p> Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài.</p><p></p><p></p><p></p><p> Lòng em có đất có trời,</p><p></p><p></p><p></p><p> Có câu nhân nghĩa, có lời thuỷ chung.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Với biện pháp nghệ thuật cách điệu hoá, tác giả đã diễn tả được vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, hoà hợp với thiên nhiên của người Vĩ Dạ. Người Huế vốn rất yêu thiên nhiên, cây cỏ là bạn với họ. Họ chăm sóc cây cối giống như chăm sóc con người. Và những ngôi nhà truyền thống của người Huế bao giờ cũng ẩn sau những mảnh vườn mướt xanh. Bốn câu thơ đã tạo nên một vẻ đẹp lung linh huyền diệu cho thôn Vĩ.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Khổ thơ thứ hai có sự thay đổi về không gian và cảm xúc nhưng vẫn là dòng hồi tưởng của nhân vật trữ tình, kỉ niệm lúc này tràn về mãnh liệt đến nỗi từng bước của chàng trai lan toả, xen đầy cả không gian :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Gió theo lối gió mây đường mây</p><p></p><p></p><p></p><p> Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay</p><p></p><p></p><p></p><p> Mạch cảm xúc không dứt mà tạo một dư âm :</p><p></p><p></p><p></p><p> Thuyền ai đậu bến sông trăng đó</p><p></p><p></p><p></p><p> Có chở trăng về kịp tối nay ?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Có lẽ cấu tứ của đoạn thơ này được bắt nguồn từ nỗi nhớ về dòng sông Hương êm đềm. Cảnh vật trong khổ thơ buồn da diết, vừa hiện thực vừa hư ảo. Nó khiến người đọc như vừa gặp một ảo giác, cụ thể đấy mà cũng thật mơ hồ. Gió mây thường có mối quan hệ gắn bó khăng khít, "gió thổi mây bay", nhưng ở đây gió mây lại theo hai đường, thậm chí ngăn cách nhau quyết liệt :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Gió theo lối gió mây đường mây</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Gió mây ở đây không phải là hiện thực mà nó mang tâm trạng của người trong cảnh chia lìa. Nhớ Vĩ Dạ nhưng không thể trở về nơi ấy được nữa nên buồn và nỗi buồn đã tràn ra cảnh vật :</p><p></p><p></p><p></p><p> Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình, dòng Hương giang hiện lên thật buồn. Nhớ Hương giang lại nhớ đến những đêm trăng huyền diệu. Trăng gợi vẻ đẹp huyền ảo song trăng cũng dễ gợi sự cô đơn, lạnh lẽo :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Trăng sáng, trăng xa trăng rộng quá</p><p></p><p></p><p></p><p> Hai người nhưng chẳng bớt cô đơn.</p><p></p><p></p><p></p><p> (Xuân Diệu)</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Trăng từng xuất hiện rất nhiều trong thơ Hàn Mặc Tử với đủ hình dạng, trạng thái khác nhau :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Trăng nằm sóng xoãi trên cành liễu</p><p></p><p></p><p></p><p> Đợi gió thu về để lả lơi.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Còn ánh trăng ở đây lại là một ánh trăng huyền ảo, một không gian tràn đầy trăng và thơ :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Thuyền ai đậu bến sông trăng đó</p><p></p><p></p><p></p><p> Có chở trăng về kịp tối nay ?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Sáng tạo độc đáo của Hàn Mặc Tử là ở hình ảnh "sông trăng". Trăng tràn đầy không gian từ dòng sông đến cõi mộng. Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của trường phái thơ siêu thực và tượng trưng Pháp, có lẽ câu thơ này là kết quả của những ảnh hưởng đó. Hai câu thơ hay mà không thể lí giải cụ thể. Đó cũng chính là bí mật hấp dẫn của thi ca. Ai có thể chở được ánh trăng. Câu thơ gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và thể hiện tâm hồn thơ lãng mạn của thi nhân.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Đến khổ thơ thứ ba cảnh vật không còn nữa, kỉ niệm trở về ngập hồn nhân vật trữ tình. Và lúc này những rung động của anh đối với Vĩ Dạ đã tập trung ở hình ảnh người con gái "mờ mờ nhân ảnh".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mơ khách đường xa, khách đường xa</p><p></p><p></p><p></p><p> áo em trắng quá nhìn không ra</p><p></p><p></p><p></p><p> ở đây sương khói mờ nhân ảnh</p><p></p><p></p><p></p><p> Ai biết tình ai có đậm đà ?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> "ở đây" là ở đâu ? Dù ở đâu thì cũng đã bị bao phủ bởi sương khói của thời gian. Ai là một đại từ phiếm chỉ. Một đại từ phiếm chỉ được sử dụng hai lần trong một câu thơ, gợi lên bao ý nghĩa. Câu thơ tha thiết một khát khao, một ước nguyện muốn có người hiểu được tâm sự của mình. Đồng thời thể hiện tâm trạng hoài nghi. Trong bài thơ có tới bốn lần tác giả sử dụng đại từ ai, và "anh" và "em" đã hoà nhập trong từ ai ấy, hoà nhập trong tâm tưởng của thi nhân. Câu thơ cuối cùng thoáng chút hoài nghi ấy xuất phát từ lòng khát khao sống, khát khao giao tiếp với cuộc đời ; xuất phát từ niềm khao khát thuỷ chung. Vượt lên nỗi đau riêng, thơ Hàn Mặc Tử nói lên tâm trạng chung của bao lứa đôi xa cách…</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> "Thơ đi từ cái thực tới cái ảo ảnh, từ ảo ảnh đi tới cái huyền diệu, từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là thế giới mơ", đó là lời của Hàn Mặc Tử về thơ và có lẽ là về chính Đây thôn Vĩ Dạ.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỷ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu của một con người. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh phong cảnh thật đẹp về thiên nhiên xứ Huế, từ đó thể hiện tình yêu và khát vọng sống mãnh liệt</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hình ảnh độc đáo giàu sức gợi, giàu giá trị thẩm mĩ, ngôn ngữ ngữ cực tả luôn trong trong sáng, súc tích</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Cách sử dụng xuyên suốt những câu hỏi tu từ đã tạo nên mạch cảm xúc của toàn baì</p><p></p><p></p><p></p><p> Ba khổ thơ không được sắp xếp theo tuyến tính của thời gian và tính duy nhất của ko gian, có bước nhảy cảm xúc giữa các khổ thơ tạo nên mạch liên kết đứt-nối độc đáo cho toàn bài</p><p></p><p></p><p></p><p> Nhịp điệu của bài thơ bị chi phối bởi cảm xúc ẩn chứa ở mỗi khổ thơ: có khi là nhịp điệu tha thiết đắm say, có khi là nhịp điẹu chậm rãi buồn tẻ./.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>THAM KHẢO </p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> ĐÂY THÔN VĨ DẠ – Hàn Mặc Tử</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Căn cứ vào bản thân văn bản thơ, ta thấy nổi lên hàng đầu là hình ảnh Huế đẹp và thơ. Bài thơ gồm 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như được dành để nói về một phương diện của Huế.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> 1/ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về thôn Vĩ, nói rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây. Những tàu cao con bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là câu thơ không có gì đặc sắc tân kỳ lắm về mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo – Những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở đây được nâng lên theo hướng cách điệu hoá. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách điệu hóa thì không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất phát từ sự thực: thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng, phúc hậu. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> 2/ Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỷ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thể không nhớ dòng sông Hương. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi bến vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Gió theo lối gió mây đường mây </p><p></p><p></p><p></p><p> Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuận. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỷ niệm nên cảnh cũng chuyển theo lôgich của kỷ niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng – Hàn Mặc Tử cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí hư ảo, như là trong mộng: </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Thuyền ai đậu bến sông trăng gió </p><p></p><p></p><p></p><p> Có chở trăng về kịp tối nay?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là “sông trăng” và thuyền mới có thể “chở trăng về” như một du khách trên sông Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng không gì mới, nhưng “sông trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> 3/ Khổ thứ ba: Người xưa nơi thôn Vĩ. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này (Huế đẹp và thơ của Nam Trân. Dửng dưng của Tố Hữu...) </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực: </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mơ khách đường xa khách đường xa </p><p></p><p></p><p></p><p> Áo em trắng quá nhìn không ra</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mờ ảo vì “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng có thực vì “áo em trắng quá”. Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa, không chỉ là khoảng cách không gian mà còn là khoảng cách của thời gian, và mối tình cũng xa vời – vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà “ai biết tình ai có đậm đà?” </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> “Ai” là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là “sương khói” của không gian, của thời gian, của mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa. </p><p></p><p></p><p></p><p> Nhưng khổ thơ không chỉ minh hoạ cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỷ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huế thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Lời bình </p><p></p><p></p><p></p><p> Trong tập thơ mang tựa đề Thơ điên, có hai bài ít điên nhất có lẽ là Mùa xuân chín, và Đây thôn Vĩ Giạ. Cả hai bài đều là những bức tranh xóm thôn, vường tược quê làng. Đọc nó, ta không thể không nghĩ đến Nguyễn Bính vì thơ Tử cũng trẻ trung, tinh tế như kiểu:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nhà nàng ở cạnh nhà tôi</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Thơ Tử có cái xanh rờn của sự sống có thật, sự sống đáng yêu. Còn cái đáng yêu hơn cái giọng điệu ngọt ngào mời mọc:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Sao anh không về chơi thôn Vĩ?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tục ngữ có câu “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. Mâm cỗ có giàu, nhưng lời chào là sang, bởi đó là cái tình, tình người, tình quê, và biết đâu chẳng là mối tình non nước. Hàm nghĩa của câu thơ không tự đóng khung trong một biên độ hẹp nào. Tuy vậy nếu đi quá xa, thêm nữa, lại khăng khang áp đặt cái ý chủ quan, cách hiểu chủ quan thì điều đấy khong những không có cơ sở, mà còn bất lợi cho thơ. Hãy cứ để nó ngân nga trong cái khoảng không là tâm tưởng của người đọc để mỗi người yêu thơ tìm được một hạnh phúc cho riêng mình. Trở lại với cái vị thế ấy, ta hiểu vì sao câu thơ như một câu nói thường? Sức nặng ở ngoài câu chữ đơn sơ là một cái tình đằm thắm. Nó không cần hoa mỹ, cầu kì, một cách nói lên gân cao giọng, là vì nó được đản bảo bằng vàng và những câu tiếp theo. Dường như có một cáI thôn Vĩ mà chỉ cần một lời gọi ở đầu môi, tự nó hiện lên như một khối thuỷ tinh trong suốt. Cho nên đặt câu thơ đầu trong văn cảnh, ta mới hiểu được cáI bình dị sâu sắc của một sự đơn sơ. Nó giống như một thứ cánh cửa vườn lòng hé mở, mà dịu dàng, mà tha thiết biết bao! Cả một câu bảy chữ thì đã có đến sáu chữ đầu cấu tạo bởi thanh bằng. Một phong cách Huế tự nó định hành trong một chất giọng êm ru. Thì ra đằng sau cáI khuôn mẫu thơ Đường là một hồn thi nhân rất trẻ, trẻ cả lời, cả ý như một chiếc nem Huế nhỏ bé, khiêm nhường thơm thảo khó quên. Ấy là chưa nói đến đại từ nhân xưng mà lời mời hướng tới. “Sao anh…”, anh là đối tượng nghe, còn em mới là người nói. Cả người nói và người nghe đã tắm vào một không khí trữ tình đáng yêu mà thân mật lạ lùng. Sự cởi mở tâm tình trong quan hệ giao tiếp trên đây có khả năng, có tính năng làm xôn xao một tiềm thức vốn mơ hồ đã ngay lập tức trở thành cụ thể.