Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Tài liệu ôn tập Văn 11 học kỳ II
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="bichngoc" data-source="post: 33710" data-attributes="member: 1814"><p>BÀI 4: HẦU TRỜI</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Tản Đà</p><p></p><p></p><p> 1. Tác giả & Tác phẩm</p><p></p><p></p><p> Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ra bên núi Tản sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Tây) nên lấy bút danh là Tản Đà. Tản Đà sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng và văn học nghệ thuật. Là con trai của quan án sát tỉnh Ninh Bình Nguyễn Danh Kế và một đào nương tên là Nhữ Thị Nghiêm, vì vậy Tản Đà không chỉ say mê ca trù mà còn rất am hiểu về nhạc dân gian. Ông thành thạo xẩm, chèo và cải lương đồng thời thông tỏ về từ khúc (nhạc cung đình Trung Quốc). Tản Đà là đại diện tiêu biểu của kiểu nhà nho tài tử buổi giao thời, là người đầu tiên "mang văn chương ra bán phố phường". Sáng tác của Tản Đà thể hiện một cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử.</p><p></p><p></p><p> Tản Đà viết cả văn và làm thơ nhưng ông nổi tiếng với tư cách nhà thơ hơn. Thơ Tản Đà mang màu sắc cổ điển về hình thức và mới mẻ về nội dung, ông được gọi là cầu nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Là thi sĩ tài hoa và đa tình, ông viết nhiều về tình yêu. Đồng thời thơ Tản Đà còn thể hiện tính dân tộc rõ nét từ hình thức đến nội dung. Trong thơ ông, lòng yêu nước, yêu quê hương được biểu hiện rất phong phú và đa dạng, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp.</p><p></p><p></p><p> Tác phẩm chính : Về thơ có Khối tình con I, II, III, Còn chơi, Thơ Tản Đà... Về văn xuôi có Giấc mộng lớn, Giấc mộng con I, II, Tản Đà văn tập...</p><p></p><p></p><p>Hầu trời được xếp trong tập Còn chơi (1921) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự sự, kể một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ cho trời nghe. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và thái độ của nhà thơ về nghề văn, về cuộc đời.</p><p></p><p></p><p>2/ Phân tích </p><p></p><p></p><p> Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục : nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.</p><p></p><p></p><p> Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh :</p><p></p><p></p><p> Đêm qua chẳng biết có hay không,</p><p></p><p> ...</p><p></p><p> Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.</p><p></p><p></p><p> Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.</p><p></p><p></p><p> Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.</p><p></p><p> Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên :</p><p></p><p></p><p> Đương cơn đắc ý đọc đã thích</p><p></p><p> Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.</p><p></p><p> Văn dài, hơi tốt ran cung mây !...</p><p></p><p></p><p> Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.</p><p></p><p></p><p> Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”(đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân :</p><p></p><p></p><p> Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt</p><p></p><p> Văn trần được thế chắc có ít !...</p><p></p><p> Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !”</p><p></p><p></p><p> Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình :</p><p></p><p></p><p> - “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu</p><p></p><p> Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”</p><p></p><p></p><p> Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại :</p><p></p><p></p><p> Trời rằng : “Không phải là Trời đày,</p><p></p><p> Trời định sai con một việc này</p><p></p><p> Là việc “thiên lương” của nhân loại,</p><p></p><p> Cho con xuống thuật cùng đời hay.”</p><p></p><p></p><p> Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.</p><p></p><p></p><p> Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.</p><p></p><p></p><p> Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ - câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.</p><p></p><p></p><p> Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> BÀI 5: VỘI VÀNG</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Xuân Diệu</p><p></p><p></p><p> "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết"([1] ) . Đó là nhận xét của hai nhà nghiên cứu Hoài Thanh và Hoài Chân về những cảm xúc về cuộc đời luôn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, thơ ông luôn thể hiện một cách chân thực, nồng nàn và hiện đại nhất những trạng thái cảm xúc của con người trước cuộc sống. Vội vàng là tiếng nói sôi nổi, hăm hở của một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt và là tuyên ngôn cho một quan niệm sống, triết lí sống được thể hiện bằng những hình tượng thơ thấm đẫm cảm xúc. Đây là bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái Tôi thơ mới nói chung mà lại in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu, vừa rất tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo của nghệ thuật thơ ông.</p><p></p><p></p><p>Vội vàng là một bài thơ được xem là thành công và tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế vẻ đẹp cuộc sống, đồng thời thể hiện một quan niệm sống, một triết lí nhân sinh tích cực. Trong không gian văn hoá và điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam những năm ba mươi của thế kỉ XX mà một người thanh niên đang ở tuổi đôi mươi có thể có những vần thơ rạo rực và triết lí sâu sắc như Vội vàng là một minh chứng thuyết phục cho tài năng được đánh giá là “một trong ba đỉnh cao của thơ mới”. Bài thơ đã mang đến cho bản nhạc đượm buồn và đậm chất đau thương, tuyệt vọng của thơ mới một khúc ca tràn đầy hi vọng.</p><p></p><p></p><p> 1. Tác giả & tác phẩm</p><p></p><p></p><p> Xuân Diệu (1916 1985) tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là thầy đồ xứ Nghệ (quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh), mẹ ông quê Bình Định. Xuân Diệu được thừa hưởng sự uyên thâm, cần cù của nhà nho ở người cha ; là trí thức Tây học, ông được hấp thụ những tinh hoa văn hoá phương Tây. Vì thế, thơ ca Xuân Diệu là sự kết hợp hài hoà hai yếu tố Đông Tây, trong đó yếu tố Tây học được tiếp thu trong nhà trường chính thức có ảnh hưởng đậm hơn. Sau một thời gian làm công chức ở Mĩ Tho, ông thôi việc ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn.</p><p></p><p> Xuân Diệu bí mật tham gia Hội Văn hoá cứu quốc năm 1943. Năm 1946 được bầu là Uỷ viên quốc hội khoá một của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Suốt từ đó cho đến khi mất, ông từng là uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam, uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam nhiều khoá. Đóng góp lớn nhất của Xuân Diệu cho đất nước vẫn là sự nghiệp thơ văn. Ông đã từng đi nói chuyện thơ (hàng trăm buổi) cho nhiều đối tượng nghe. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức. Ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1, năm 1996).</p><p></p><p></p><p> Vội vàng là bài thơ tiêu biểu nhất cho nét phong cách nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Tác phẩm được rút trong tập Thơ thơ, tập thơ xuất sắc và tiêu biểu nhất cho thơ Xuân Diệu trước Cách mạng.</p><p></p><p></p><p> Bài thơ thể hiện một tình yêu cuộc sống tha thiết, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. So với thơ ca truyền thống, bài thơ mới mẻ về cả tư tưởng và thi pháp.</p><p></p><p></p><p> Tình yêu cuộc sống tha thiết mãnh liệt đã dẫn đến quan niệm sống hết mình, sống bằng mọi giác quan. Cái cuống quýt vội vàng trong cách sống mà Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ không phải là lối sống vội vàng, hưởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình. Có thể hiểu nội dung này theo bố cục hai phần của bài thơ :</p><p></p><p></p><p> Phần 1 (30 câu thơ đầu) : tập trung luận giải các lí do vì sao phải vội vàng ở đó chứa đựng một quan niệm triết học về vũ trụ, nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống. Cuộc đời tươi đẹp và vô hạn, thời gian của con người là hữu hạn.</p><p></p><p></p><p> Phần 2 (đoạn thơ còn lại) : giải pháp sống. Vì cuộc sống vô cùng tươi đẹp như vậy nên phải sống thật nhiệt thành, phải hết mình, hoà mình cùng thiên nhiên, cùng cuộc đời thì mới cảm nhận hết ý nghĩa của sự sống.</p><p></p><p></p><p> Quan niệm mới mẻ của nhà thơ thể hiện ở hệ thống hình ảnh thơ mới lạ, nhiều sắc màu và tràn đầy cảm xúc. Bài thơ là tiếng ca thúc giục mọi người, nhất là những người trẻ tuổi hãy hết mình với cuộc đời, sống thật nhiều và thật có ý nghĩa.</p><p></p><p></p><p> 2. Phân tích</p><p></p><p></p><p> a. Những khát khao tận hưởng cuộc sống trần thế</p><p></p><p></p><p> Với giọng điệu thôi thúc, cảm xúc gọi nhau tuôn trào từ câu đầu đến câu cuối, Vội vàng lôi cuốn người đọc ngay từ những dòng đầu tiên. Bài thơ mở đầu rất đột ngột bằng một khát vọng lớn :</p><p></p><p></p><p> Tôi muốn tắt nắng đi</p><p></p><p> Cho màu đừng nhạt mất ;</p><p></p><p> Tôi muốn buộc gió lại</p><p></p><p> Cho hương đừng bay đi.