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> CáI cụ thể ấy cũng chẳng có gì nhiều. Cứ thử nhẩm đếm mà xem: một hàng cau gần gũi, một vườn ai thấp thoáng xa xa, và cũng thấp thoáng xa xa một gương mặt không rõ là ai lẫn trong tre trúc. Cảnh trí có vậy, nghĩa là hết sức đơn sơ nhưng lại nặg lòng quê kiểng. Bức tranh quê sở dĩ từng thức dậy để phô bầy cái vẻ đẹp tự thân, để trở thành hoàn mỹ ấy là do một điểm nhìn hội hoạ. Chọn một thời điểm đặc biệt trong ngày, khi cái nắng mới lên mà bấm máy thì còn gì bằng. Chọn cái trẻ của thời gian phải là người nghệ sĩ có tâm hồn rất trẻ. Cũng là cảnh làng quê ấy, có người chọn buổi trưa, có người lấy hoàng hôn làm bối cảnh. Mà không phải không đẹp. Ví như thơ Bà huyện Thanh Quan chẳng hạn, nhưng là cái đẹp khác, như sự u hoài bảng lảng giữa mênh mông. Không dùng một không gian mênh mông như thế làm nền, cách nhìn của Hàm Mạc Tử ở đây là một cách nhìn cận cảnh, cái nhìn qua ánh nắng đầu tiên. Vì vậy câu thơ đầu tiên tả cảnh, tả hàng cau đã có một nhịp đập khác thường. Nó hồi hộp như phản xạ tự nhiên của con người trước cáI đẹp không ngờ lại hiện ra trước mặt:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Câu thơ sở dĩ nên thơ vì chất nhạc trong hồn. Vẫn chỉ là cáI nắng bình thường ngày nào chẳng có, nhưng nhà thơ như nhìn thấy nó lần đầu. Không biết có phải nắng đó hay không? Là mơ hay là thực? Dường như thi sĩ không còn tin vào mắt mình. Câu thơ vì vậy vừa như đối thoại (với người không có mặt) lại vừa như tự thoại. Nó mang lớp nghĩa hai tầng vừa hướng ngoại lại vừa hướng nội. Cái nắng đầu tiên trong ngày và trong đời có một sức sống riêng, một linh hồn riêng. Nó làm cho cái vùng ảnh hưởng mênh mông của nó không còn ở thế tĩnh mà sống động hẳn lên. Không phải lần đầu nhà thơ tả nắng. Cái nắng lần đầu ta đã một lần không quên trong Mùa xuân chín. Nhưng cái đẹp trong thơ có phần day dứt, có một cái gì đó không yên. Đọc câu “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, ta gặp một không khí rất xưa trong hoài niệm. Và cũng từ hoài niệm, Lưu Trọng Lư đã có thơ hay:</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Lúc người còn sống, tôi lên mười</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Áo đỏ người đưa trước giậu phơi</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> (Nắng mới)</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Cả hai đều hướng về phía sau, còn Đây thôn Vĩ Giạ, cái nắng đầu tiên hướng về phía trước. Hai chữ nắng trong một câu thơ tạo nên một tiết tấu khác thường. Có một cái gì như náo nức, cái e ấp của con trẻ lần đầu mặc chiếc áo mới trong cái âm thanh sột soạt, không tránh khỏi cái rạo rực, ngây thơ. Sức hút ở đây là nắng và người chịu tác động của sức hút ấy là nhà thơ. Hàm Mạc Tử cũng trở thành một thứ con trẻ trong hồn, đồng tâm trạng với Lưu Trọng Lư trong bài thơ vừa dẫn. Mặc dù vậy, hai nỗi niềm có khác. Nếu có nắg hồng hào trong thơ của tác giả Tiếng thu gắn liền với áo đỏ (Áo đỏ người đưa trước giậu phơi) thì thơ Tử lại mở ra một màu xanh mát mắt:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Vườn ai mướt quá xanh như ngọc</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Thực ra, mướt và xanh là hai khái niệm cùng một gam màu tương tự như rờn, như biếc. Người ta có thể nói xanh biếc, xanh non, và cũng có thể viết trong thơ: xanh mướt. Cái tài sự tinh tế của Hàm Mạc Tử trong thơ chính là ở chỗ không dùng hai từ ấy. Bởi xanh mướt (cũng hội đủ hai yếu tố mướt và xanh) thì yếu ớt quá, đẹp nhưng sinh khí không nhiều, và thay thế cho tình yêu là lòng thương, ái ngại. Dùng mướt quá, rõ ràng khoẻ hơn, sức sống dồi dào hơn, và cả ấm áp nữa. Do vậy mà từ xanh (xanh như ngọc) tự nó lại gieo một ấn tượng mới, không giống với mướt, nó có một vị trí riêng trong cảm nhận. Một trùng điệp màu xanh nhưng không lặp lại đem đến sự hào hứng cho kẻ thi nhân khi đứng trước một bảo tàng nghệ thuật của thiên nhiên bí ẩn. CáI hồi hộp của câu thơ tả cau đã trở thành tiếng reo đầy sung sướng như có ma lực ở câu nói về vườn ai. Cau chắc trước sân nhà thì vườn mới có thể vườn ai. Một từ “ai” buông bắt, mơ hồ hơn. Độ gần xa không còn đồng nhất. Vùng không gian mở ra cùng một lần với vùng tâm tưởng. Cảnh đã là máu thịt của hồn. Hồn đã quấn quyện, đã hài hoà trong cảnh. Làm sao còn có thể phân chia cái cơ thể nghệ thuật toàn bích này đâu là hình thức, đâu là nội dung? Cũng đừng tách bạch cái gương mặt thấp thoáng trong “vườn ai” kia ra thành một người cụ thể nào. Bởi lẽ, nó cũng chỉ là cái chi tiết thoáng qua, một đường nét nằm trong tổng thể. Và bao bọc chung là sự cân đối hài hoà, có thể trong mối tương giao giữa cái mềm mại và khoẻ khoắn. Đơn giản vậy thôi, nếu không rất dễ chủ quan suy diễn.</p><p></p><p></p><p></p><p> Toàn cảnh ở bức tranh đầu là cuộc đời mang hơi thở thi nhân: đó là lòng ham sống. Vì nếu không ham sống, không yêu đời, làm sao có thể nhào nặn được một khung cảnh bình dị mà say người thế kia. Nhưng đặt nó vào toàn bài thì dường như là đối cực phía bên kia của một nghịch lí. ở góc nhìn này, khổ thơ ấy mang nghĩa tượng trưng. Cái đẹp, cái thực của cuộc đời tưởng như nằm sẵn trong vòng tay của một tâm hồn yêu nó, nhưng lại không phảI như vậy. Nó với nhà thơ không là một đôI bạn đồng hành. Càng hướng đến nó, tưởng chừng tiếp cận được nó, nó lại càng cứ xa hơn:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Gió theo lối gió, mây đường mây</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p> Bằng một nhạc điệu khác thường, lạnh lẽo, vô tình đến nghiệt ngã, thi nhân diễn tả một tâm thế chơi vơi. Thì ra hạnh phúc mà trời hé lộ ở khổ thơ đầu chỉ là một tín hiệu giả. Nó rạng rỡ, mơ màng. Nó đã là ảo ảnh trong khi với nhà thơ lại là một nhu cầu rất thực. Càng gắn bó với cuộc đời, cuộc đời càng ngoảnh mặt quay lưng. Câu thơ có gió có mây, nhưng rời rạc, chia lìa. Nước có dòng mà không chảy. Hoa bắp thì khẽ khàng nhạt tẻ, vô duyên. So với khổ thơ đầu, cảnh ở đây đã như người bước hụt. Cái vồ vập đã nhanh chóng đổi chiều. Nhà thơ không khỏi ngơ ngác, xót xa. Nắng hình như đã tắt, trời đã sang chiều, vì vậy mới có sông trăng:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Thuyền ai đậu bến sông trăng đó</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Có chở trăng về kịp tối nay?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hồn thơ rất đẹp khi nói đến gió, đến trăng. Trăng như một vương quốc bá quyền của Tử. Vì vậy tắm mình vào đó, vào cái ánh trời đêm bàng bạc, dòng nước vừa buồn thiu là vậy đã biến thành sông trăng như có một phép nhiệm mầu của Chúa. Nhịp thơ như một nhịp cầu, một hi vọng mở ra. Trái tim đau đớn vì va đập vào cuộc đời đã có một cơ hội hồi sinh sau vết thương đau đớn. Nhưng lấy tiêu chí của cái thực để tính cấp độ của nắng và trăng thì nắng là cái có thể nhìn được bằng mắt thường, còn trăng chỉ là cảm nhận được. Phải chăng chính vì vậy mà giọng thơ mới gấp gáp, thiết tha. Thuyền liệu có kịp về bến, trăng có định lừa người? Hạnh phúc mong manh hay là một ảo ảnh, dù có mong manh nhưng còn được hy vọng thì vẫn còn là cái cớ để nhà bấu víu, bám vào để mà tồn tại. Tối nay là tối nào? ý thơ mặc dù không rõ, nhưng trong tâm tưởng của thi nhân, nó phải là cái đêm ngà ngọc thiên đường như một lần Xuân Diệu đã thiết tha: “Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời”.</p><p></p><p></p><p></p><p> Kết thúc bài thơ là con sóng chập chờn giữa mơ với thực ấy:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mơ khách đường xa, khách đường xa</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p> Vẫn là tiết tấu sóng đôi nhưng vừa tiến lại vừa lui như một quy trình trớ trêu của hình tìm bóng. Người khách đường xa mơ hồ ấy chỉ thấp thoáng mơ màng “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Lại một sáng tạo nữa của Hàm Mạc Tử. Màu trắng và màu trăng như một sự rượt đuổi không bao giờ tới đích. Hình ảnh áo trắng trong thơ Hàm Mạc Tử không giống cách gợi khơi của Huy Cận:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hôm xưa em đến, mắt như lòng</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nở bùng ánh sáng, em đi đến</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Áo trắng của Huy Cận nếu là thực thể thì ở Tử nó biến thành ảo giác mất rồi. Chính là ảo giác mà hạnh phúc kia càng lấp lánh bao nhiêu, tấm lòng nhà càng quặn đau chừng ấy. “Ai biết tình ai có mặn mà” là một khát khoát biểu trưng mở rộng. Ý nghĩa nội sinh của cặp từ “ai biết tình ai” vừa gần gũi vừa xa vời như khoảng giữa các vì sao. Sự trống vắng trong một tâm hồn rất sợ cô độc lại đang ở vào tình thế cô đơn là cái mạch chính của toàn bài, tạo ra cái cầu từ độc đáo, đầy hình tượng của những phút xuất thần được lặp lại với một mức độ cao và dường như là khó hiểu. Nhưng, hướng về phía nhân bản, phía cuộc đời từ cái tôi bản ngã, đó mới là cái hạt nhân bền vững, cái gạch nối giữa người làm thơ và người đọc thơ./.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> BÀI 8: TƯƠNG TƯ</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nguyễn Bính</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư là câu chuyện muôn thuở của nhân loại. Ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ mà đã từng điêu đứng vì tương tư :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư không biết cái làm sao,</p><p></p><p></p><p></p><p> Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào.</p><p></p><p></p><p></p><p> Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,</p><p></p><p></p><p></p><p> Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.</p><p></p><p></p><p></p><p> Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,</p><p></p><p></p><p></p><p> Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Và thi sĩ đa tình, tài tử như Tản Đà cũng từng thể hiện trạng thái nhớ nhung da diết này :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Quái lạ ! Làm sao cứ nhớ nhau</p><p></p><p></p><p></p><p> Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu</p><p></p><p></p><p></p><p> Bốn phương mây nước, người đôi ngả</p><p></p><p></p><p></p><p> Hai chữ tương tư, một gánh sầu.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư thường gắn với sầu bởi người ta thường rơi vào trạng thái tương tư khi tình yêu không được đến từ hai phía hoặc không có cơ hội để nói ra.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê nhất của làng thơ mới cũng viết về tương tư. Nhưng qua việc diễn tả nỗi tương tư của một chàng trai, nhà thơ lại thể hiện tình cảm lớn hơn tình yêu đôi lứa. Đó là tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hoá Việt Nam .</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>1. Tác giả & tác phẩm</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo tại làng Thiện Vịnh (nay thuộc xã Cộng Hoà), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hoá dân gian. Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Nguyễn Bính đã đóng góp cho thơ mới một giọng điệu riêng, đậm hồn quê.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ Tương tư rút trong tập Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính. Qua chuyện tương tư, bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của nhà thơ với quê hương, ở cái hồn quê mộc mạc thấm đẫm trong thi liệu, cảm xúc, ở cách thể hiện đậm phong vị dân gian. Âm điệu, ngôn ngữ, hình ảnh, thể thơ đều rất gần gũi với ca dao. Bài thơ có thể chia làm ba đoạn :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> - Đoạn 1 : Nói chuyện tương tư, nhưng là tương tư từ một phía, giọng điệu có vẻ hờn giận trách móc. Thực ra lời trách thể hiện tình cảm tha thiết của người tương tư. Trong lời trách có xuất hiện những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> - Đoạn 2 : Nhấn mạnh nỗi tương tư và sự chờ đợi, mong ngóng của người tương tư. Trong sự mong ngóng ấy có dự cảm về sự chông chênh của mối tình. Chú ý cách sử dụng cặp hình ảnh "hoa khuê các - bướm giang hồ".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> - Đoạn 3 : Mượn chuyện trầu cau để nói chuyện đôi lứa. Ước mong và cũng là lời thổ lộ tình cảm rất dễ thương. Câu hỏi kết thúc đau đáu một niềm mong ước, nó làm tăng thêm sự da diết của tâm trạng và sự nồng nàn của cảm xúc.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>2. Phân tích</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Cảm xúc bao trùm và nối kết các phần của bài thơ là nỗi nhớ nhung không nguôi của nhân vật trữ tình chàng trai. Không gian của nỗi tương tư ấy là không gian làng quê. Vì thế tâm trạng tương tư cũng được thể hiện theo kiểu rất thôn quê. Nó cụ thể chứ không mông lung đến mức như chàng trai thị thành Xuân Diệu :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Sương nương theo trăng ngừng lưng trời</p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…</p><p></p><p></p><p></p><p> (Nhị hồ)</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nhân vật trữ tình trong Tương tư của Nguyễn Bính thì khác. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,</p><p></p><p></p><p></p><p> Một người chín nhớ mười mong một người.</p><p></p><p></p><p></p><p> Gió mưa là bệnh của giời,</p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Không phải là anh nhớ em hay tôi nhớ nàng mà là “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Cách nói này vừa khiến cho câu thơ mang phong vị dân gian vừa có tính hàm súc. Chàng trai thôn Đoài nhớ cô gái thôn Đông, đó là mối tương tư của chàng trai nơi thôn quê. Chàng ở nhà mình nhưng lòng hướng sang phía cô gái. Và câu thơ còn gợi một liên tưởng rộng hơn. Dường như nỗi nhớ của chàng trai đã tràn ra cả không gian. Nỗi nhớ ấy da diết lắm. Chàng còn dùng cả thành ngữ chín nhớ mười mong để diễn tả nỗi nhớ của mình. Và cũng chẳng e dè, thẹn thùng gì nữa. Nỗi nhớ da diết khiến chàng trai phải thốt lên lời “tôi yêu nàng”. Người ta thường dùng tương tư để chỉ trạng thái tình cảm nhớ nhung của những người yêu đơn phương. Vì yêu mà không dám nói ra với người mình yêu nên nỗi nhớ càng trĩu nặng và tình cảm càng mãnh liệt. Chàng trai tương tư trong bài thơ này cũng có một nỗi nhớ da diết. Chàng trai cũng xác nhận một điều rằng, yêu thì tương tư là lẽ thường, cũng như trời đất phải có gió có mưa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Từ nhớ thương đến mong ngóng và hờn giận :</p><p></p><p></p><p></p><p> Hai thôn chung lại một làng,</p><p></p><p></p><p></p><p> Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?</p><p></p><p></p><p></p><p> Ngày qua ngày lại qua ngày,</p><p></p><p></p><p></p><p> Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Lời hờn giận có vẻ hơi vô lí. Lẽ ra chàng phải sang chứ lại trách cô gái không sang. Chàng dùng cách gọi bên ấy và bên này để chỉ “đối phương” và mình. Trách giận để rồi lại chìm vào nỗi nhớ. Chàng ngồi đếm nỗi nhớ và đếm thời gian để đắm mình trong nỗi niềm tương tư. Ngày lại qua ngày gợi cảm giác thời gian trôi đi dài vô tận. Càng yêu thương thì càng hờn giận. Nỗi tương tư cùng lời trách giận cứ da diết và sâu đậm hơn theo dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bảo rằng cách trở đò giang,</p><p></p><p></p><p></p><p> Không sang là chẳng đường sang đã đành.</p><p></p><p></p><p></p><p> Nhưng đây cách một đầu đình,</p><p></p><p></p><p></p><p> Có xa xôi ấy mà tình xa xôi...</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Khi diễn tả nỗi nhớ của nhân vật trữ tình nhà thơ đã dùng những hình ảnh rất gần gũi và quen thuộc với văn hoá làng của người Việt. Con đò, mái đình đã làm cho câu thơ mang đậm phong vị dân gian. Những hình ảnh này đã tạo nên không gian làng quê yên bình, lãng mạn rất thích hợp để chàng trai giãi bày tâm trạng tương tư. Nhịp thơ lục bát da diết “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi” đã thể hiện rất tinh tế trạng thái tâm lí của kẻ đang yêu mà chưa nhận được lời đáp lại. Nỗi nhớ thương không người giãi bày đã làm cho nhân vật trữ tình càng chìm sâu trong nỗi tương tư. Đại từ phiếm chỉ ai lặp lại hai lần trong một câu thơ càng làm tăng nỗi niềm tha thiết của kẻ đa tình. Theo lẽ thường tình càng thương nhớ càng đau lòng. Và khi yêu say đắm mà không được đáp lại thường rơi vào tâm trạng bi quan, tuyệt vọng. Những mối tình thôn quê trong thơ Nguyễn Bính đẹp, tha thiết nhưng hay buồn. Mối tình của chàng trai trong bài thơ này cũng vậy :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư thức mấy đêm rồi,</p><p></p><p></p><p></p><p> Biết cho ai, hỏi ai người biết cho !</p><p></p><p></p><p></p><p> Bao giờ bến mới gặp đò ?</p><p></p><p></p><p></p><p> Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Những hình ảnh “bến - đò” là những hình ảnh có tính chất truyền thống để chỉ người nam và người nữ. Hình ảnh “hoa khuê các - bướm giang hồ” lại rất đặc trưng cho phong cách các nhà thơ mới. Nó thể hiện tâm trạng lo lắng, bất an của nhân vật trữ tình bởi sự chờ đợi mòn mỏi với nỗi tương tư trĩu nặng trong lòng. Cặp hình ảnh này thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái nét mới và nét lãng mạn trong phong cách thơ Nguyễn Bính.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Khổ thơ cuối cùng mang hình thức của một bài ca dao. Chàng trai trong ca dao thường mượn những cái cớ rất duyên dáng để hoặc làm quen hoặc tỏ tình với đối tượng của mình như quên áo, mời trầu, hỏi thăm. Chàng trai trong Tương tư của Nguyễn Bính cũng mượn chuyện trầu cau để giãi bày tâm tư, để tỏ tình :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nhà em có một giàn giầu,</p><p></p><p></p><p></p><p> Nhà anh có một hàng cau liên phòng.</p><p></p><p></p><p></p><p> Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,</p><p></p><p></p><p></p><p> Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Câu hỏi cũng là câu trả lời. Nguyễn Bính đã kế thừa cái thông minh, hóm hỉnh, duyên dáng và rất đáng yêu của ca dao để tạo nên một hình tượng nhân vật với mối tương tư chân thành.</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư đã chứng minh rằng Nguyễn Bính là nhà thơ của hồn quê Việt Nam. Với những bài thơ như Tương tư, nhà thơ không chỉ mang đến cho thơ mới một giọng thơ ngọt ngào phong vị dân gian, đậm đà văn hoá dân tộc mà còn lưu giữ cho thế hệ sau những nét đẹp văn hoá truyền thống.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tương tư là một bài thơ hay viết về tình yêu- một thứ tình yêu trong sáng, đơn phương và mạnh mẽ. Hồn quê Vi ệ t Nam thấm đượm trong từng dòng thơ, thể hiện tình cảm chân thành của nhà thơ đối với những nét đẹp văn hoá dân gian</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Cách sử dụng nghệ thuật diễn tả thời gian và không gian trong bài thơ gắn liền với tâm trạng, mòn mỏi, khắc khoải</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nghệ thuật tạo hình ảnh độc đáo và các thủ pháp nghệ thuật nhuần nhuyễn, chất liệu ngôn từ chân quê, đậm chất dân gian./.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>THAM KHẢO </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> 1. Trong cách diễn đạt tình cảm của ca dao, dân ca, do bối cảnh giao tiếp và diễn xướng trực tiếp nên nếu các biểu hiện tâm trạng trữ tình luôn được bộc bạch một cách hết sức cụ thể, hồn nhiên thì chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình lại thường có tính chất phiếm chỉ, không xác định :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Khăn thương nhớ ai</p><p></p><p></p><p></p><p> Khăn rơi xuống đất,</p><p></p><p></p><p></p><p> Khăn thương nhớ ai</p><p></p><p></p><p></p><p> Khăn vắt lên vai.</p><p></p><p></p><p></p><p> Đèn thương nhớ ai</p><p></p><p></p><p></p><p> Mà đèn không tắt,</p><p></p><p></p><p></p><p> Mắt thương nhớ ai</p><p></p><p></p><p></p><p> Mà mắt ngủ không yên...</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Trong bài thơ của Nguyễn Bính cũng vậy, một chàng trai thôn Đoài mong nhớ một cô gái thôn Đông, nhưng vì chỉ yêu đơn phương thôi nên anh dùng lối nói ỡm ờ, vòng vo, bóng gió xa xôi của người nhà quê : "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông - Một người chín nhớ mười mong một người...". Một cái làng có hai thôn : "Hai thôn chung lại một làng", một ở bên phía đông - thôn Đông, còn một ở phía tây - thôn Đoài. Những cách gọi tên địa danh dân dã ấy khá phổ biến ở khắp mọi vùng quê đồng bằng Bắc Bộ nên chúng vừa cụ thể lại cũng vừa không xác định. "Một người chín nhớ mười mong một người" : hai chữ một người trong cùng một dòng thơ nhưng được dùng để chỉ hai đối tượng, hai nhân vật khác nhau : chàng trai thôn Đoài, và cô gái thôn Đông, điều ấy, những người trong cuộc hiểu rõ hơn ai hết nhưng khách quan thì vẫn chưa có gì là cụ thể. Vì các nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn giữ được cái vỏ ngoài có tính chất chung chung, không xác định như thế nên chàng trai mới có thể thoải mái bộc bạch nỗi lòng "chín nhớ mười mong" của mình : "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng", có thể làm như hai người đã thân mật, gần gũi từ lâu để mà hờn mát, trách yêu với người con gái trong lòng : "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?", "Bảo rằng cách trở đò giang - Không sang là chẳng đường sang đã đành - Nhưng đây cách một đầu đình..." , mạnh dạn ngỏ ước muốn được chung tình : "Bao giờ bến mới gặp đò - Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau" , thậm chí còn bóng gió xa xôi đề cập đến chuyện trầu cau, cưới hỏi : "Nhà anh có một giàn giầu - Nhà em có một hàng cau liên phòng - Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?" v.v... Cách dùng những đại từ chỉ người đây, đấy, bên ấy, bên này thay thế cho các nhân vật giao tiếp và cách nói trống chủ ngữ của những câu thơ trên đây là một trong những đặc trưng nổi bật của lối nói vòng vo, ỡm ờ, bóng gió xa xôi trong ca dao, dân ca truyền thống đã được Nguyễn Bính vận dụng rất thành công, tạo cho bài thơ một giọng điệu, một dáng vẻ riêng khá độc đáo.