</p><p></p><p></p><p> Khát vọng được nhấn mạnh bởi sự lặp lại cấu trúc “Tôi muốn...” trong một đoạn bốn câu thơ năm chữ. Nhịp thơ và cấu trúc ấy đã gợi vẻ cuống quýt, vội vàng. Nội dung của ý muốn ấy lại càng độc đáo, đó là “tắt nắng” và “buộc gió”. Đó là khát vọng níu giữ những vẻ đẹp của cuộc đời. “Màu” và “hương” là những tinh tuý của đất trời. Nhà thơ muốn níu giữ lại vẻ đẹp đó. Nhưng “tắt nắng”, “buộc gió” là điều không thể thực hiện. Ngay những dòng thơ đầu tiên đã phảng phất sự bất lực và nuối tiếc của nhân vật trữ tình. Và cũng ngay ở đây, cái Tôi cá nhân của thi sĩ đã xuất hiện với tư thế chủ động trước cuộc đời.</p><p></p><p></p><p> Những câu thơ tiếp theo lí giải cụ thể nguyên nhân dẫn đến khát vọng có vẻ “ngông cuồng” ở những câu đầu. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được miêu tả sinh động và đáng yêu :</p><p></p><p></p><p> Của ong bướm này đây tuần tháng mật,</p><p></p><p> Này đây hoa của đồng nội xanh rì,</p><p></p><p> Này đây lá của cành tơ phơ phất ;</p><p></p><p> Của yến anh này đây khúc tình si ;</p><p></p><p> Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,</p><p></p><p> Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;</p><p></p><p> Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;</p><p></p><p></p><p> Biện pháp điệp từ lại xuất hiện. Này đây có tính chất như một lời liệt kê, một sự xác nhận về sự hiện hữu của những sự vật được nói tới. Tất cả các sự vật ấy lại đều đang ở thì đẹp nhất, tươi non nhất : tuần tháng mật, đồng nội xanh rì, cành tơ, khúc tình si... Mùa xuân được hiện ra bằng vẻ đẹp của tháng giêng tràn trề sức sống xuân thì và tình tứ giao hoà quấn quýt. Ong bướm, hoa cỏ, chim muông, âm thanh và ánh sáng... hiện ra qua những hình ảnh nhân hoá đều tràn đầy hạnh phúc, tươi non mơn mởn, dạt dào sức sống trong một thế giới ngất ngây mộng ảo. Trong con mắt xanh non háo hức của thi nhân, ngày tháng trở thành "tuần tháng mật", âm thanh của thiên nhiên trở thành những giai điệu vô cùng tình tứ. Ta đã từng nghe đến "khúc nhạc hường", "khúc nhạc thơm" (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn) và giờ đây là một "khúc tình si". Còn ánh bình minh lại hiện lên độc đáo qua hàng mi dài của người thiếu nữ chớp mắt làm duyên - "ánh sáng chớp hàng mi". Nhịp thơ dồn dập, điệu thơ, ý thơ không dứt đã diễn tả được sự vui mừng, niềm khao khát đến cuống quýt của nhân vật trữ tình trước vẻ hấp dẫn của thiên nhiên. Và bức tranh thiên nhiên muôn màu muôn vẻ hiện lên đẹp và tràn đầy sức sống. Xuân Diệu đã chọn từ ngữ, hình ảnh và cách diễn đạt giàu tính hình tượng, gợi cảm và rất hiện đại để bộc lộ những cảm nhận tinh tế của mình về cuộc sống. Cao trào của cảm xúc đã giúp nhà thơ sáng tạo nên một hình ảnh thật đắt về vẻ đẹp của thiên nhiên :</p><p></p><p></p><p> Tháng giêng ngon như một cặp môi gần</p><p></p><p></p><p> Đây là một hình ảnh so sánh táo bạo và độc đáo, nó cũng thể hiện được quan điểm thẩm mĩ hiện đại của Xuân Diệu. Quan điểm này trái ngược với quan điểm của thơ ca truyền thống. Nhà thơ đã dùng vẻ đẹp của con người, thậm chí rất con người (cặp môi gần) để diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhà thơ đã cụ thể hoá cái khao khát của con người và vẻ đẹp của tự nhiên với từ ngon. C hữ ngon được dùng rất tài hoa. Nhà thơ cảm nhận cái đẹp của mùa xuân không phải bằng thị giác mà bằng cả vị giác, xúc giác, bằng cả tâm hồn luôn "thức nhọn giác quan" để sáng tạo nên một hình ảnh thơ khoẻ khoắn đầy sức sống không chỉ biểu thị niềm vui say ngất ngây trước thiên nhiên mà còn thể hiện một quan điểm mĩ học mới : Con người là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ, vẻ đẹp con người trần thế là tác phẩm kì diệu của hoá công, thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất là vì có con người giữa tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu. Tháng giêng là mùa xuân, mùa của sự đâm chồi nảy lộc, của sự hồi sinh, và đây là thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở. Cho nên với thi sĩ, xuân luôn là thời gian đẹp nhất trong năm. Và để thể hiện điều đó, Xuân Diệu đã chọn một hình ảnh so sánh thật đắt. Bức tranh thiên nhiên ấy đã đủ cho thấy nhà thơ yêu cuộc sống đến nhường nào ! Nhà thơ viết tiếp :</p><p></p><p></p><p> Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa :</p><p></p><p></p><p> Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.</p><p></p><p></p><p> Câu thơ đượm màu triết lí. Sau phút giây để cảm xúc thăng hoa cùng vẻ đẹp của đất trời, xúc cảm của nhân vật trữ tình tạm lắng xuống và chuyển sang chiều hướng suy tư. Nhà thơ đã hình ảnh hoá triết lí ấy : không thể để những điều tốt đẹp (xuân) qua đi rồi mới thấy nuối tiếc. Tâm trạng “nắng hạ mới hoài xuân” là tâm trạng rất phổ biến của con người. Bởi thông thường, trong cuộc sống, con người thường không coi trọng những gì mình đang có, chỉ khi nó đã qua đi mới thấy nó có ý nghĩa quan trọng và lại nuối tiếc. Vậy “xuân” không chỉ là hình ảnh khái quát cho những vẻ đẹp của thiên nhiên đã được nhà thơ nói đến ở đoạn thơ trên mà có ý nghĩa khái quát chỉ tất cả những gì mà tạo hoá ban tặng cho con người.</p><p></p><p></p><p> b. Quan niệm chạy đua với thời gian và triết lý sống gấp gáp tận hưởng của tác giả</p><p></p><p></p><p> Mỗi bài thơ của Xuân Diệu bao giờ cũng là một mạch cảm xúc liên tục. ý thơ nọ gọi và nối với ý thơ kia bằng một mối liên kết tinh tế. Sau triết lí rất khái quát ấy là những dòng lí giải tại sao phải vội vàng :</p><p></p><p></p><p> Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,</p><p></p><p> Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,</p><p></p><p> Và xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.</p><p></p><p></p><p> Những câu thơ là lời bộc bạch chân thành của chủ thể trữ tình. Đoạn thơ tập trung thể hiện và lí giải quan niệm mới của nhà thơ về thời gian. Theo đó, thời gian trôi đi thì không bao giờ trở lại. Nhà thơ đặt thời gian của vũ trụ trong mối quan hệ với thời gian của đời người để giảng giải quan niệm về sự không tuần hoàn của vạn vật :</p><p></p><p></p><p> Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,</p><p></p><p> Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !</p><p></p><p></p><p> Đúng vậy, có thể trời đất còn mãi nhưng con người không thể sống hai lần nên sự tuần hoàn ấy là vô nghĩa. Mọi người vẫn nói, Xuân Diệu là nhà thơ của “cảm thức về thời gian” quả không sai. Nhà thơ rất nhạy cảm với những bước đi vô hình của thời gian. Vì thế, mỗi thời khắc qua đi là một cuộc chia li đầy nuối tiếc và cảm giác mất mát tràn ngập trong tâm hồn thi sĩ. Nhạy cảm về sự mất mát đến mức cảm nhận được cả “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi - Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” . Tâm trạng của con người đã thấm sang cả cảnh vật. Thiên nhiên được nhân hoá, cũng biết hờn, biết sợ như con người.</p><p></p><p></p><p> Tình yêu thiết tha đối với cuộc sống đã khiến chủ thể vội vàng, cuống quýt đến gần như bị ám ảnh. Nó cho thấy con người ấy yêu cuộc sống và quý trọng những giây phút của cuộc đời đến nhường nào. Thái độ ấy của thi nhân thể hiện một quan điểm sống rất tích cực và tiến bộ. Vội vàng không có nghĩa là chỉ lo hưởng thụ, là sống gấp, mà là sống hết mình, sống tốt, nghĩa là phải biết quý trọng những giây phút của cuộc đời mình để khi thời gian trôi đi không còn phải nuối tiếc quá nhiều. Nhà thơ đã cất tiếng giục giã :</p><p></p><p></p><p> Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm</p><p></p><p></p><p> Thời gian vẫn còn, cuộc sống vẫn luôn rất đáng yêu vì thế hãy sống bằng mọi giác quan, bằng cả trái tim và khối óc, để hưởng tụ cuộc sống quý giá này. Khổ thơ cuối cùng đã diễn tả đặc biệt thành công khát vọng sống đang sôi trào mạnh mẽ trong trái tim thi sĩ trẻ :</p><p></p><p></p><p> Ta muốn ôm...</p><p></p><p></p><p> Từ Tôi muốn đã chuyển thành Ta muốn, thể hiện sự tăng tiến của khát vọng. Lúc đầu còn e dè, là “tắt nắng”, “buộc gió”. Khát vọng lớn nhưng còn trừu tượng và chung chung. Và dường như chỉ mới dừng lại ở khát vọng níu giữ vẻ đẹp cuộc sống. Còn bây giờ là khát khao hưởng thụ. Và khao khát đó trào dâng rất mãnh liệt.</p><p></p><p></p><p> c. Một cái tôi ý thức ráo riết về giá trị đời sống của một cá thể, một tâm thế sóng cuồng nhiệt tích cực</p><p></p><p> Cảm xúc đó được thể hiện ở việc chọn dùng từ, cấu trúc, biện pháp tu từ trong đoạn thơ cuối cùng :</p><p></p><p></p><p> Ta muốn ôm</p><p></p><p> Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;</p><p></p><p> Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,</p><p></p><p> Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,</p><p></p><p> Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều</p><p></p><p> Và non nước, và cây, và cỏ rạng</p><p></p><p> Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,</p><p></p><p> Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;</p><p></p><p> Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !</p><p></p><p></p><p> Đoạn thơ xuất hiện hàng loạt động từ và đều là động từ mạnh cùng với những tính từ có khả năng biểu hiện cảm xúc mạnh đã bộc lộ được trạng thái cảm xúc cao trào của nhân vật trữ tình. Dường như anh muốn hoà tan mình vào đất trời cây cỏ. Niềm khao khát sống, khao khát giao cảm với đất trời và cuộc đời được bộc lộ mạnh mẽ nhất ở câu thơ cuối :</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Có lẽ chỉ có Xuân Diệu với một tình yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt say mê mới có thể táo bạo và tạo được sự thăng hoa cảm xúc tới mức này. Không còn là ôm, là riết nữa mà là cắn. Xuân Diệu đã sáng tạo cho thơ Việt Nam một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo và đã chứng minh rằng tình yêu cuộc sống có thể đẩy cảm xúc của thi nhân đến đỉnh cao của sáng tạo.</p><p></p><p></p><p>Vội vàng là một dòng cảm xúc chân thành thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ. Giọng điệu, hình thức câu thơ thay đổi linh hoạt với một thế giới hình ảnh đa dạng và phong phú đã tạo nên sức hấp dẫn của thi phẩm. Xuân Diệu đã sáng tạo một hình thức độc đáo để thể hiện những triết lí nhân sinh và quan niệm sống tích cực và sâu sắc. Đặt bài thơ trong không khí của Thơ mới thì mới cảm nhận được tình yêu cuộc sống của nhà thơ mãnh liệt đến chừng nào.</p><p></p><p></p><p> Những sáng tạo của Xuân Diệu trong Vội vàng đã góp phần đánh dấu bước phát triển mới của thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Cái Tôi cá nhân vốn còn xuất hiện dè dặt trong thơ ca truyền thống, đến Xuân Diệu đã có những bước đi đàng hoàng và chắc chắn lên văn đàn văn học Việt Nam.</p><p></p><p></p><p>3. Kết luận</p><p></p><p></p><p>Vội vàng chất chứa một tình yêu cuộc sống thiết tha, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Cái cuống quýt vội vàng trong cách cảm , cách nghĩ mà Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ không phải là lối sống hưởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình dành tất cả cho cuộc đời.</p><p></p><p></p><p> Mạch cảm xúc hối hả tuôn trào như một dòng chảy kết hợp với mạch luận lí chặt chẽ làm nên chiều sâu của thi tứ.</p><p></p><p></p><p>Nhạc điệu say mê hối hả giục giã cùng với những hình ảnh sáng tạo độc đáo tươi mới đã làm nên cái riêng chưa từng có trong hồn thơ Xuân Diệu. </p><p></p><p></p><p>ĐỀ VĂN THAM KHẢO: </p><p></p><p></p><p> Phân tích bài thơ Vội vàng</p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> BÀI LÀM</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ:Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mấtTôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay điCon người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh ta có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình thường của tạo hoá. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:Đương lúc hoàng hôn xuốngLà giờ viễn khách điNước đượm màu li biệtTrời vương hương biệt li(Viễn khách)Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân.Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian:Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửaChưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”! Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế.Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc:Tháng Giêng ngon như một cặp môi gầnMùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực:Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaNhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:Xuân đang tới nghĩa là xuân đang quaXuân còn non nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý` niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giớ i của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la:Ai người trước đã quaAi người sau chưa lạiNgẫm trời đất thật vô cùngRiêng lòng đau mà lệ chảy(Bản dịch Đăng U Châu đài ca)Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “bâng khuân”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa xuân:</p><p></p><p></p><p>Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi </p><p></p><p>Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt </p><p></p><p>Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc </p><p></p><p>Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi </p><p></p><p>Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi </p><p></p><p>Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? </p><p></p><p>Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa? </p><p></p><p></p><p> Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận “nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại dừng” (Chinh phụ ngâm), tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng năm”, không gian “sông núi than” đến “cơn gió xinh hờn tủi”, chim “đứt tiếng”… Cảm quan lãng mạn cùng hoà với suy tư về bản thân đã khắc hoạ độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như san sẻ nỗi niềm của thi nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại.Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này. trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí củanhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng: </p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống.Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời:Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước và mây và cỏ rạngCho chếnh choáng mùi hương cho đã đầy ánh sángCho no nê thanh sắc của thời tươi - Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình.Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và ông đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:Trong hơi thở chót dâng trời đấtCũng vẫn si tình đến ngất ngư(Không đề - 1983)Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con Người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi châ nthành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ yêu đời mê đắm.</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> BÀI 6: TRÀNG GIANG</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Huy Cận</p><p></p><p></p><p> 1. Tác giả & tác phẩm</p><p></p><p></p><p> Huy Cận (1919 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, gốc làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước, từ đó tích cực tham gia các phong trào văn nghệ phục vụ cách mạng và giữ các chức vụ quan trọng trong Chính phủ và trong Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Năm 2001, Huy Cận được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới.</p><p></p><p></p><p> Thơ Huy Cận trước Cách mạng nổi tiếng với tập Lửa thiêng, tập thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng, đó là một nỗi buồn mênh mang, da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, tạo cảm giác cô đơn rợn ngợp. Trước vũ trụ bao la, con người thật nhỏ bé và cô đơn. Đó là tâm trạng chung của các nhà thơ mới. Tâm trạng của thế hệ thanh niên rơi vào tình trạng không tìm ra ý nghĩa cuộc đời, trong họ luôn chứa chất tâm sự thời cuộc.</p><p></p><p></p><p> Sau Cách mạng, thơ Huy Cận vui hơn, hoà cùng niềm vui chung của toàn dân tộc.</p><p></p><p> Bài thơ Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng. Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp thơ ca cổ điển và tâm sự thời đại.</p><p></p><p></p><p> Vẻ đẹp cổ điển : Bức tranh thiên nhiên trời rộng, sông dài, sơn thuỷ hữu tình nhưng vắng lặng đìu hiu. Cảnh vật gợi nỗi buồn, sự cô đơn, con người nhỏ bé trước thiên nhiên bao la. Bài thơ sử dụng nhiều yếu tố có tính chất tương phản.</p><p></p><p></p><p> Cảnh vật gợi nhiều tâm trạng. Tâm trạng nhân vật trữ tình là tâm trạng buồn, cô đơn, nhớ quê hương. Đứng giữa quê hương vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê hương là tâm trạng chung của tất cả các nhà thơ mới.</p><p></p><p></p><p> Cô đơn và nhỏ bé trước cuộc đời nên luôn khát khao được giao cảm với đời. Bài thơ còn gợi tả tâm sự ấy.</p><p></p><p></p><p> Bài thơ có bốn khổ, mỗi khổ như một bài thơ tứ tuyệt Đường thi, khổ nào cũng mênh mông sóng nước và dờn dợn một nỗi buồn sầu. Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn, cô đơn, trống vắng. Đó là nỗi buồn của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước Cách mạng.</p><p></p><p></p><p>2. Phân tích</p><p></p><p></p><p> Cả bốn câu thơ ở khổ 1 đều tả cảnh nhưng mỗi cảnh lại mang một sắc thái khác nhau. ở hai câu đầu, cảnh vật được gợi tả khá quen thuộc, bình dị, tự nó không có gì đáng buồn : sóng nước, thuyền trôi... "Sóng gợn" là do gió, nhưng khi thêm cụm từ buồn điệp điệp thì sóng ấy đâu còn là hình ảnh thiên nhiên mà là sóng ở trong lòng người. Con sóng có thật của Tràng giang vỗ vào nỗi hiu hắt, cô đơn trở thành nỗi buồn "điệp điệp". Một nỗi buồn âm thầm, da diết khôn nguôi cứ trải ra liên tiếp theo những lớp sóng nối đuôi nhau không dứt trên dòng tràng giang. Cụm từ nước song song cũng là một cấu tứ lạ đăng đối với buồn điệp điệp ở câu trên như để nhấn thêm nỗi buồn. Hình ảnh thơ gợi lên nỗi niềm của cả một thế hệ với biết bao sầu thương, ảo não. Sang đến hai câu sau tình buồn bắt gặp cảnh buồn với cái "sầu trăm ngả" của những chuyển động ngược chiều, ngược hướng "thuyền về, nước lại" và hình ảnh nổi trôi phiêu dạt của một cành củi khô lạc giữa mấy dòng nước. Hình ảnh cành củi ấy gợi lên những ám ảnh về thân phận nhỏ nhoi, phiêu dạt, lạc loài. Nhịp câu thơ trúc trắc (1 - 3 - 1 - 2) phá cách thơ thất ngôn cổ điển cùng phép đảo ngữ, tương phản cũng góp phần nhấn mạnh tâm trạng của nhân vật trữ tình.</p><p></p><p></p><p> Sang đến khổ 2, tầm nhìn rộng hơn, một không gian bao la, cái nhỏ bé vẫn tương phản với cái mênh mông vô cùng. Bức tranh sông nước có thêm vài nét chấm phá với những thi liệu quen thuộc của bài thơ cổ : cồn cát, gió đìu hiu, thuyền - bến cô liêu... Hai từ láy lơ thơ và đìu hiu được dùng rất nhiều rất đắt vừa có giá trị tạo hình vừa giàu khả năng biểu đạt tâm trạng, lại gợi màu sắc cổ kính, gợi hơi hướng cổ thi. Âm thanh tiếng chợ chiều đã vãn nơi làng xa vẳng lại càng gợi buồn. Nó mơ hồ xao xác quá và gợi không khí tàn tạ, vắng vẻ. Có lẽ đây là âm thanh vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khát khao của nhà thơ. Câu thơ thứ 3, thứ 4 mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của nắng xuống, trời lên, sông dài, bến vắng cô liêu càng làm cho cảnh thêm buồn, tâm trạng thêm cô đơn.