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Các biểu hiện tâm trạng tương tư trong bài thơ cũng được diễn tả một cách tinh tế. Trước hết là sự chờ mong mòn mỏi của chủ thể trữ tình :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Ngày qua ngày lại qua ngày,</p><p></p><p></p><p></p><p> Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tâm trạng sốt ruột vì chờ mong mòn mỏi ấy không tách rời những cảm nhận tinh tế về sự thay đổi của không gian, thời gian. "Ngày qua ngày lại qua ngày" - một câu thơ với những từ ngữ bình thường và lối nói tưởng như rất giản dị nhưng lại có khả năng diễn tả khá độc đáo về cảm giác của con người mang bệnh tương tư trước sự lặp đi lặp lại từng chuỗi ngày vô vị dài lê thê, chậm chạp trong sự chờ mong khắc khoải. Một câu thơ mà chữ ngày được nhắc tới ba lần, nhấn mạnh cảm xúc về khái niệm đơn vị thời gian như thể được đếm từng ngày. Nhịp 2/2/2 của câu sáu trong thơ lục bát truyền thống đã được ngắt thành nhịp 3/3 : "Ngày qua ngày/ lại qua ngày" chia ý nghĩa câu thơ thành hai vế với nội dung song trùng, ý của vế sau lặp lại vế trước và sự nhấn mạnh chữ lại gợi tả nỗi chán ngán trong lòng kẻ đa tình tương tư trước dòng thời gian vô tình, đơn điệu cứ chậm chạp trôi qua... Cảm giác về thời gian nói trên còn được diễn tả một cách hết sức sinh động thông qua những biến đổi màu sắc của những sự vật không gian trong câu tám : "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng". Thời gian hiện lên qua sự chuyển màu của cây lá : lá màu xanh đã chuyển thành lá màu vàng. Cùng với chuỗi ngày chờ đợi dài đằng đẵng chậm chạp qua đi, nhưng người thương vẫn chưa thấy tới, cho dù chẳng có xa xôi cách trở gì. Chữ nhuộm là một động từ ngoại động, khiến cho sự chuyển màu của cây lá dường như không phải là sự vận động, phát triển nội tại của thực vật mà như thể là do sự tác động của thời gian và tâm trạng con người thấm vào sắc màu của cây lá. Và nỗi lòng tương tư héo hon, mòn mỏi của con người cũng đã nhuộm màu lá xanh thành ra màu héo úa. Vậy là thời gian, không gian và tâm trạng của con người tương tư đã có một mối quan hệ, mối tương giao thật là kì diệu. Tương tư mỏi mòn làm cho thời gian kéo dài lê thê, chậm chạp hơn ; tương tư cũng nhuộm màu cho cây lá trở nên vàng vọt, úa héo hơn...</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> (Nguyễn Trọng Khánh, Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường</p><p></p><p></p><p></p><p> từ góc độ ngôn ngữ , NXB Giáo dục, 2006)</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> BÀI 9: CHIỀU TỐI</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> (Mộ)</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hồ Chí Minh</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Chiều tối là bài thơ tiêu biểu rút trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại một cách chân thực cảnh người tù sau một ngày chuyển lao mệt nhọc. Ở đó người đọc nhận ra thế giới tâm hồn người tù Hồ Chí Minh là tình yêu thiên nhiên cuộc sống tha thiết, là khao khát ý chí và bản lĩnh người cách mạng. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh : vừa cổ điển, vừa hiện đại.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Nhật kí trong tù là tập thơ có giá trị văn học rất lớn của Hồ Chí Minh, được viết bằng chữ Hán nên có rất nhiều điểm gần với thơ Đường. Với những bài Đường luật xinh xắn về hình thức, nồng nàn về cảm xúc,... tác phẩm thể hiện tài năng, tấm lòng, tâm huyết và nhân cách Hồ Chí Minh với cả hai tư cách nghệ sĩ và chiến sĩ.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ Chiều tối đã thể hiện đầy đủ và khá điển hình đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ cuốn nhật kí bằng thơ của Hồ Chí Minh, đó là vẻ đẹp cổ điển về hình thức và hiện đại về cảm hứng, toát lên phong thái ung dung tự tại của một người Cộng sản. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, Người cũng phát hiện được những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý của cuộc sống.</p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ tả cảnh chiều tối ở một sơn thôn. Bức tranh phong cảnh ấy được bố cục làm hai phần :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hai câu đầu : tả cảnh vật trong buổi chiều tối. Tất nhiên đây là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù, vì vậy nó là cảnh thật nhưng có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất hoạ, vừa có khả năng gợi cảm. Sự mệt mỏi của cánh chim, sự cô đơn của đám mây chiều là tâm trạng của người tù đang tha phương.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hai câu sau : bức tranh bừng sáng bởi "lô dĩ hồng". Bản lĩnh cứng cáp đã giúp người tù nhanh chóng thoát khỏi cô đơn và mệt mỏi để phát hiện ra sức sống. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ thể hiện tài năng sáng tạo thơ "thi trung hữu hoạ" của Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện bản lĩnh của người cộng sản.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên mở ra những hình ảnh cụ thể : cánh chim, chòm mây, bầu trời, núi rừng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,</p><p></p><p></p><p></p><p> Cô vân mạn mạn độ thiên không ;</p><p></p><p></p><p></p><p> (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,</p><p></p><p></p><p></p><p> Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không <img src="https://cdn.jsdelivr.net/gh/twitter/twemoji@14.0.2/assets/72x72/1f609.png" class="smilie smilie--emoji" loading="lazy" width="72" height="72" alt=";)" title="Wink ;)" data-smilie="2"data-shortname=";)" /></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Không gian rừng núi có vẻ âm u hoang vắng gợi ra sự rộng lớn mênh mông. Thời gian chiều ngả dần về tối là thời gian nghệ thuật quen thuộc trở đi trở lại trong các tác phẩm thi ca. Nghệ sĩ xưa thường mượn thời gian chiều tối để gửi gắm tiếng lòng mình, để nương náu nỗi buồn của mình. Ca dao xưa có câu :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Chim bay về núi tối rồi</p><p></p><p></p><p></p><p> hay trong Truyện Kiều :</p><p></p><p></p><p></p><p> Chim hôm thoi thót về rừng,</p><p></p><p></p><p></p><p> Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Đọc câu thơ của Hồ Chí Minh khiến người đọc nhớ tới những tứ thơ của người xưa, ý thơ mang đậm sắc thái cổ điển.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nỗi lòng, tâm trạng người tù sau một ngày chuyển lao vất vả, nhọc nhằn, mệt mỏi được hiện lên qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt. Nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" được sử dụng thành công khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tiếng nói của tâm trạng con người. Chòm mây trong cái nhìn của người tù là chòm mây cô đơn. Người đọc không chỉ cảm nhận được sự nhọc nhằn, mệt mỏi của người tù mà còn thấy được cả nỗi cô đơn, buồn khổ của người tù trong cảnh ấy. Bản dịch thơ chưa dịch hết nghĩa nguyên tác, không dịch được chữ cô trong cô vân. Bởi vậy lời dịch không làm bật lên sự cô đơn lẻ chiếc của cảnh vật cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Từ láy mạn mạn được dịch là "trôi nhẹ" gợi cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Trong cảm nhận của người tù, áng mây chầm chậm, lững lờ trôi trên bầu trời trong cảm giác cô đơn. Người ta tưởng chừng áng mây như ngưng đọng giữa bầu trời chiều. Có một sự vận động mệt mỏi, ý thơ khác hẳn với cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lãng mạn mà "trôi nhẹ" đem lại. Bức tranh thiên nhiên có vẻ hoang vắng, tĩnh lặng, thấm nỗi buồn cô đơn của con người. Hai câu thơ không có một từ nào trực tiếp miêu tả người tù và tâm trạng người tù nhưng qua đó vẫn ẩn chứa hình ảnh người tù trong sự mệt mỏi, nhọc nhằn, trong nỗi buồn và sự cô đơn.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Tất cả cảnh vật thiên nhiên : cánh chim, chòm mây, bầu trời đều là những cảnh vật được cảm nhận từ trên cao, trong không gian cao rộng, khoáng đạt. Người ta nhận ra tư thế người tù tư thế của một con người luôn ngẩng cao đầu với một ý chí, nghị lực mạnh mẽ, với một tâm hồn rộng mở đón nhận vạn vật vào trong lòng mình. Hai câu đầu diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nhưng không gợi cảm giác bi luỵ bế tắc mà vẫn hé mở bản lĩnh, ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nếu như hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thì hai câu sau miêu tả bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người :</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,</p><p></p><p></p><p></p><p> Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.</p><p></p><p></p><p></p><p> (Cô em xóm núi xay ngô tối,</p><p></p><p></p><p></p><p> Xay hết, lò than đã rực hồng.)</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Hình ảnh "cô em xóm núi" trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh. Hình ảnh con người xuất hiện trở thành tâm điểm của sự sống làm ấm áp cả bức tranh chiều tối hoang vắng, lạnh lẽo. Vẻ đẹp của bức tranh chiều tối được toát lên từ chính vẻ đẹp hoạt động của con người, thể hiện sự khoẻ khoắn, niềm tin và khát vọng mạnh mẽ của con người. Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn : ma bao túc, bao túc ma. Hoạt động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng điều kì diệu chính ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà cùng nhịp điệu trong cuộc sống lao động của con người. Nhịp thời gian trở thành nhịp của sự sống. Tứ thơ của Hồ Chí Minh có sự vận động mạnh mẽ, tự nhiên mà khoẻ khoắn.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Câu thơ thứ ba của bản dịch thơ dịch thừa chữ tối. Bài thơ không có từ tối nhưng thời gian tối của bức tranh được gợi ra từ chính hình ảnh "lò than rực hồng". Có một sự đối lập tương phản giữa ánh sáng của lò than với bóng tối của xóm núi. Chỉ cần nhìn lò than đỏ, người ta cũng nhận ra bóng tối đã về bao trùm vạn vật. Bút pháp "vẽ mây nảy trăng" được sử dụng thành công.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bức tranh chiều tối đến đây không buồn bã, thê lương, ảm đạm mà tràn đầy sự sống ấm áp tươi sáng, từ nỗi buồn thương đến niềm tin vui thể hiện một hồn thơ luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ kết lại bằng chữ hồng. Bài thơ mang tên Chiều tối nhưng không kết thúc bằng bóng tối mà kết thúc bằng ánh sáng màu sắc rực rỡ. Chữ hồng chính là nhãn tự của bài thơ, thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ hồng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ Chiều tối kết lại bằng niềm tin tưởng, bằng khát vọng dâng đầy của người cộng sản. Đặt trong thân phận tù ngục, người ta vẫn nhận ra hình ảnh một con người Hồ Chí Minh với tình yêu thiên nhiên rộng lớn, với một khao khát sự sống mạnh mẽ và một ý chí, nghị lực kiên cường, một niềm tin cháy bỏng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ thể hiện một bức chân dung về người tù cộng sản Hồ Chí Minh, một người cộng sản kiên cường, ung dung, tự tại và có một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, Người luôn nâng niu tất cả, chỉ quên mình</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Chiều tối mang vẻ đẹp của Đường thi với màu sắc cổ điển đậm đà.Bài thơ tứ tuyệ hàm súc, câu chữ dồn nén, hàm chứa ý nghĩa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại</p><p></p><p></p><p></p><p> Cách dùng các thủ pháp nghệ thuật(nhân hoá, lặp vòng, bút pháp thiên nhiên chân thật, giản dị, tự nhiên)hình ảnh gợi cảm, ngôn ngữ hàm súc, tinh luyện đã làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ./.