</p><p></p><p></p><p> Khổ thơ thứ ba, vẻ đìu hiu hoang vắng của cảnh vật được tô đậm hơn đến mức dường như không còn dấu vết của sự sống khiến nỗi buồn được đẩy lên đến tột cùng với điệp từ không, giọng thơ như hụt hẫng. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người, "không một chuyến đò", không có lấy một cây cầu nối liền đôi bờ để có thể tạo nên sự gắn kết con người với nhau.</p><p></p><p></p><p> Khổ thơ cuối miêu tả cảnh hoàng hôn và thể hiện tâm trạng buồn nhớ quê hương của con người - một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển hình của thi ca cổ điển. Cảnh bầu trời cao rộng êm ả lúc chiều tà được chấm phá theo bút pháp Đường thi với hai hình ảnh "đám mây" và "cánh chim" - những thi liệu quen thuộc trong thơ ca trung đại phương Đông. Hình ảnh tương phản giữa cánh chim (cánh chim đã nhỏ lại nghiêng nên càng nhỏ nhoi hơn) và bầu trời gợi cảm giác cô đơn, nhỏ bé và rợn ngợp. Không gian ấy là cái nền để nhân vật trữ tình thể hiện nỗi nhớ quê hương. Nỗi nhớ mênh mang vời vợi, "dợn dợn" trải dài như những con sóng nối đuôi nhau chạy đến vô tận, vô cùng.</p><p></p><p></p><p> Về câu thơ đề từ (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài) : Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương đan xen nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài).</p><p></p><p></p><p> Về hình thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng lời thơ trong các cặp câu :</p><p></p><p></p><p> - Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,</p><p></p><p> Con thuyền xuôi mái nước song song.</p><p></p><p> - Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,</p><p></p><p> Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.</p><p></p><p></p><p> Cả hai cặp câu thơ trên, về hình thức tổ chức câu thơ cũng như sử dụng lời thơ, đều có sự vận dụng và phát huy một cách sáng tạo những yếu tố cổ điển Đường thi để thể hiện tâm tư của cái tôi thơ mới.</p><p></p><p></p><p> Cách tổ chức câu thơ tuân theo phép đối ngẫu phổ biến của thơ Đường. Chúng đều là những cặp câu đối nhau. Tuy nhiên, dạng thức mẫu mực của đối, theo quan niệm cổ điển, là phải đối nhau triệt để (đối câu, ý, chữ, âm...). ở đây, Huy Cận chỉ mượn nguyên tắc tương xứng của đối, chứ không đẩy lên thành đối chọi. Vì thế, câu thơ tạo ra vẻ cân xứng trang trọng, mở ra được các chiều kích vô biên của không gian, mà không gây cảm giác gò bó, nệ cổ. Nghĩa là, một nét thi pháp cổ điển Đường thi đã được cách tân để phù hợp với tâm lí hiện đại.</p><p></p><p> Cách sử dụng lời thơ cũng vậy. Có những ngôn từ được dùng theo lối thơ Đường, cụ thể là học theo lối dùng từ láy, theo lối song song của Đỗ Phủ trong bài Đăng cao ở cặp câu :</p><p></p><p></p><p> Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ</p><p></p><p> Bất tận trường giang cổn cổn lai.</p><p></p><p></p><p> Có lối dùng những cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng, cả về âm thanh, cả về ý nghĩa : sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng... Có lối tạo từ theo phong cách cổ điển : bến cô liêu. Có lối "lạ hoá" ngôn từ : sâu chót vót. Chót vót vốn là một từ được dùng để diễn tả chiều cao, ở đây được dùng để biểu đạt chiều sâu. Trước Huy Cận chưa thấy dùng như thế. Điều này có vẻ vô lí. Nhưng cái lí của việc sáng tạo này là ở chỗ : tác giả không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh trời mà xuyên sâu vào đáy đáy vũ trụ. Cái tôi ấy càng thấy bơ vơ hơn trước cái vô biên đến rợn ngợp như thế. Vì vậy, chiều cao đã chuyển hoá thành chiều sâu một cách thật tự nhiên.</p><p></p><p></p><p> Những hình ảnh "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa" được dùng thật sáng tạo, vừa gợi hình vừa gợi cảm.</p><p></p><p></p><p> Trước hết, đó là những hình ảnh nghiêng về tả thực, bằng những chi tiết sống động. Chúng giúp cho thi sĩ tái hiện diện mạo chân thực của sông nước tràng giang cũng như cảnh không trung lúc hoàng hôn. Thủ pháp bao trùm đều là tương phản: hữu hạn – vô hạn, nhỏ nhoi – lớn lao, hữu hình – vô hình. Nhờ đó, người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên thật sinh động và sắc nét.</p><p></p><p></p><p> Cả hai hình ảnh nghệ thuật đều gợi ra thân phận bơ vơ, chìm nổi, vô định của những cá thể nhỏ nhoi giữa tạo vật thiên nhiên mênh mông hiu quạnh. Đối diện với những cá thể ấy, con người không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình. Nó cũng là một cá thể bơ vơ, trôi dạt trong cái vô cùng, vô tận của không gian, cái vô thủy vô chung của thời gian.</p><p></p><p></p><p>3. Kết luận</p><p></p><p></p><p> Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn non nước thể hiện lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của một lớp thanh niên trong chế độ cũ. Cảm hứng xuyên suốt Tràng giang là nỗi buồn triền miên vô tận, là nỗi sầu nhân thế. Xuân Diệu khẳng định : "Tràng Giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước ... dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc sau này".</p><p></p><p></p><p> Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thi ca dân tộc. Trong sáng tác của ông, người ta dễ dàng cảm nhận được dấu ấn Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng chú ý là chúng đã được Việt hoá một cách nhuần nhị.</p><p></p><p></p><p></p><p>Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng giang </p><p></p><p></p><p>Bài làm: </p><p></p><p></p><p> Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.</p><p></p><p></p><p>Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài</p><p></p><p>Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp</p><p></p><p></p><p>....</p><p></p><p></p><p>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.</p><p></p><p></p><p>Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.</p><p></p><p></p><p>Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.</p><p></p><p></p><p>Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.</p><p></p><p></p><p>Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:</p><p></p><p></p><p>Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,</p><p></p><p>Con thuyền xuôi mái nước song song.</p><p></p><p></p><p>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</p><p></p><p>Củi một cành khô lạc mấy dòng.</p><p></p><p></p><p>Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.</p><p></p><p></p><p>Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng</p><p></p><p></p><p>Thuyền về nước lại sầu trăm ngả</p><p></p><p>Củi một cành khô lạc mấy dòng.</p><p></p><p></p><p>Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.</p><p></p><p></p><p>Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.</p><p></p><p></p><p>Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.</p><p></p><p></p><p>Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:</p><p></p><p></p><p>Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu</p><p></p><p>Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.</p><p></p><p></p><p>Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.</p><p></p><p></p><p>Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:</p><p></p><p></p><p>"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,</p><p></p><p>Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."</p><p></p><p></p><p>"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".</p><p></p><p></p><p>Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.</p><p></p><p></p><p>Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:</p><p></p><p></p><p>Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,</p><p></p><p>Mênh mông không một chuyến đò ngang.</p><p></p><p>Không cần gợi chút niềm thân mật,</p><p></p><p>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.</p><p></p><p></p><p>Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:</p><p></p><p></p><p>Mênh mông không một chuyến đò ngang</p><p></p><p>Không cầu gợi chút niềm thân mật.</p><p></p><p></p><p>Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.</p><p></p><p></p><p>Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:</p><p></p><p></p><p>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</p><p></p><p>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.</p><p></p><p></p><p>Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:</p><p></p><p></p><p>Mặt đất mây đùn cửa ải xa.</p><p></p><p></p><p>Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.</p><p></p><p></p><p>Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.</p><p></p><p></p><p>Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:</p><p></p><p></p><p>Lòng quê dợn dợn vời con nước,</p><p></p><p>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.</p><p></p><p></p><p>"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.</p><p></p><p></p><p>Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.</p><p></p><p></p><p>Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.</p><p></p><p></p><p>Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.</p><p></p><p></p><p>Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.</p><p></p><p> Người đã gọi dậy cái buồn của Á Đông, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy ngàn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thành, Thi nhân Việt Nam). Người đó, không ai khác ngoài Huy Cận. Nhà thơ đã nhìn thấy “tràng giang” của cuộc đời và tắm mình trong “tràng giang” của nỗi buồn – thiên cổ:</p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Con thuyền xuôi mái nước song song.</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Thuyền về nướclại sầu trăm ngả,</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Củi một cành khô lạc mấy dòng</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Nỗi buồn từ lâu đã trở thành một phạm trù quen thuộc của thi ca. Đối với các nhà thơ lãng mạng của phong trào Thơ mới thì nỗi buồn càng trở nên sâu sắc. Họ nhìn thấy xuân mà buồn “vội vã”, tả cảnh trăng mà buồn “đau đớn”, thấy nắng, gió, mây, trời… đều nhuốm một nỗi buồn bâng khuâng, khó tả. Và, Huy Cận là người buồn nhất. Ông bước vào hội “Tao đàn” bằng ngọn lửa thiêng mà mỗi ánh sáng và hơi thở của nó lan toả một nỗi buồn càng luác càng sầu não. Tràng giang thật đúng như tên gọi của nó, là một nỗi buồn vô hạn, vô định và vô chừng.</p><p></p><p> Một bài thơ hữu hạn của câu chữ mà chứa đựng được cái vô hạn của lòng người. Có gì rộng lớn và mênh mông cho bằng Tràng giang? Có gì phù hợp để diễn tả nỗi niềm tràng giang hơn là cảnh “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Bài thơ bắt đầu là “sóng” và kết thúc là “khói”. Chỉ có “sóng” mới “gợn” mới được tất cả những cung bậc của lòng người qua thời gian. Chỉ có “khói” mới diễn tả hết nỗi sầu bâng khuâng vạn kiếp: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Đọc hai câu thơ:</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Nắng xuống, trời nên, sâu chót vót</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p> Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> Mới thấy hết đời người cô đơn và bé nhỏ làm sao! Trời sâu làm người ta vô vọng. Sông dài khiến lòng người quạnh hiu… khung cảnh của Tràng giang, nhìn quanh bốn phía đều thấy: “Mênh mông không một chuyến đò ngang” hay “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Con người vốn đã cô đơn mà hình như cảnh vật lại càng đơn côi, lạnh lẽo!</p><p></p><p></p><p> Ngoài ra, Tràng giang còn diễn tả một nỗi buồn vô định. Vô định vì nhìn đâu cũng toàn thấy nỗi buồn. Buồn trên từng con sóng, con thuyền. Buồn ngấm vào từng cành củi khô. Buồn lan ra cồn cỏ, bến sông. Thấy bèo trôi cũng buồn. Mà nhìn thấy cánh chim nghiêng cũng buồn vời vợi… Vạn vật như những linh hồn đơn côi, bé nhỏ, trôI lạc giữa dòng tràng giang, mang trên mình một nỗi buồn riêng, một tâm sự riêng. Và thiên chức của thi sĩ là “đi lượm lặt những chút buồn rơi rắc để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não”. Góp những nỗi buồn để tạo ra nỗi buồn, nỗi buồn lớn lại tan ra thành muôn và con sóng nhỏ. Cứ thế nỗi buồn tràn lan và vô định…</p><p></p><p>Tràng giang hội tụ những sắc màu cổ điển, đồng thời cũng khơi đậy cảm quan mới của con người đầu thế kỉ. Đó là một cảm quan về một nỗi buồn vô chừng. Đâu cần đợi có khói mà nhà thơ mới chạnh nỗi nhớ quê nhà?</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="bichngoc, post: 33710, member: 1814"] BÀI 4: HẦU TRỜI Tản Đà 1. Tác giả & Tác phẩm Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ra bên núi Tản sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Tây) nên lấy bút danh là Tản Đà. Tản Đà sinh ra trong một gia đình nhà nho có truyền thống khoa bảng và văn học nghệ thuật. Là con trai của quan án sát tỉnh Ninh Bình Nguyễn Danh Kế và một đào nương tên là Nhữ Thị Nghiêm, vì vậy Tản Đà không chỉ say mê ca trù mà còn rất am hiểu về nhạc dân gian. Ông thành thạo xẩm, chèo và cải lương đồng thời thông tỏ về từ khúc (nhạc cung đình Trung Quốc). Tản Đà là đại diện tiêu biểu của kiểu nhà nho tài tử buổi giao thời, là người đầu tiên "mang văn chương ra bán phố phường". Sáng tác của Tản Đà thể hiện một cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Tản Đà viết cả văn và làm thơ nhưng ông nổi tiếng với tư cách nhà thơ hơn. Thơ Tản Đà mang màu sắc cổ điển về hình thức và mới mẻ về nội dung, ông được gọi là cầu nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Là thi sĩ tài hoa và đa tình, ông viết nhiều về tình yêu. Đồng thời thơ Tản Đà còn thể hiện tính dân tộc rõ nét từ hình thức đến nội dung. Trong thơ ông, lòng yêu nước, yêu quê hương được biểu hiện rất phong phú và đa dạng, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp. Tác phẩm chính : Về thơ có Khối tình con I, II, III, Còn chơi, Thơ Tản Đà... Về văn xuôi có Giấc mộng lớn, Giấc mộng con I, II, Tản Đà văn tập... Hầu trời được xếp trong tập Còn chơi (1921) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự sự, kể một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ cho trời nghe. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và thái độ của nhà thơ về nghề văn, về cuộc đời. 2/ Phân tích Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục : nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình. Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh : Đêm qua chẳng biết có hay không, ... Thật được lên tiên - sướng lạ lùng. Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin : Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời. Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời. Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo : gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên : Đương cơn đắc ý đọc đã thích Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi. Văn dài, hơi tốt ran cung mây !... Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu. Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”(đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân : Trời lại phê cho : “Văn thật tuyệt Văn trần được thế chắc có ít !... Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !” Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình : - “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu Đày xuống hạ giới vì tội ngông.” Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại : Trời rằng : “Không phải là Trời đày, Trời định sai con một việc này Là việc “thiên lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay.” Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn. Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình. Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ - câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ. Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định. BÀI 5: VỘI VÀNG Xuân Diệu "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết"([1] ) . Đó là nhận xét của hai nhà nghiên cứu Hoài Thanh và Hoài Chân về những cảm xúc về cuộc đời luôn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, thơ ông luôn thể hiện một cách chân thực, nồng nàn và hiện đại nhất những trạng thái cảm xúc của con người trước cuộc sống. Vội vàng là tiếng nói sôi nổi, hăm hở của một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt và là tuyên ngôn cho một quan niệm sống, triết lí sống được thể hiện bằng những hình tượng thơ thấm đẫm cảm xúc. Đây là bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái Tôi thơ mới nói chung mà lại in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu, vừa rất tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo của nghệ thuật thơ ông. Vội vàng là một bài thơ được xem là thành công và tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế vẻ đẹp cuộc sống, đồng thời thể hiện một quan niệm sống, một triết lí nhân sinh tích cực. Trong không gian văn hoá và điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam những năm ba mươi của thế kỉ XX mà một người thanh niên đang ở tuổi đôi mươi có thể có những vần thơ rạo rực và triết lí sâu sắc như Vội vàng là một minh chứng thuyết phục cho tài năng được đánh giá là “một trong ba đỉnh cao của thơ mới”. Bài thơ đã mang đến cho bản nhạc đượm buồn và đậm chất đau thương, tuyệt vọng của thơ mới một khúc ca tràn đầy hi vọng. 1. Tác giả & tác phẩm Xuân Diệu (1916 1985) tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là thầy đồ xứ Nghệ (quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh), mẹ ông quê Bình Định. Xuân Diệu được thừa hưởng sự uyên thâm, cần cù của nhà nho ở người cha ; là trí thức Tây học, ông được hấp thụ những tinh hoa văn hoá phương Tây. Vì thế, thơ ca Xuân Diệu là sự kết hợp hài hoà hai yếu tố Đông Tây, trong đó yếu tố Tây học được tiếp thu trong nhà trường chính thức có ảnh hưởng đậm hơn. Sau một thời gian làm công chức ở Mĩ Tho, ông thôi việc ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Xuân Diệu bí mật tham gia Hội Văn hoá cứu quốc năm 1943. Năm 1946 được bầu là Uỷ viên quốc hội khoá một của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Suốt từ đó cho đến khi mất, ông từng là uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam, uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam nhiều khoá. Đóng góp lớn nhất của Xuân Diệu cho đất nước vẫn là sự nghiệp thơ văn. Ông đã từng đi nói chuyện thơ (hàng trăm buổi) cho nhiều đối tượng nghe. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức. Ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Vội vàng là bài thơ tiêu biểu nhất cho nét phong cách nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Tác phẩm được rút trong tập Thơ thơ, tập thơ xuất sắc và tiêu biểu nhất cho thơ Xuân Diệu trước Cách mạng. Bài thơ thể hiện một tình yêu cuộc sống tha thiết, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. So với thơ ca truyền thống, bài thơ mới mẻ về cả tư tưởng và thi pháp. Tình yêu cuộc sống tha thiết mãnh liệt đã dẫn đến quan niệm sống hết mình, sống bằng mọi giác quan. Cái cuống quýt vội vàng trong cách sống mà Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ không phải là lối sống vội vàng, hưởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình. Có thể hiểu nội dung này theo bố cục hai phần của bài thơ : Phần 1 (30 câu thơ đầu) : tập trung luận giải các lí do vì sao phải vội vàng ở đó chứa đựng một quan niệm triết học về vũ trụ, nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống. Cuộc đời tươi đẹp và vô hạn, thời gian của con người là hữu hạn. Phần 2 (đoạn thơ còn lại) : giải pháp sống. Vì cuộc sống vô cùng tươi đẹp như vậy nên phải sống thật nhiệt thành, phải hết mình, hoà mình cùng thiên nhiên, cùng cuộc đời thì mới cảm nhận hết ý nghĩa của sự sống. Quan niệm mới mẻ của nhà thơ thể hiện ở hệ thống hình ảnh thơ mới lạ, nhiều sắc màu và tràn đầy cảm xúc. Bài thơ là tiếng ca thúc giục mọi người, nhất là những người trẻ tuổi hãy hết mình với cuộc đời, sống thật nhiều và thật có ý nghĩa. 2. Phân tích a. Những khát khao tận hưởng cuộc sống trần thế Với giọng điệu thôi thúc, cảm xúc gọi nhau tuôn trào từ câu đầu đến câu cuối, Vội vàng lôi cuốn người đọc ngay từ những dòng đầu tiên. Bài thơ mở đầu rất đột ngột bằng một khát vọng lớn : Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất ; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Khát vọng được nhấn mạnh bởi sự lặp lại cấu trúc “Tôi muốn...” trong một đoạn bốn câu thơ năm chữ. Nhịp thơ và cấu trúc ấy đã gợi vẻ cuống quýt, vội vàng. Nội dung của ý muốn ấy lại càng độc đáo, đó là “tắt nắng” và “buộc gió”. Đó là khát vọng níu giữ những vẻ đẹp của cuộc đời. “Màu” và “hương” là những tinh tuý của đất trời. Nhà thơ muốn níu giữ lại vẻ đẹp đó. Nhưng “tắt nắng”, “buộc gió” là điều không thể thực hiện. Ngay những dòng thơ đầu tiên đã phảng phất sự bất lực và nuối tiếc của nhân vật trữ tình. Và cũng ngay ở đây, cái Tôi cá nhân của thi sĩ đã xuất hiện với tư thế chủ động trước cuộc đời. Những câu thơ tiếp theo lí giải cụ thể nguyên nhân dẫn đến khát vọng có vẻ “ngông cuồng” ở những câu đầu. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được miêu tả sinh động và đáng yêu : Của ong bướm này đây tuần tháng mật, Này đây hoa của đồng nội xanh rì, Này đây lá của cành tơ phơ phất ; Của yến anh này đây khúc tình si ; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ; Biện pháp điệp từ lại xuất hiện. Này đây có tính chất như một lời liệt kê, một sự xác nhận về sự hiện hữu của những sự vật được nói tới. Tất cả các sự vật ấy lại đều đang ở thì đẹp nhất, tươi non nhất : tuần tháng mật, đồng nội xanh rì, cành tơ, khúc tình si... Mùa xuân được hiện ra bằng vẻ đẹp của tháng giêng tràn trề sức sống xuân thì và tình tứ giao hoà quấn quýt. Ong bướm, hoa cỏ, chim muông, âm thanh và ánh sáng... hiện ra qua những hình ảnh nhân hoá đều tràn đầy hạnh phúc, tươi non mơn mởn, dạt dào sức sống trong một thế giới ngất ngây mộng ảo. Trong con mắt xanh non háo hức của thi nhân, ngày tháng trở thành "tuần tháng mật", âm thanh của thiên nhiên trở thành những giai điệu vô cùng tình tứ. Ta đã từng nghe đến "khúc nhạc hường", "khúc nhạc thơm" (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn) và giờ đây là một "khúc tình si". Còn ánh bình minh lại hiện lên độc đáo qua hàng mi dài của người thiếu nữ chớp mắt làm duyên - "ánh sáng chớp hàng mi". Nhịp thơ dồn dập, điệu thơ, ý thơ không dứt đã diễn tả được sự vui mừng, niềm khao khát đến cuống quýt của nhân vật trữ tình trước vẻ hấp dẫn của thiên nhiên. Và bức tranh thiên nhiên muôn màu muôn vẻ hiện lên đẹp và tràn đầy sức sống. Xuân Diệu đã chọn từ ngữ, hình ảnh và cách diễn đạt giàu tính hình tượng, gợi cảm và rất hiện đại để bộc lộ những cảm nhận tinh tế của mình về cuộc sống. Cao trào của cảm xúc đã giúp nhà thơ sáng tạo nên một hình ảnh thật đắt về vẻ đẹp của thiên nhiên : Tháng giêng ngon như một cặp môi gần Đây là một hình ảnh so sánh táo bạo và độc đáo, nó cũng thể hiện được quan điểm thẩm mĩ hiện đại của Xuân Diệu. Quan điểm này trái ngược với quan điểm của thơ ca truyền thống. Nhà thơ đã dùng vẻ đẹp của con người, thậm chí rất con người (cặp môi gần) để diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhà thơ đã cụ thể hoá cái khao khát của con người và vẻ đẹp của tự nhiên với từ ngon. C hữ ngon được dùng rất tài hoa. Nhà thơ cảm nhận cái đẹp của mùa xuân không phải bằng thị giác mà bằng cả vị giác, xúc giác, bằng cả tâm hồn luôn "thức nhọn giác quan" để sáng tạo nên một hình ảnh thơ khoẻ khoắn đầy sức sống không chỉ biểu thị niềm vui say ngất ngây trước thiên nhiên mà còn thể hiện một quan điểm mĩ học mới : Con người là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ, vẻ đẹp con người trần thế là tác phẩm kì diệu của hoá công, thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất là vì có con người giữa tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu. Tháng giêng là mùa xuân, mùa của sự đâm chồi nảy lộc, của sự hồi sinh, và đây là thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở. Cho nên với thi sĩ, xuân luôn là thời gian đẹp nhất trong năm. Và để thể hiện điều đó, Xuân Diệu đã chọn một hình ảnh so sánh thật đắt. Bức tranh thiên nhiên ấy đã đủ cho thấy nhà thơ yêu cuộc sống đến nhường nào ! Nhà thơ viết tiếp : Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa : Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Câu thơ đượm màu triết lí. Sau phút giây để cảm xúc thăng hoa cùng vẻ đẹp của đất trời, xúc cảm của nhân vật trữ tình tạm lắng xuống và chuyển sang chiều hướng suy tư. Nhà thơ đã hình ảnh hoá triết lí ấy : không thể để những điều tốt đẹp (xuân) qua đi rồi mới thấy nuối tiếc. Tâm trạng “nắng hạ mới hoài xuân” là tâm trạng rất phổ biến của con người. Bởi thông thường, trong cuộc sống, con người thường không coi trọng những gì mình đang có, chỉ khi nó đã qua đi mới thấy nó có ý nghĩa quan trọng và lại nuối tiếc. Vậy “xuân” không chỉ là hình ảnh khái quát cho những vẻ đẹp của thiên nhiên đã được nhà thơ nói đến ở đoạn thơ trên mà có ý nghĩa khái quát chỉ tất cả những gì mà tạo hoá ban tặng cho con người. b. Quan niệm chạy đua với thời gian và triết lý sống gấp gáp tận hưởng của tác giả Mỗi bài thơ của Xuân Diệu bao giờ cũng là một mạch cảm xúc liên tục. ý thơ nọ gọi và nối với ý thơ kia bằng một mối liên kết tinh tế. Sau triết lí rất khái quát ấy là những dòng lí giải tại sao phải vội vàng : Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Và xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Những câu thơ là lời bộc bạch chân thành của chủ thể trữ tình. Đoạn thơ tập trung thể hiện và lí giải quan niệm mới của nhà thơ về thời gian. Theo đó, thời gian trôi đi thì không bao giờ trở lại. Nhà thơ đặt thời gian của vũ trụ trong mối quan hệ với thời gian của đời người để giảng giải quan niệm về sự không tuần hoàn của vạn vật : Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại ! Đúng vậy, có thể trời đất còn mãi nhưng con người không thể sống hai lần nên sự tuần hoàn ấy là vô nghĩa. Mọi người vẫn nói, Xuân Diệu là nhà thơ của “cảm thức về thời gian” quả không sai. Nhà thơ rất nhạy cảm với những bước đi vô hình của thời gian. Vì thế, mỗi thời khắc qua đi là một cuộc chia li đầy nuối tiếc và cảm giác mất mát tràn ngập trong tâm hồn thi sĩ. Nhạy cảm về sự mất mát đến mức cảm nhận được cả “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi - Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” . Tâm trạng của con người đã thấm sang cả cảnh vật. Thiên nhiên được nhân hoá, cũng biết hờn, biết sợ như con người. Tình yêu thiết tha đối với cuộc sống đã khiến chủ thể vội vàng, cuống quýt đến gần như bị ám ảnh. Nó cho thấy con người ấy yêu cuộc sống và quý trọng những giây phút của cuộc đời đến nhường nào. Thái độ ấy của thi nhân thể hiện một quan điểm sống rất tích cực và tiến bộ. Vội vàng không có nghĩa là chỉ lo hưởng thụ, là sống gấp, mà là sống hết mình, sống tốt, nghĩa là phải biết quý trọng những giây phút của cuộc đời mình để khi thời gian trôi đi không còn phải nuối tiếc quá nhiều. Nhà thơ đã cất tiếng giục giã : Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm Thời gian vẫn còn, cuộc sống vẫn luôn rất đáng yêu vì thế hãy sống bằng mọi giác quan, bằng cả trái tim và khối óc, để hưởng tụ cuộc sống quý giá này. Khổ thơ cuối cùng đã diễn tả đặc biệt thành công khát vọng sống đang sôi trào mạnh mẽ trong trái tim thi sĩ trẻ : Ta muốn ôm... Từ Tôi muốn đã chuyển thành Ta muốn, thể hiện sự tăng tiến của khát vọng. Lúc đầu còn e dè, là “tắt nắng”, “buộc gió”. Khát vọng lớn nhưng còn trừu tượng và chung chung. Và dường như chỉ mới dừng lại ở khát vọng níu giữ vẻ đẹp cuộc sống. Còn bây giờ là khát khao hưởng thụ. Và khao khát đó trào dâng rất mãnh liệt. c. Một cái tôi ý thức ráo riết về giá trị đời sống của một cá thể, một tâm thế sóng cuồng nhiệt tích cực Cảm xúc đó được thể hiện ở việc chọn dùng từ, cấu trúc, biện pháp tu từ trong đoạn thơ cuối cùng : Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi ; Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi ! Đoạn thơ xuất hiện hàng loạt động từ và đều là động từ mạnh cùng với những tính từ có khả năng biểu hiện cảm xúc mạnh đã bộc lộ được trạng thái cảm xúc cao trào của nhân vật trữ tình. Dường như anh muốn hoà tan mình vào đất trời cây cỏ. Niềm khao khát sống, khao khát giao cảm với đất trời và cuộc đời được bộc lộ mạnh mẽ nhất ở câu thơ cuối : Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi ! Có lẽ chỉ có Xuân Diệu với một tình yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt say mê mới có thể táo bạo và tạo được sự thăng hoa cảm xúc tới mức này. Không còn là ôm, là riết nữa mà là cắn. Xuân Diệu đã sáng tạo cho thơ Việt Nam một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo và đã chứng minh rằng tình yêu cuộc sống có thể đẩy cảm xúc của thi nhân đến đỉnh cao của sáng tạo. Vội vàng là một dòng cảm xúc chân thành thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ. Giọng điệu, hình thức câu thơ thay đổi linh hoạt với một thế giới hình ảnh đa dạng và phong phú đã tạo nên sức hấp dẫn của thi phẩm. Xuân Diệu đã sáng tạo một hình thức độc đáo để thể hiện những triết lí nhân sinh và quan niệm sống tích cực và sâu sắc. Đặt bài thơ trong không khí của Thơ mới thì mới cảm nhận được tình yêu cuộc sống của nhà thơ mãnh liệt đến chừng nào. Những sáng tạo của Xuân Diệu trong Vội vàng đã góp phần đánh dấu bước phát triển mới của thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Cái Tôi cá nhân vốn còn xuất hiện dè dặt trong thơ ca truyền thống, đến Xuân Diệu đã có những bước đi đàng hoàng và chắc chắn lên văn đàn văn học Việt Nam. 3. Kết luận Vội vàng chất chứa một tình yêu cuộc sống thiết tha, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Cái cuống quýt vội vàng trong cách cảm , cách nghĩ mà Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ không phải là lối sống hưởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình dành tất cả cho cuộc đời. Mạch cảm xúc hối hả tuôn trào như một dòng chảy kết hợp với mạch luận lí chặt chẽ làm nên chiều sâu của thi tứ. Nhạc điệu say mê hối hả giục giã cùng với những hình ảnh sáng tạo độc đáo tươi mới đã làm nên cái riêng chưa từng có trong hồn thơ Xuân Diệu. ĐỀ VĂN THAM KHẢO: Phân tích bài thơ Vội vàng BÀI LÀM Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ:Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mấtTôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay điCon người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh ta có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình thường của tạo hoá. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:Đương lúc hoàng hôn xuốngLà giờ viễn khách điNước đượm màu li biệtTrời vương hương biệt li(Viễn khách)Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân.Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian:Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửaChưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”! Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế.Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc:Tháng Giêng ngon như một cặp môi gầnMùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực:Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaNhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:Xuân đang tới nghĩa là xuân đang quaXuân còn non nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý` niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giớ i của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la:Ai người trước đã quaAi người sau chưa lạiNgẫm trời đất thật vô cùngRiêng lòng đau mà lệ chảy(Bản dịch Đăng U Châu đài ca)Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “bâng khuân”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa xuân: Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa? Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận “nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại dừng” (Chinh phụ ngâm), tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng năm”, không gian “sông núi than” đến “cơn gió xinh hờn tủi”, chim “đứt tiếng”… Cảm quan lãng mạn cùng hoà với suy tư về bản thân đã khắc hoạ độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như san sẻ nỗi niềm của thi nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại.Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này. trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí củanhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống.Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời:Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởnTa muốn riết mây đưa và gió lượnTa muốn say cánh bướm với tình yêuTa muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước và mây và cỏ rạngCho chếnh choáng mùi hương cho đã đầy ánh sángCho no nê thanh sắc của thời tươi - Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình.Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và ông đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:Trong hơi thở chót dâng trời đấtCũng vẫn si tình đến ngất ngư(Không đề - 1983)Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con Người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi châ nthành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ yêu đời mê đắm. BÀI 6: TRÀNG GIANG Huy Cận 1. Tác giả & tác phẩm Huy Cận (1919 2005) tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo, gốc làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước, từ đó tích cực tham gia các phong trào văn nghệ phục vụ cách mạng và giữ các chức vụ quan trọng trong Chính phủ và trong Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Năm 2001, Huy Cận được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Thơ Huy Cận trước Cách mạng nổi tiếng với tập Lửa thiêng, tập thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng, đó là một nỗi buồn mênh mang, da diết. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, tạo cảm giác cô đơn rợn ngợp. Trước vũ trụ bao la, con người thật nhỏ bé và cô đơn. Đó là tâm trạng chung của các nhà thơ mới. Tâm trạng của thế hệ thanh niên rơi vào tình trạng không tìm ra ý nghĩa cuộc đời, trong họ luôn chứa chất tâm sự thời cuộc. Sau Cách mạng, thơ Huy Cận vui hơn, hoà cùng niềm vui chung của toàn dân tộc. Bài thơ Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng. Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp thơ ca cổ điển và tâm sự thời đại. Vẻ đẹp cổ điển : Bức tranh thiên nhiên trời rộng, sông dài, sơn thuỷ hữu tình nhưng vắng lặng đìu hiu. Cảnh vật gợi nỗi buồn, sự cô đơn, con người nhỏ bé trước thiên nhiên bao la. Bài thơ sử dụng nhiều yếu tố có tính chất tương phản. Cảnh vật gợi nhiều tâm trạng. Tâm trạng nhân vật trữ tình là tâm trạng buồn, cô đơn, nhớ quê hương. Đứng giữa quê hương vẫn khắc khoải nỗi nhớ quê hương là tâm trạng chung của tất cả các nhà thơ mới. Cô đơn và nhỏ bé trước cuộc đời nên luôn khát khao được giao cảm với đời. Bài thơ còn gợi tả tâm sự ấy. Bài thơ có bốn khổ, mỗi khổ như một bài thơ tứ tuyệt Đường thi, khổ nào cũng mênh mông sóng nước và dờn dợn một nỗi buồn sầu. Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn, cô đơn, trống vắng. Đó là nỗi buồn của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước Cách mạng. 2. Phân tích Cả bốn câu thơ ở khổ 1 đều tả cảnh nhưng mỗi cảnh lại mang một sắc thái khác nhau. ở hai câu đầu, cảnh vật được gợi tả khá quen thuộc, bình dị, tự nó không có gì đáng buồn : sóng nước, thuyền trôi... "Sóng gợn" là do gió, nhưng khi thêm cụm từ buồn điệp điệp thì sóng ấy đâu còn là hình ảnh thiên nhiên mà là sóng ở trong lòng người. Con sóng có thật của Tràng giang vỗ vào nỗi hiu hắt, cô đơn trở thành nỗi buồn "điệp điệp". Một nỗi buồn âm thầm, da diết khôn nguôi cứ trải ra liên tiếp theo những lớp sóng nối đuôi nhau không dứt trên dòng tràng giang. Cụm từ nước song song cũng là một cấu tứ lạ đăng đối với buồn điệp điệp ở câu trên như để nhấn thêm nỗi buồn. Hình ảnh thơ gợi lên nỗi niềm của cả một thế hệ với biết bao sầu thương, ảo não. Sang đến hai câu sau tình buồn bắt gặp cảnh buồn với cái "sầu trăm ngả" của những chuyển động ngược chiều, ngược hướng "thuyền về, nước lại" và hình ảnh nổi trôi phiêu dạt của một cành củi khô lạc giữa mấy dòng nước. Hình ảnh cành củi ấy gợi lên những ám ảnh về thân phận nhỏ nhoi, phiêu dạt, lạc loài. Nhịp câu thơ trúc trắc (1 - 3 - 1 - 2) phá cách thơ thất ngôn cổ điển cùng phép đảo ngữ, tương phản cũng góp phần nhấn mạnh tâm trạng của nhân vật trữ tình. Sang đến khổ 2, tầm nhìn rộng hơn, một không gian bao la, cái nhỏ bé vẫn tương phản với cái mênh mông vô cùng. Bức tranh sông nước có thêm vài nét chấm phá với những thi liệu quen thuộc của bài thơ cổ : cồn cát, gió đìu hiu, thuyền - bến cô liêu... Hai từ láy lơ thơ và đìu hiu được dùng rất nhiều rất đắt vừa có giá trị tạo hình vừa giàu khả năng biểu đạt tâm trạng, lại gợi màu sắc cổ kính, gợi hơi hướng cổ thi. Âm thanh tiếng chợ chiều đã vãn nơi làng xa vẳng lại càng gợi buồn. Nó mơ hồ xao xác quá và gợi không khí tàn tạ, vắng vẻ. Có lẽ đây là âm thanh vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khát khao của nhà thơ. Câu thơ thứ 3, thứ 4 mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của nắng xuống, trời lên, sông dài, bến vắng cô liêu càng làm cho cảnh thêm buồn, tâm trạng thêm cô đơn. Khổ thơ thứ ba, vẻ đìu hiu hoang vắng của cảnh vật được tô đậm hơn đến mức dường như không còn dấu vết của sự sống khiến nỗi buồn được đẩy lên đến tột cùng với điệp từ không, giọng thơ như hụt hẫng. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người, "không một chuyến đò", không có lấy một cây cầu nối liền đôi bờ để có thể tạo nên sự gắn kết con người với nhau. Khổ thơ cuối miêu tả cảnh hoàng hôn và thể hiện tâm trạng buồn nhớ quê hương của con người - một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển hình của thi ca cổ điển. Cảnh bầu trời cao rộng êm ả lúc chiều tà được chấm phá theo bút pháp Đường thi với hai hình ảnh "đám mây" và "cánh chim" - những thi liệu quen thuộc trong thơ ca trung đại phương Đông. Hình ảnh tương phản giữa cánh chim (cánh chim đã nhỏ lại nghiêng nên càng nhỏ nhoi hơn) và bầu trời gợi cảm giác cô đơn, nhỏ bé và rợn ngợp. Không gian ấy là cái nền để nhân vật trữ tình thể hiện nỗi nhớ quê hương. Nỗi nhớ mênh mang vời vợi, "dợn dợn" trải dài như những con sóng nối đuôi nhau chạy đến vô tận, vô cùng. Về câu thơ đề từ (Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài) : Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn, đây chính là nỗi buồn (bâng khuâng là có những cảm xúc ngỡ ngàng, luyến tiếc, nhớ thương đan xen nhau) trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát (trời rộng, sông dài). Về hình thức tổ chức câu thơ và việc sử dụng lời thơ trong các cặp câu : - Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. - Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót, Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Cả hai cặp câu thơ trên, về hình thức tổ chức câu thơ cũng như sử dụng lời thơ, đều có sự vận dụng và phát huy một cách sáng tạo những yếu tố cổ điển Đường thi để thể hiện tâm tư của cái tôi thơ mới. Cách tổ chức câu thơ tuân theo phép đối ngẫu phổ biến của thơ Đường. Chúng đều là những cặp câu đối nhau. Tuy nhiên, dạng thức mẫu mực của đối, theo quan niệm cổ điển, là phải đối nhau triệt để (đối câu, ý, chữ, âm...). ở đây, Huy Cận chỉ mượn nguyên tắc tương xứng của đối, chứ không đẩy lên thành đối chọi. Vì thế, câu thơ tạo ra vẻ cân xứng trang trọng, mở ra được các chiều kích vô biên của không gian, mà không gây cảm giác gò bó, nệ cổ. Nghĩa là, một nét thi pháp cổ điển Đường thi đã được cách tân để phù hợp với tâm lí hiện đại. Cách sử dụng lời thơ cũng vậy. Có những ngôn từ được dùng theo lối thơ Đường, cụ thể là học theo lối dùng từ láy, theo lối song song của Đỗ Phủ trong bài Đăng cao ở cặp câu : Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ Bất tận trường giang cổn cổn lai. Có lối dùng những cụm từ theo cấu trúc thành ngữ bốn tiếng, cả về âm thanh, cả về ý nghĩa : sóng gợn tràng giang, con thuyền xuôi mái, nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng... Có lối tạo từ theo phong cách cổ điển : bến cô liêu. Có lối "lạ hoá" ngôn từ : sâu chót vót. Chót vót vốn là một từ được dùng để diễn tả chiều cao, ở đây được dùng để biểu đạt chiều sâu. Trước Huy Cận chưa thấy dùng như thế. Điều này có vẻ vô lí. Nhưng cái lí của việc sáng tạo này là ở chỗ : tác giả không muốn dừng tầm nhìn ở vòm trời, đỉnh trời mà xuyên sâu vào đáy đáy vũ trụ. Cái tôi ấy càng thấy bơ vơ hơn trước cái vô biên đến rợn ngợp như thế. Vì vậy, chiều cao đã chuyển hoá thành chiều sâu một cách thật tự nhiên. Những hình ảnh "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa" được dùng thật sáng tạo, vừa gợi hình vừa gợi cảm. Trước hết, đó là những hình ảnh nghiêng về tả thực, bằng những chi tiết sống động. Chúng giúp cho thi sĩ tái hiện diện mạo chân thực của sông nước tràng giang cũng như cảnh không trung lúc hoàng hôn. Thủ pháp bao trùm đều là tương phản: hữu hạn – vô hạn, nhỏ nhoi – lớn lao, hữu hình – vô hình. Nhờ đó, người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên thật sinh động và sắc nét. Cả hai hình ảnh nghệ thuật đều gợi ra thân phận bơ vơ, chìm nổi, vô định của những cá thể nhỏ nhoi giữa tạo vật thiên nhiên mênh mông hiu quạnh. Đối diện với những cá thể ấy, con người không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình. Nó cũng là một cá thể bơ vơ, trôi dạt trong cái vô cùng, vô tận của không gian, cái vô thủy vô chung của thời gian. 3. Kết luận Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là nỗi buồn non nước thể hiện lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của một lớp thanh niên trong chế độ cũ. Cảm hứng xuyên suốt Tràng giang là nỗi buồn triền miên vô tận, là nỗi sầu nhân thế. Xuân Diệu khẳng định : "Tràng Giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước ... dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc sau này". Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ XX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thi ca dân tộc. Trong sáng tác của ông, người ta dễ dàng cảm nhận được dấu ấn Đường thi, cũng như thơ tượng trưng Pháp. Có điều đáng chú ý là chúng đã được Việt hoá một cách nhuần nhị. Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng giang Bài làm: Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc. Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp .... Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng. Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại. Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi. Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng. Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông: "Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, Sông dài, trời rộng, bến cô liêu." "Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu". Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu: Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng, Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cần gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết: Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật. Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào. Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ: Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển. Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại: Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. "Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước. Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay. Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường. Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được. Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương. Người đã gọi dậy cái buồn của Á Đông, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy ngàn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thành, Thi nhân Việt Nam). Người đó, không ai khác ngoài Huy Cận. Nhà thơ đã nhìn thấy “tràng giang” của cuộc đời và tắm mình trong “tràng giang” của nỗi buồn – thiên cổ: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nướclại sầu trăm ngả, Củi một cành khô lạc mấy dòng Nỗi buồn từ lâu đã trở thành một phạm trù quen thuộc của thi ca. Đối với các nhà thơ lãng mạng của phong trào Thơ mới thì nỗi buồn càng trở nên sâu sắc. Họ nhìn thấy xuân mà buồn “vội vã”, tả cảnh trăng mà buồn “đau đớn”, thấy nắng, gió, mây, trời… đều nhuốm một nỗi buồn bâng khuâng, khó tả. Và, Huy Cận là người buồn nhất. Ông bước vào hội “Tao đàn” bằng ngọn lửa thiêng mà mỗi ánh sáng và hơi thở của nó lan toả một nỗi buồn càng luác càng sầu não. Tràng giang thật đúng như tên gọi của nó, là một nỗi buồn vô hạn, vô định và vô chừng. Một bài thơ hữu hạn của câu chữ mà chứa đựng được cái vô hạn của lòng người. Có gì rộng lớn và mênh mông cho bằng Tràng giang? Có gì phù hợp để diễn tả nỗi niềm tràng giang hơn là cảnh “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Bài thơ bắt đầu là “sóng” và kết thúc là “khói”. Chỉ có “sóng” mới “gợn” mới được tất cả những cung bậc của lòng người qua thời gian. Chỉ có “khói” mới diễn tả hết nỗi sầu bâng khuâng vạn kiếp: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Đọc hai câu thơ: Nắng xuống, trời nên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Mới thấy hết đời người cô đơn và bé nhỏ làm sao! Trời sâu làm người ta vô vọng. Sông dài khiến lòng người quạnh hiu… khung cảnh của Tràng giang, nhìn quanh bốn phía đều thấy: “Mênh mông không một chuyến đò ngang” hay “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Con người vốn đã cô đơn mà hình như cảnh vật lại càng đơn côi, lạnh lẽo! Ngoài ra, Tràng giang còn diễn tả một nỗi buồn vô định. Vô định vì nhìn đâu cũng toàn thấy nỗi buồn. Buồn trên từng con sóng, con thuyền. Buồn ngấm vào từng cành củi khô. Buồn lan ra cồn cỏ, bến sông. Thấy bèo trôi cũng buồn. Mà nhìn thấy cánh chim nghiêng cũng buồn vời vợi… Vạn vật như những linh hồn đơn côi, bé nhỏ, trôI lạc giữa dòng tràng giang, mang trên mình một nỗi buồn riêng, một tâm sự riêng. Và thiên chức của thi sĩ là “đi lượm lặt những chút buồn rơi rắc để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não”. Góp những nỗi buồn để tạo ra nỗi buồn, nỗi buồn lớn lại tan ra thành muôn và con sóng nhỏ. Cứ thế nỗi buồn tràn lan và vô định… Tràng giang hội tụ những sắc màu cổ điển, đồng thời cũng khơi đậy cảm quan mới của con người đầu thế kỉ. Đó là một cảm quan về một nỗi buồn vô chừng. Đâu cần đợi có khói mà nhà thơ mới chạnh nỗi nhớ quê nhà? [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 11
Tài liệu ôn tập Văn 11 học kỳ II
Top