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> THAM KHẢO </p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mộ</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> “Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ</p><p></p><p></p><p></p><p> Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn bình dị: xay ngô. Có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:</p><p></p><p> “Cô em xóm núi xay ngô tối</p><p> Xay hết lò than đã rực hồng”</p><p></p><p> Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="bichngoc, post: 33711, member: 1814"] BÀI 7: ĐÂY THÔN VĨ DẠ Hàn Mặc Tử Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) xuất hiện trên thi đàn văn học đã tạo ra một bất ngờ lớn nhưng sự xuất hiện của Hàn Mặc Tử còn tạo ra sự ngạc nhiên hơn nhiều. Một đời thơ không dài nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một lượng tác phẩm đáng phục và anh được ví như "ngôi sao băng có ánh sáng khác lạ vụt qua bầu trời văn học" và làm người ta nhớ mãi không quên. Hàn Mặc Tử khiến người ta nhớ đến bởi giọng thơ độc đáo mới lạ của một hồn thơ luôn quằn quại đau đớn trong bất hạnh. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực với một thế giới đầy ma quái là một giọng thơ trữ tình đằm thắm. Tất cả thể hiện một tình yêu đời tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như thế. Mười hai câu thơ là một mạch cảm xúc chan chứa tình cảm với xứ Huế thơ mộng, với con người trần thế. Đây thôn Vĩ Dạ ra đời khi Hàn Mặc Tử đã lâm bệnh nặng, không có cơ hội để trở về với cuộc sống đời thường bởi căn bệnh phong quái ác. Vì vậy bài thơ là sự hoà quyện giữa thực và ảo. Hiện thực là những kỉ niệm về xứ Huế, ảo mộng là những hình ảnh về con người trong mơ tưởng của thi nhân. Theo những người bạn của Hàn Mặc Tử kể lại thì bài thơ được gợi cảm xúc từ tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc gửi cho thi sĩ. Bài thơ là sự quyện hoà của giọng điệu chủ thể trữ tình (thi nhân) và khách thể trữ tình (em). 1. Tác giả & tác phẩm Hàn Mặc Tử (1912 1940) là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới (1932 1945). Ông cũng là nhà thơ có số phận bất hạnh hiếm có. Hàn Mặc Tử là một tài năng độc đáo, một tiếng thơ lạ, thể hiện rõ tấn bi kịch của một con người bất hạnh. Mắc phải căn bệnh phong quái ác, phải sống trong sự cách li khi đang tràn trề nhựa sống đã khiến thơ ông nhiều khi như điên loạn với một thế giới hình ảnh thơ đầy ma quái. Thơ Hàn Mặc Tử vừa gợi cho người ta nỗi sợ hãi, vừa đem đến niềm say mê. Chế Lan Viên từng quả quyết rằng : "Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử. Bên cạnh thơ điên, Hàn Mặc Tử còn có những vần thơ trữ tình rất dịu dàng và duyên dáng. Trong số đó có Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ đã lâm bệnh nặng và không còn cơ hội để trở lại với cuộc sống đời thường. Bài thơ mang vẻ đẹp huyền ảo và trong sáng. Thực và hư hoà quyện tạo nên vẻ riêng cho cảm xúc. Bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu. Đây cũng là những cố gắng cuối cùng của thi sĩ để níu lại trong mình những giây phút ngọt ngào của cuộc sống trần thế. Cảnh thì đẹp mà tình thì buồn là sự thể hiện đầy đủ nhất tình yêu cuộc sống của thi sĩ bất hạnh mà đầy tài năng này. 2. Phân tích Mở đầu bài thơ là khổ thơ viết về thiên nhiên thôn Vĩ với những vẻ đẹp đầy thơ mộng qua dòng hồi tưởng của nhà thơ. Câu thơ đầu có một khả năng gợi mở rất lớn : Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? Câu thơ là lời mời, lời trách hay sự nuối tiếc ? Có lẽ là cả ba. Đó là lời mời của cô gái nào đó đang trách hờn "anh" chủ thể trữ tình của bài thơ hay câu thơ chính là sự phân thân của nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm trạng nuối tiếc của mình vì không được trở lại thôn Vĩ nữa. Ba câu sau được nối với câu trước bởi nghệ thuật "vắt dòng" của câu hai. Nhìn nắng hàng cau là lời giải thích "sao anh không về để nhìn nắng" còn nắng mới lên tồn tại độc lập. Đây là lời của cô gái hay chàng trai. Lời của cô gái nhưng bắt đầu có sự xuất hiện của nhân vật trữ tình. Cảnh và người thôn Vĩ hiện lên rõ dần. Bắt đầu là hình ảnh hàng cau một loại cây quen thuộc trong những khu nhà vườn xứ Huế. Ta đã từng gặp hình ảnh hàng cau trong Nhớ của Hồng Nguyên : Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau Đây là hàng cau trong nắng chiều còn ở Đây thôn Vĩ Dạ là hình ảnh hàng cau trong nắng sớm ban mai, giữa những vườn mướt "xanh như ngọc" một hình ảnh trong sáng, thân thuộc đến bất ngờ. Câu thơ như một cái ngước nhìn đầy thú vị. Nắng ban mai êm dịu xen giữa những thân cau thẳng tắp lá còn ướt đẫm sương đêm tạo ra cho cảnh vật một nét đẹp rất thơ mà cũng rất đời thường. Khi nhớ đến thôn Vĩ, nhớ đến xứ Huế mơ mộng người ta không thể không nhắc đến những khu nhà vườn xinh đẹp dưới ánh nắng mai. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Vẻ đẹp của thôn Vĩ đã được cảm nhận bằng nỗi nhớ của nhân vật trữ tình (tác giả) chứ không phải là của cô gái nữa. Nhân vật trữ tình đã hiện ra bằng lời trầm trồ thán phục trước vẻ đẹp của thôn Vĩ. Chữ mướt gợi màu xanh non tơ, mềm mại đầy xuân sắc và màu "xanh như ngọc" là màu xanh như có ánh sáng từ bên trong. Ngọc vừa có màu vừa có ánh, vừa toả mát ánh sáng, vừa rười rượi sắc xanh, mướt quá là trầm trồ chứ không phải là nhận xét "quá mướt". Đọc thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh có nhận xét : "có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng lạ". Nhận xét này thật đúng với câu thơ trên. Có lẽ những giọt sương đêm vẫn còn đọng trên lá và khi ánh bình minh soi xuống đã tạo cho khu vườn vẻ đẹp lung linh huyền ảo. Câu thơ cho thấy Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ, yêu Huế biết bao nhiêu. Ai có thể tin rằng câu thơ đầy sức sống này lại là của một thi sĩ không còn cơ hội trở lại với đời thường. Ta cũng từng gặp cảnh thiên nhiên như thế ở thi sĩ Xuân Diệu khi anh còn trẻ và đang tràn đầy nhựa sống : “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”. Tình yêu Vĩ Dạ của thi nhân bắt nguồn từ tình yêu cuộc sống, từ tình yêu với người con gái xứ Huế. Vì vậy con người xứ Huế trong cảm nhận của nhà thơ trong khung cảnh thật gợi : Lá trúc che ngang mặt chữ điền Câu thơ viết theo hướng cách điệu hoá. Cách điệu từ đường nét "lá trúc che ngang" đến hình ảnh "mặt chữ điền". Mặt chữ điền từng xuất hiện trong những câu ca dao xứ Huế : Mặt em vuông tựa chữ điền, Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài. Lòng em có đất có trời, Có câu nhân nghĩa, có lời thuỷ chung. Với biện pháp nghệ thuật cách điệu hoá, tác giả đã diễn tả được vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, hoà hợp với thiên nhiên của người Vĩ Dạ. Người Huế vốn rất yêu thiên nhiên, cây cỏ là bạn với họ. Họ chăm sóc cây cối giống như chăm sóc con người. Và những ngôi nhà truyền thống của người Huế bao giờ cũng ẩn sau những mảnh vườn mướt xanh. Bốn câu thơ đã tạo nên một vẻ đẹp lung linh huyền diệu cho thôn Vĩ. Khổ thơ thứ hai có sự thay đổi về không gian và cảm xúc nhưng vẫn là dòng hồi tưởng của nhân vật trữ tình, kỉ niệm lúc này tràn về mãnh liệt đến nỗi từng bước của chàng trai lan toả, xen đầy cả không gian : Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Mạch cảm xúc không dứt mà tạo một dư âm : Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay ? Có lẽ cấu tứ của đoạn thơ này được bắt nguồn từ nỗi nhớ về dòng sông Hương êm đềm. Cảnh vật trong khổ thơ buồn da diết, vừa hiện thực vừa hư ảo. Nó khiến người đọc như vừa gặp một ảo giác, cụ thể đấy mà cũng thật mơ hồ. Gió mây thường có mối quan hệ gắn bó khăng khít, "gió thổi mây bay", nhưng ở đây gió mây lại theo hai đường, thậm chí ngăn cách nhau quyết liệt : Gió theo lối gió mây đường mây Gió mây ở đây không phải là hiện thực mà nó mang tâm trạng của người trong cảnh chia lìa. Nhớ Vĩ Dạ nhưng không thể trở về nơi ấy được nữa nên buồn và nỗi buồn đã tràn ra cảnh vật : Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình, dòng Hương giang hiện lên thật buồn. Nhớ Hương giang lại nhớ đến những đêm trăng huyền diệu. Trăng gợi vẻ đẹp huyền ảo song trăng cũng dễ gợi sự cô đơn, lạnh lẽo : Trăng sáng, trăng xa trăng rộng quá Hai người nhưng chẳng bớt cô đơn. (Xuân Diệu) Trăng từng xuất hiện rất nhiều trong thơ Hàn Mặc Tử với đủ hình dạng, trạng thái khác nhau : Trăng nằm sóng xoãi trên cành liễu Đợi gió thu về để lả lơi. Còn ánh trăng ở đây lại là một ánh trăng huyền ảo, một không gian tràn đầy trăng và thơ : Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay ? Sáng tạo độc đáo của Hàn Mặc Tử là ở hình ảnh "sông trăng". Trăng tràn đầy không gian từ dòng sông đến cõi mộng. Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của trường phái thơ siêu thực và tượng trưng Pháp, có lẽ câu thơ này là kết quả của những ảnh hưởng đó. Hai câu thơ hay mà không thể lí giải cụ thể. Đó cũng chính là bí mật hấp dẫn của thi ca. Ai có thể chở được ánh trăng. Câu thơ gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và thể hiện tâm hồn thơ lãng mạn của thi nhân. Đến khổ thơ thứ ba cảnh vật không còn nữa, kỉ niệm trở về ngập hồn nhân vật trữ tình. Và lúc này những rung động của anh đối với Vĩ Dạ đã tập trung ở hình ảnh người con gái "mờ mờ nhân ảnh". Mơ khách đường xa, khách đường xa áo em trắng quá nhìn không ra ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ? "ở đây" là ở đâu ? Dù ở đâu thì cũng đã bị bao phủ bởi sương khói của thời gian. Ai là một đại từ phiếm chỉ. Một đại từ phiếm chỉ được sử dụng hai lần trong một câu thơ, gợi lên bao ý nghĩa. Câu thơ tha thiết một khát khao, một ước nguyện muốn có người hiểu được tâm sự của mình. Đồng thời thể hiện tâm trạng hoài nghi. Trong bài thơ có tới bốn lần tác giả sử dụng đại từ ai, và "anh" và "em" đã hoà nhập trong từ ai ấy, hoà nhập trong tâm tưởng của thi nhân. Câu thơ cuối cùng thoáng chút hoài nghi ấy xuất phát từ lòng khát khao sống, khát khao giao tiếp với cuộc đời ; xuất phát từ niềm khao khát thuỷ chung. Vượt lên nỗi đau riêng, thơ Hàn Mặc Tử nói lên tâm trạng chung của bao lứa đôi xa cách… "Thơ đi từ cái thực tới cái ảo ảnh, từ ảo ảnh đi tới cái huyền diệu, từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là thế giới mơ", đó là lời của Hàn Mặc Tử về thơ và có lẽ là về chính Đây thôn Vĩ Dạ. Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỷ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu của một con người. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh phong cảnh thật đẹp về thiên nhiên xứ Huế, từ đó thể hiện tình yêu và khát vọng sống mãnh liệt Hình ảnh độc đáo giàu sức gợi, giàu giá trị thẩm mĩ, ngôn ngữ ngữ cực tả luôn trong trong sáng, súc tích Cách sử dụng xuyên suốt những câu hỏi tu từ đã tạo nên mạch cảm xúc của toàn baì Ba khổ thơ không được sắp xếp theo tuyến tính của thời gian và tính duy nhất của ko gian, có bước nhảy cảm xúc giữa các khổ thơ tạo nên mạch liên kết đứt-nối độc đáo cho toàn bài Nhịp điệu của bài thơ bị chi phối bởi cảm xúc ẩn chứa ở mỗi khổ thơ: có khi là nhịp điệu tha thiết đắm say, có khi là nhịp điẹu chậm rãi buồn tẻ./. THAM KHẢO ĐÂY THÔN VĨ DẠ – Hàn Mặc Tử Căn cứ vào bản thân văn bản thơ, ta thấy nổi lên hàng đầu là hình ảnh Huế đẹp và thơ. Bài thơ gồm 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như được dành để nói về một phương diện của Huế. 1/ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về thôn Vĩ, nói rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử. Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây. Những tàu cao con bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là câu thơ không có gì đặc sắc tân kỳ lắm về mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo – Những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở đây được nâng lên theo hướng cách điệu hoá. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách điệu hóa thì không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất phát từ sự thực: thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng, phúc hậu. 2/ Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỷ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thể không nhớ dòng sông Hương. Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi bến vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế. Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuận. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi. Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỷ niệm nên cảnh cũng chuyển theo lôgich của kỷ niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng – Hàn Mặc Tử cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí hư ảo, như là trong mộng: Thuyền ai đậu bến sông trăng gió Có chở trăng về kịp tối nay? Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là “sông trăng” và thuyền mới có thể “chở trăng về” như một du khách trên sông Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng không gì mới, nhưng “sông trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử. 3/ Khổ thứ ba: Người xưa nơi thôn Vĩ. Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này (Huế đẹp và thơ của Nam Trân. Dửng dưng của Tố Hữu...) Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực: Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Mờ ảo vì “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng có thực vì “áo em trắng quá”. Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa, không chỉ là khoảng cách không gian mà còn là khoảng cách của thời gian, và mối tình cũng xa vời – vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà “ai biết tình ai có đậm đà?” “Ai” là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là “sương khói” của không gian, của thời gian, của mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa. Nhưng khổ thơ không chỉ minh hoạ cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỷ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huế thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy. Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế. Lời bình Trong tập thơ mang tựa đề Thơ điên, có hai bài ít điên nhất có lẽ là Mùa xuân chín, và Đây thôn Vĩ Giạ. Cả hai bài đều là những bức tranh xóm thôn, vường tược quê làng. Đọc nó, ta không thể không nghĩ đến Nguyễn Bính vì thơ Tử cũng trẻ trung, tinh tế như kiểu: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn Thơ Tử có cái xanh rờn của sự sống có thật, sự sống đáng yêu. Còn cái đáng yêu hơn cái giọng điệu ngọt ngào mời mọc: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Tục ngữ có câu “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. Mâm cỗ có giàu, nhưng lời chào là sang, bởi đó là cái tình, tình người, tình quê, và biết đâu chẳng là mối tình non nước. Hàm nghĩa của câu thơ không tự đóng khung trong một biên độ hẹp nào. Tuy vậy nếu đi quá xa, thêm nữa, lại khăng khang áp đặt cái ý chủ quan, cách hiểu chủ quan thì điều đấy khong những không có cơ sở, mà còn bất lợi cho thơ. Hãy cứ để nó ngân nga trong cái khoảng không là tâm tưởng của người đọc để mỗi người yêu thơ tìm được một hạnh phúc cho riêng mình. Trở lại với cái vị thế ấy, ta hiểu vì sao câu thơ như một câu nói thường? Sức nặng ở ngoài câu chữ đơn sơ là một cái tình đằm thắm. Nó không cần hoa mỹ, cầu kì, một cách nói lên gân cao giọng, là vì nó được đản bảo bằng vàng và những câu tiếp theo. Dường như có một cáI thôn Vĩ mà chỉ cần một lời gọi ở đầu môi, tự nó hiện lên như một khối thuỷ tinh trong suốt. Cho nên đặt câu thơ đầu trong văn cảnh, ta mới hiểu được cáI bình dị sâu sắc của một sự đơn sơ. Nó giống như một thứ cánh cửa vườn lòng hé mở, mà dịu dàng, mà tha thiết biết bao! Cả một câu bảy chữ thì đã có đến sáu chữ đầu cấu tạo bởi thanh bằng. Một phong cách Huế tự nó định hành trong một chất giọng êm ru. Thì ra đằng sau cáI khuôn mẫu thơ Đường là một hồn thi nhân rất trẻ, trẻ cả lời, cả ý như một chiếc nem Huế nhỏ bé, khiêm nhường thơm thảo khó quên. Ấy là chưa nói đến đại từ nhân xưng mà lời mời hướng tới. “Sao anh…”, anh là đối tượng nghe, còn em mới là người nói. Cả người nói và người nghe đã tắm vào một không khí trữ tình đáng yêu mà thân mật lạ lùng. Sự cởi mở tâm tình trong quan hệ giao tiếp trên đây có khả năng, có tính năng làm xôn xao một tiềm thức vốn mơ hồ đã ngay lập tức trở thành cụ thể. CáI cụ thể ấy cũng chẳng có gì nhiều. Cứ thử nhẩm đếm mà xem: một hàng cau gần gũi, một vườn ai thấp thoáng xa xa, và cũng thấp thoáng xa xa một gương mặt không rõ là ai lẫn trong tre trúc. Cảnh trí có vậy, nghĩa là hết sức đơn sơ nhưng lại nặg lòng quê kiểng. Bức tranh quê sở dĩ từng thức dậy để phô bầy cái vẻ đẹp tự thân, để trở thành hoàn mỹ ấy là do một điểm nhìn hội hoạ. Chọn một thời điểm đặc biệt trong ngày, khi cái nắng mới lên mà bấm máy thì còn gì bằng. Chọn cái trẻ của thời gian phải là người nghệ sĩ có tâm hồn rất trẻ. Cũng là cảnh làng quê ấy, có người chọn buổi trưa, có người lấy hoàng hôn làm bối cảnh. Mà không phải không đẹp. Ví như thơ Bà huyện Thanh Quan chẳng hạn, nhưng là cái đẹp khác, như sự u hoài bảng lảng giữa mênh mông. Không dùng một không gian mênh mông như thế làm nền, cách nhìn của Hàm Mạc Tử ở đây là một cách nhìn cận cảnh, cái nhìn qua ánh nắng đầu tiên. Vì vậy câu thơ đầu tiên tả cảnh, tả hàng cau đã có một nhịp đập khác thường. Nó hồi hộp như phản xạ tự nhiên của con người trước cáI đẹp không ngờ lại hiện ra trước mặt: Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Câu thơ sở dĩ nên thơ vì chất nhạc trong hồn. Vẫn chỉ là cáI nắng bình thường ngày nào chẳng có, nhưng nhà thơ như nhìn thấy nó lần đầu. Không biết có phải nắng đó hay không? Là mơ hay là thực? Dường như thi sĩ không còn tin vào mắt mình. Câu thơ vì vậy vừa như đối thoại (với người không có mặt) lại vừa như tự thoại. Nó mang lớp nghĩa hai tầng vừa hướng ngoại lại vừa hướng nội. Cái nắng đầu tiên trong ngày và trong đời có một sức sống riêng, một linh hồn riêng. Nó làm cho cái vùng ảnh hưởng mênh mông của nó không còn ở thế tĩnh mà sống động hẳn lên. Không phải lần đầu nhà thơ tả nắng. Cái nắng lần đầu ta đã một lần không quên trong Mùa xuân chín. Nhưng cái đẹp trong thơ có phần day dứt, có một cái gì đó không yên. Đọc câu “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, ta gặp một không khí rất xưa trong hoài niệm. Và cũng từ hoài niệm, Lưu Trọng Lư đã có thơ hay: Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời Lúc người còn sống, tôi lên mười Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội Áo đỏ người đưa trước giậu phơi (Nắng mới) Cả hai đều hướng về phía sau, còn Đây thôn Vĩ Giạ, cái nắng đầu tiên hướng về phía trước. Hai chữ nắng trong một câu thơ tạo nên một tiết tấu khác thường. Có một cái gì như náo nức, cái e ấp của con trẻ lần đầu mặc chiếc áo mới trong cái âm thanh sột soạt, không tránh khỏi cái rạo rực, ngây thơ. Sức hút ở đây là nắng và người chịu tác động của sức hút ấy là nhà thơ. Hàm Mạc Tử cũng trở thành một thứ con trẻ trong hồn, đồng tâm trạng với Lưu Trọng Lư trong bài thơ vừa dẫn. Mặc dù vậy, hai nỗi niềm có khác. Nếu có nắg hồng hào trong thơ của tác giả Tiếng thu gắn liền với áo đỏ (Áo đỏ người đưa trước giậu phơi) thì thơ Tử lại mở ra một màu xanh mát mắt: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Thực ra, mướt và xanh là hai khái niệm cùng một gam màu tương tự như rờn, như biếc. Người ta có thể nói xanh biếc, xanh non, và cũng có thể viết trong thơ: xanh mướt. Cái tài sự tinh tế của Hàm Mạc Tử trong thơ chính là ở chỗ không dùng hai từ ấy. Bởi xanh mướt (cũng hội đủ hai yếu tố mướt và xanh) thì yếu ớt quá, đẹp nhưng sinh khí không nhiều, và thay thế cho tình yêu là lòng thương, ái ngại. Dùng mướt quá, rõ ràng khoẻ hơn, sức sống dồi dào hơn, và cả ấm áp nữa. Do vậy mà từ xanh (xanh như ngọc) tự nó lại gieo một ấn tượng mới, không giống với mướt, nó có một vị trí riêng trong cảm nhận. Một trùng điệp màu xanh nhưng không lặp lại đem đến sự hào hứng cho kẻ thi nhân khi đứng trước một bảo tàng nghệ thuật của thiên nhiên bí ẩn. CáI hồi hộp của câu thơ tả cau đã trở thành tiếng reo đầy sung sướng như có ma lực ở câu nói về vườn ai. Cau chắc trước sân nhà thì vườn mới có thể vườn ai. Một từ “ai” buông bắt, mơ hồ hơn. Độ gần xa không còn đồng nhất. Vùng không gian mở ra cùng một lần với vùng tâm tưởng. Cảnh đã là máu thịt của hồn. Hồn đã quấn quyện, đã hài hoà trong cảnh. Làm sao còn có thể phân chia cái cơ thể nghệ thuật toàn bích này đâu là hình thức, đâu là nội dung? Cũng đừng tách bạch cái gương mặt thấp thoáng trong “vườn ai” kia ra thành một người cụ thể nào. Bởi lẽ, nó cũng chỉ là cái chi tiết thoáng qua, một đường nét nằm trong tổng thể. Và bao bọc chung là sự cân đối hài hoà, có thể trong mối tương giao giữa cái mềm mại và khoẻ khoắn. Đơn giản vậy thôi, nếu không rất dễ chủ quan suy diễn. Toàn cảnh ở bức tranh đầu là cuộc đời mang hơi thở thi nhân: đó là lòng ham sống. Vì nếu không ham sống, không yêu đời, làm sao có thể nhào nặn được một khung cảnh bình dị mà say người thế kia. Nhưng đặt nó vào toàn bài thì dường như là đối cực phía bên kia của một nghịch lí. ở góc nhìn này, khổ thơ ấy mang nghĩa tượng trưng. Cái đẹp, cái thực của cuộc đời tưởng như nằm sẵn trong vòng tay của một tâm hồn yêu nó, nhưng lại không phảI như vậy. Nó với nhà thơ không là một đôI bạn đồng hành. Càng hướng đến nó, tưởng chừng tiếp cận được nó, nó lại càng cứ xa hơn: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Bằng một nhạc điệu khác thường, lạnh lẽo, vô tình đến nghiệt ngã, thi nhân diễn tả một tâm thế chơi vơi. Thì ra hạnh phúc mà trời hé lộ ở khổ thơ đầu chỉ là một tín hiệu giả. Nó rạng rỡ, mơ màng. Nó đã là ảo ảnh trong khi với nhà thơ lại là một nhu cầu rất thực. Càng gắn bó với cuộc đời, cuộc đời càng ngoảnh mặt quay lưng. Câu thơ có gió có mây, nhưng rời rạc, chia lìa. Nước có dòng mà không chảy. Hoa bắp thì khẽ khàng nhạt tẻ, vô duyên. So với khổ thơ đầu, cảnh ở đây đã như người bước hụt. Cái vồ vập đã nhanh chóng đổi chiều. Nhà thơ không khỏi ngơ ngác, xót xa. Nắng hình như đã tắt, trời đã sang chiều, vì vậy mới có sông trăng: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Hồn thơ rất đẹp khi nói đến gió, đến trăng. Trăng như một vương quốc bá quyền của Tử. Vì vậy tắm mình vào đó, vào cái ánh trời đêm bàng bạc, dòng nước vừa buồn thiu là vậy đã biến thành sông trăng như có một phép nhiệm mầu của Chúa. Nhịp thơ như một nhịp cầu, một hi vọng mở ra. Trái tim đau đớn vì va đập vào cuộc đời đã có một cơ hội hồi sinh sau vết thương đau đớn. Nhưng lấy tiêu chí của cái thực để tính cấp độ của nắng và trăng thì nắng là cái có thể nhìn được bằng mắt thường, còn trăng chỉ là cảm nhận được. Phải chăng chính vì vậy mà giọng thơ mới gấp gáp, thiết tha. Thuyền liệu có kịp về bến, trăng có định lừa người? Hạnh phúc mong manh hay là một ảo ảnh, dù có mong manh nhưng còn được hy vọng thì vẫn còn là cái cớ để nhà bấu víu, bám vào để mà tồn tại. Tối nay là tối nào? ý thơ mặc dù không rõ, nhưng trong tâm tưởng của thi nhân, nó phải là cái đêm ngà ngọc thiên đường như một lần Xuân Diệu đã thiết tha: “Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời”. Kết thúc bài thơ là con sóng chập chờn giữa mơ với thực ấy: Mơ khách đường xa, khách đường xa Vẫn là tiết tấu sóng đôi nhưng vừa tiến lại vừa lui như một quy trình trớ trêu của hình tìm bóng. Người khách đường xa mơ hồ ấy chỉ thấp thoáng mơ màng “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Lại một sáng tạo nữa của Hàm Mạc Tử. Màu trắng và màu trăng như một sự rượt đuổi không bao giờ tới đích. Hình ảnh áo trắng trong thơ Hàm Mạc Tử không giống cách gợi khơi của Huy Cận: Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong Hôm xưa em đến, mắt như lòng Nở bùng ánh sáng, em đi đến Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng Áo trắng của Huy Cận nếu là thực thể thì ở Tử nó biến thành ảo giác mất rồi. Chính là ảo giác mà hạnh phúc kia càng lấp lánh bao nhiêu, tấm lòng nhà càng quặn đau chừng ấy. “Ai biết tình ai có mặn mà” là một khát khoát biểu trưng mở rộng. Ý nghĩa nội sinh của cặp từ “ai biết tình ai” vừa gần gũi vừa xa vời như khoảng giữa các vì sao. Sự trống vắng trong một tâm hồn rất sợ cô độc lại đang ở vào tình thế cô đơn là cái mạch chính của toàn bài, tạo ra cái cầu từ độc đáo, đầy hình tượng của những phút xuất thần được lặp lại với một mức độ cao và dường như là khó hiểu. Nhưng, hướng về phía nhân bản, phía cuộc đời từ cái tôi bản ngã, đó mới là cái hạt nhân bền vững, cái gạch nối giữa người làm thơ và người đọc thơ./. BÀI 8: TƯƠNG TƯ Nguyễn Bính Tương tư là câu chuyện muôn thuở của nhân loại. Ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ mà đã từng điêu đứng vì tương tư : Tương tư không biết cái làm sao, Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào. Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện, Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao. Trăng soi trước mặt ngờ chân bước, Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào. Và thi sĩ đa tình, tài tử như Tản Đà cũng từng thể hiện trạng thái nhớ nhung da diết này : Quái lạ ! Làm sao cứ nhớ nhau Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu Bốn phương mây nước, người đôi ngả Hai chữ tương tư, một gánh sầu. Tương tư thường gắn với sầu bởi người ta thường rơi vào trạng thái tương tư khi tình yêu không được đến từ hai phía hoặc không có cơ hội để nói ra. Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê nhất của làng thơ mới cũng viết về tương tư. Nhưng qua việc diễn tả nỗi tương tư của một chàng trai, nhà thơ lại thể hiện tình cảm lớn hơn tình yêu đôi lứa. Đó là tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hoá Việt Nam . 1. Tác giả & tác phẩm Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo tại làng Thiện Vịnh (nay thuộc xã Cộng Hoà), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Song trong khi hầu hết các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp thì Nguyễn Bính về với văn hoá dân gian. Cùng với Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Nguyễn Bính đã đóng góp cho thơ mới một giọng điệu riêng, đậm hồn quê. Bài thơ Tương tư rút trong tập Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính. Qua chuyện tương tư, bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của nhà thơ với quê hương, ở cái hồn quê mộc mạc thấm đẫm trong thi liệu, cảm xúc, ở cách thể hiện đậm phong vị dân gian. Âm điệu, ngôn ngữ, hình ảnh, thể thơ đều rất gần gũi với ca dao. Bài thơ có thể chia làm ba đoạn : - Đoạn 1 : Nói chuyện tương tư, nhưng là tương tư từ một phía, giọng điệu có vẻ hờn giận trách móc. Thực ra lời trách thể hiện tình cảm tha thiết của người tương tư. Trong lời trách có xuất hiện những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam. - Đoạn 2 : Nhấn mạnh nỗi tương tư và sự chờ đợi, mong ngóng của người tương tư. Trong sự mong ngóng ấy có dự cảm về sự chông chênh của mối tình. Chú ý cách sử dụng cặp hình ảnh "hoa khuê các - bướm giang hồ". - Đoạn 3 : Mượn chuyện trầu cau để nói chuyện đôi lứa. Ước mong và cũng là lời thổ lộ tình cảm rất dễ thương. Câu hỏi kết thúc đau đáu một niềm mong ước, nó làm tăng thêm sự da diết của tâm trạng và sự nồng nàn của cảm xúc. 2. Phân tích Cảm xúc bao trùm và nối kết các phần của bài thơ là nỗi nhớ nhung không nguôi của nhân vật trữ tình chàng trai. Không gian của nỗi tương tư ấy là không gian làng quê. Vì thế tâm trạng tương tư cũng được thể hiện theo kiểu rất thôn quê. Nó cụ thể chứ không mông lung đến mức như chàng trai thị thành Xuân Diệu : Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi… (Nhị hồ) Nhân vật trữ tình trong Tương tư của Nguyễn Bính thì khác. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ : Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một người. Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. Không phải là anh nhớ em hay tôi nhớ nàng mà là “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Cách nói này vừa khiến cho câu thơ mang phong vị dân gian vừa có tính hàm súc. Chàng trai thôn Đoài nhớ cô gái thôn Đông, đó là mối tương tư của chàng trai nơi thôn quê. Chàng ở nhà mình nhưng lòng hướng sang phía cô gái. Và câu thơ còn gợi một liên tưởng rộng hơn. Dường như nỗi nhớ của chàng trai đã tràn ra cả không gian. Nỗi nhớ ấy da diết lắm. Chàng còn dùng cả thành ngữ chín nhớ mười mong để diễn tả nỗi nhớ của mình. Và cũng chẳng e dè, thẹn thùng gì nữa. Nỗi nhớ da diết khiến chàng trai phải thốt lên lời “tôi yêu nàng”. Người ta thường dùng tương tư để chỉ trạng thái tình cảm nhớ nhung của những người yêu đơn phương. Vì yêu mà không dám nói ra với người mình yêu nên nỗi nhớ càng trĩu nặng và tình cảm càng mãnh liệt. Chàng trai tương tư trong bài thơ này cũng có một nỗi nhớ da diết. Chàng trai cũng xác nhận một điều rằng, yêu thì tương tư là lẽ thường, cũng như trời đất phải có gió có mưa. Từ nhớ thương đến mong ngóng và hờn giận : Hai thôn chung lại một làng, Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ? Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Lời hờn giận có vẻ hơi vô lí. Lẽ ra chàng phải sang chứ lại trách cô gái không sang. Chàng dùng cách gọi bên ấy và bên này để chỉ “đối phương” và mình. Trách giận để rồi lại chìm vào nỗi nhớ. Chàng ngồi đếm nỗi nhớ và đếm thời gian để đắm mình trong nỗi niềm tương tư. Ngày lại qua ngày gợi cảm giác thời gian trôi đi dài vô tận. Càng yêu thương thì càng hờn giận. Nỗi tương tư cùng lời trách giận cứ da diết và sâu đậm hơn theo dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bảo rằng cách trở đò giang, Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình, Có xa xôi ấy mà tình xa xôi... Khi diễn tả nỗi nhớ của nhân vật trữ tình nhà thơ đã dùng những hình ảnh rất gần gũi và quen thuộc với văn hoá làng của người Việt. Con đò, mái đình đã làm cho câu thơ mang đậm phong vị dân gian. Những hình ảnh này đã tạo nên không gian làng quê yên bình, lãng mạn rất thích hợp để chàng trai giãi bày tâm trạng tương tư. Nhịp thơ lục bát da diết “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi” đã thể hiện rất tinh tế trạng thái tâm lí của kẻ đang yêu mà chưa nhận được lời đáp lại. Nỗi nhớ thương không người giãi bày đã làm cho nhân vật trữ tình càng chìm sâu trong nỗi tương tư. Đại từ phiếm chỉ ai lặp lại hai lần trong một câu thơ càng làm tăng nỗi niềm tha thiết của kẻ đa tình. Theo lẽ thường tình càng thương nhớ càng đau lòng. Và khi yêu say đắm mà không được đáp lại thường rơi vào tâm trạng bi quan, tuyệt vọng. Những mối tình thôn quê trong thơ Nguyễn Bính đẹp, tha thiết nhưng hay buồn. Mối tình của chàng trai trong bài thơ này cũng vậy : Tương tư thức mấy đêm rồi, Biết cho ai, hỏi ai người biết cho ! Bao giờ bến mới gặp đò ? Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ? Những hình ảnh “bến - đò” là những hình ảnh có tính chất truyền thống để chỉ người nam và người nữ. Hình ảnh “hoa khuê các - bướm giang hồ” lại rất đặc trưng cho phong cách các nhà thơ mới. Nó thể hiện tâm trạng lo lắng, bất an của nhân vật trữ tình bởi sự chờ đợi mòn mỏi với nỗi tương tư trĩu nặng trong lòng. Cặp hình ảnh này thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái nét mới và nét lãng mạn trong phong cách thơ Nguyễn Bính. Khổ thơ cuối cùng mang hình thức của một bài ca dao. Chàng trai trong ca dao thường mượn những cái cớ rất duyên dáng để hoặc làm quen hoặc tỏ tình với đối tượng của mình như quên áo, mời trầu, hỏi thăm. Chàng trai trong Tương tư của Nguyễn Bính cũng mượn chuyện trầu cau để giãi bày tâm tư, để tỏ tình : Nhà em có một giàn giầu, Nhà anh có một hàng cau liên phòng. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Câu hỏi cũng là câu trả lời. Nguyễn Bính đã kế thừa cái thông minh, hóm hỉnh, duyên dáng và rất đáng yêu của ca dao để tạo nên một hình tượng nhân vật với mối tương tư chân thành. Tương tư đã chứng minh rằng Nguyễn Bính là nhà thơ của hồn quê Việt Nam. Với những bài thơ như Tương tư, nhà thơ không chỉ mang đến cho thơ mới một giọng thơ ngọt ngào phong vị dân gian, đậm đà văn hoá dân tộc mà còn lưu giữ cho thế hệ sau những nét đẹp văn hoá truyền thống. Tương tư là một bài thơ hay viết về tình yêu- một thứ tình yêu trong sáng, đơn phương và mạnh mẽ. Hồn quê Vi ệ t Nam thấm đượm trong từng dòng thơ, thể hiện tình cảm chân thành của nhà thơ đối với những nét đẹp văn hoá dân gian Cách sử dụng nghệ thuật diễn tả thời gian và không gian trong bài thơ gắn liền với tâm trạng, mòn mỏi, khắc khoải Nghệ thuật tạo hình ảnh độc đáo và các thủ pháp nghệ thuật nhuần nhuyễn, chất liệu ngôn từ chân quê, đậm chất dân gian./. THAM KHẢO 1. Trong cách diễn đạt tình cảm của ca dao, dân ca, do bối cảnh giao tiếp và diễn xướng trực tiếp nên nếu các biểu hiện tâm trạng trữ tình luôn được bộc bạch một cách hết sức cụ thể, hồn nhiên thì chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình lại thường có tính chất phiếm chỉ, không xác định : Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất, Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai. Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt, Mắt thương nhớ ai Mà mắt ngủ không yên... Trong bài thơ của Nguyễn Bính cũng vậy, một chàng trai thôn Đoài mong nhớ một cô gái thôn Đông, nhưng vì chỉ yêu đơn phương thôi nên anh dùng lối nói ỡm ờ, vòng vo, bóng gió xa xôi của người nhà quê : "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông - Một người chín nhớ mười mong một người...". Một cái làng có hai thôn : "Hai thôn chung lại một làng", một ở bên phía đông - thôn Đông, còn một ở phía tây - thôn Đoài. Những cách gọi tên địa danh dân dã ấy khá phổ biến ở khắp mọi vùng quê đồng bằng Bắc Bộ nên chúng vừa cụ thể lại cũng vừa không xác định. "Một người chín nhớ mười mong một người" : hai chữ một người trong cùng một dòng thơ nhưng được dùng để chỉ hai đối tượng, hai nhân vật khác nhau : chàng trai thôn Đoài, và cô gái thôn Đông, điều ấy, những người trong cuộc hiểu rõ hơn ai hết nhưng khách quan thì vẫn chưa có gì là cụ thể. Vì các nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn giữ được cái vỏ ngoài có tính chất chung chung, không xác định như thế nên chàng trai mới có thể thoải mái bộc bạch nỗi lòng "chín nhớ mười mong" của mình : "Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng", có thể làm như hai người đã thân mật, gần gũi từ lâu để mà hờn mát, trách yêu với người con gái trong lòng : "Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?", "Bảo rằng cách trở đò giang - Không sang là chẳng đường sang đã đành - Nhưng đây cách một đầu đình..." , mạnh dạn ngỏ ước muốn được chung tình : "Bao giờ bến mới gặp đò - Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau" , thậm chí còn bóng gió xa xôi đề cập đến chuyện trầu cau, cưới hỏi : "Nhà anh có một giàn giầu - Nhà em có một hàng cau liên phòng - Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?" v.v... Cách dùng những đại từ chỉ người đây, đấy, bên ấy, bên này thay thế cho các nhân vật giao tiếp và cách nói trống chủ ngữ của những câu thơ trên đây là một trong những đặc trưng nổi bật của lối nói vòng vo, ỡm ờ, bóng gió xa xôi trong ca dao, dân ca truyền thống đã được Nguyễn Bính vận dụng rất thành công, tạo cho bài thơ một giọng điệu, một dáng vẻ riêng khá độc đáo. Các biểu hiện tâm trạng tương tư trong bài thơ cũng được diễn tả một cách tinh tế. Trước hết là sự chờ mong mòn mỏi của chủ thể trữ tình : Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Tâm trạng sốt ruột vì chờ mong mòn mỏi ấy không tách rời những cảm nhận tinh tế về sự thay đổi của không gian, thời gian. "Ngày qua ngày lại qua ngày" - một câu thơ với những từ ngữ bình thường và lối nói tưởng như rất giản dị nhưng lại có khả năng diễn tả khá độc đáo về cảm giác của con người mang bệnh tương tư trước sự lặp đi lặp lại từng chuỗi ngày vô vị dài lê thê, chậm chạp trong sự chờ mong khắc khoải. Một câu thơ mà chữ ngày được nhắc tới ba lần, nhấn mạnh cảm xúc về khái niệm đơn vị thời gian như thể được đếm từng ngày. Nhịp 2/2/2 của câu sáu trong thơ lục bát truyền thống đã được ngắt thành nhịp 3/3 : "Ngày qua ngày/ lại qua ngày" chia ý nghĩa câu thơ thành hai vế với nội dung song trùng, ý của vế sau lặp lại vế trước và sự nhấn mạnh chữ lại gợi tả nỗi chán ngán trong lòng kẻ đa tình tương tư trước dòng thời gian vô tình, đơn điệu cứ chậm chạp trôi qua... Cảm giác về thời gian nói trên còn được diễn tả một cách hết sức sinh động thông qua những biến đổi màu sắc của những sự vật không gian trong câu tám : "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng". Thời gian hiện lên qua sự chuyển màu của cây lá : lá màu xanh đã chuyển thành lá màu vàng. Cùng với chuỗi ngày chờ đợi dài đằng đẵng chậm chạp qua đi, nhưng người thương vẫn chưa thấy tới, cho dù chẳng có xa xôi cách trở gì. Chữ nhuộm là một động từ ngoại động, khiến cho sự chuyển màu của cây lá dường như không phải là sự vận động, phát triển nội tại của thực vật mà như thể là do sự tác động của thời gian và tâm trạng con người thấm vào sắc màu của cây lá. Và nỗi lòng tương tư héo hon, mòn mỏi của con người cũng đã nhuộm màu lá xanh thành ra màu héo úa. Vậy là thời gian, không gian và tâm trạng của con người tương tư đã có một mối quan hệ, mối tương giao thật là kì diệu. Tương tư mỏi mòn làm cho thời gian kéo dài lê thê, chậm chạp hơn ; tương tư cũng nhuộm màu cho cây lá trở nên vàng vọt, úa héo hơn... (Nguyễn Trọng Khánh, Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ , NXB Giáo dục, 2006) BÀI 9: CHIỀU TỐI (Mộ) Hồ Chí Minh Chiều tối là bài thơ tiêu biểu rút trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại một cách chân thực cảnh người tù sau một ngày chuyển lao mệt nhọc. Ở đó người đọc nhận ra thế giới tâm hồn người tù Hồ Chí Minh là tình yêu thiên nhiên cuộc sống tha thiết, là khao khát ý chí và bản lĩnh người cách mạng. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh : vừa cổ điển, vừa hiện đại. Nhật kí trong tù là tập thơ có giá trị văn học rất lớn của Hồ Chí Minh, được viết bằng chữ Hán nên có rất nhiều điểm gần với thơ Đường. Với những bài Đường luật xinh xắn về hình thức, nồng nàn về cảm xúc,... tác phẩm thể hiện tài năng, tấm lòng, tâm huyết và nhân cách Hồ Chí Minh với cả hai tư cách nghệ sĩ và chiến sĩ. Bài thơ Chiều tối đã thể hiện đầy đủ và khá điển hình đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ cuốn nhật kí bằng thơ của Hồ Chí Minh, đó là vẻ đẹp cổ điển về hình thức và hiện đại về cảm hứng, toát lên phong thái ung dung tự tại của một người Cộng sản. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, Người cũng phát hiện được những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý của cuộc sống. Bài thơ tả cảnh chiều tối ở một sơn thôn. Bức tranh phong cảnh ấy được bố cục làm hai phần : Hai câu đầu : tả cảnh vật trong buổi chiều tối. Tất nhiên đây là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù, vì vậy nó là cảnh thật nhưng có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất hoạ, vừa có khả năng gợi cảm. Sự mệt mỏi của cánh chim, sự cô đơn của đám mây chiều là tâm trạng của người tù đang tha phương. Hai câu sau : bức tranh bừng sáng bởi "lô dĩ hồng". Bản lĩnh cứng cáp đã giúp người tù nhanh chóng thoát khỏi cô đơn và mệt mỏi để phát hiện ra sức sống. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống. Bài thơ thể hiện tài năng sáng tạo thơ "thi trung hữu hoạ" của Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện bản lĩnh của người cộng sản. Hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên mở ra những hình ảnh cụ thể : cánh chim, chòm mây, bầu trời, núi rừng. Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không ; (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không ;) Không gian rừng núi có vẻ âm u hoang vắng gợi ra sự rộng lớn mênh mông. Thời gian chiều ngả dần về tối là thời gian nghệ thuật quen thuộc trở đi trở lại trong các tác phẩm thi ca. Nghệ sĩ xưa thường mượn thời gian chiều tối để gửi gắm tiếng lòng mình, để nương náu nỗi buồn của mình. Ca dao xưa có câu : Chim bay về núi tối rồi hay trong Truyện Kiều : Chim hôm thoi thót về rừng, Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành. Đọc câu thơ của Hồ Chí Minh khiến người đọc nhớ tới những tứ thơ của người xưa, ý thơ mang đậm sắc thái cổ điển. Nỗi lòng, tâm trạng người tù sau một ngày chuyển lao vất vả, nhọc nhằn, mệt mỏi được hiện lên qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt. Nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" được sử dụng thành công khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tiếng nói của tâm trạng con người. Chòm mây trong cái nhìn của người tù là chòm mây cô đơn. Người đọc không chỉ cảm nhận được sự nhọc nhằn, mệt mỏi của người tù mà còn thấy được cả nỗi cô đơn, buồn khổ của người tù trong cảnh ấy. Bản dịch thơ chưa dịch hết nghĩa nguyên tác, không dịch được chữ cô trong cô vân. Bởi vậy lời dịch không làm bật lên sự cô đơn lẻ chiếc của cảnh vật cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Từ láy mạn mạn được dịch là "trôi nhẹ" gợi cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Trong cảm nhận của người tù, áng mây chầm chậm, lững lờ trôi trên bầu trời trong cảm giác cô đơn. Người ta tưởng chừng áng mây như ngưng đọng giữa bầu trời chiều. Có một sự vận động mệt mỏi, ý thơ khác hẳn với cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lãng mạn mà "trôi nhẹ" đem lại. Bức tranh thiên nhiên có vẻ hoang vắng, tĩnh lặng, thấm nỗi buồn cô đơn của con người. Hai câu thơ không có một từ nào trực tiếp miêu tả người tù và tâm trạng người tù nhưng qua đó vẫn ẩn chứa hình ảnh người tù trong sự mệt mỏi, nhọc nhằn, trong nỗi buồn và sự cô đơn. Tất cả cảnh vật thiên nhiên : cánh chim, chòm mây, bầu trời đều là những cảnh vật được cảm nhận từ trên cao, trong không gian cao rộng, khoáng đạt. Người ta nhận ra tư thế người tù tư thế của một con người luôn ngẩng cao đầu với một ý chí, nghị lực mạnh mẽ, với một tâm hồn rộng mở đón nhận vạn vật vào trong lòng mình. Hai câu đầu diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nhưng không gợi cảm giác bi luỵ bế tắc mà vẫn hé mở bản lĩnh, ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng. Nếu như hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thì hai câu sau miêu tả bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người : Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng. (Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết, lò than đã rực hồng.) Hình ảnh "cô em xóm núi" trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh. Hình ảnh con người xuất hiện trở thành tâm điểm của sự sống làm ấm áp cả bức tranh chiều tối hoang vắng, lạnh lẽo. Vẻ đẹp của bức tranh chiều tối được toát lên từ chính vẻ đẹp hoạt động của con người, thể hiện sự khoẻ khoắn, niềm tin và khát vọng mạnh mẽ của con người. Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn : ma bao túc, bao túc ma. Hoạt động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng điều kì diệu chính ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà cùng nhịp điệu trong cuộc sống lao động của con người. Nhịp thời gian trở thành nhịp của sự sống. Tứ thơ của Hồ Chí Minh có sự vận động mạnh mẽ, tự nhiên mà khoẻ khoắn. Câu thơ thứ ba của bản dịch thơ dịch thừa chữ tối. Bài thơ không có từ tối nhưng thời gian tối của bức tranh được gợi ra từ chính hình ảnh "lò than rực hồng". Có một sự đối lập tương phản giữa ánh sáng của lò than với bóng tối của xóm núi. Chỉ cần nhìn lò than đỏ, người ta cũng nhận ra bóng tối đã về bao trùm vạn vật. Bút pháp "vẽ mây nảy trăng" được sử dụng thành công. Bức tranh chiều tối đến đây không buồn bã, thê lương, ảm đạm mà tràn đầy sự sống ấm áp tươi sáng, từ nỗi buồn thương đến niềm tin vui thể hiện một hồn thơ luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai. Bài thơ kết lại bằng chữ hồng. Bài thơ mang tên Chiều tối nhưng không kết thúc bằng bóng tối mà kết thúc bằng ánh sáng màu sắc rực rỡ. Chữ hồng chính là nhãn tự của bài thơ, thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ hồng. Bài thơ Chiều tối kết lại bằng niềm tin tưởng, bằng khát vọng dâng đầy của người cộng sản. Đặt trong thân phận tù ngục, người ta vẫn nhận ra hình ảnh một con người Hồ Chí Minh với tình yêu thiên nhiên rộng lớn, với một khao khát sự sống mạnh mẽ và một ý chí, nghị lực kiên cường, một niềm tin cháy bỏng. Bài thơ thể hiện một bức chân dung về người tù cộng sản Hồ Chí Minh, một người cộng sản kiên cường, ung dung, tự tại và có một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, Người luôn nâng niu tất cả, chỉ quên mình Chiều tối mang vẻ đẹp của Đường thi với màu sắc cổ điển đậm đà.Bài thơ tứ tuyệ hàm súc, câu chữ dồn nén, hàm chứa ý nghĩa. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại Cách dùng các thủ pháp nghệ thuật(nhân hoá, lặp vòng, bút pháp thiên nhiên chân thật, giản dị, tự nhiên)hình ảnh gợi cảm, ngôn ngữ hàm súc, tinh luyện đã làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ./. THAM KHẢO Mộ “Mộ” (Chiều tối) bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm: “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ). Có cảnh làm ăn bình dị: xay ngô. Có lò than đã rực hồng (lô dĩ hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, “ấm áp”. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi miền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là “lò than đã rực hồng”. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ 3 dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển: “Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng” Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân lao động, tìm thấy trong khoảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuâng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ “Chiều tối” này… Rất nhân hậu, rất người. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Tài liệu ôn tập Văn 11 học kỳ II
Top