Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 8117" data-attributes="member: 7"><p><strong>LẦU NĂM GÓC ĐÃ NHẬN ĐUỢC TIN CUỘC TẬP KÍCH SƠN TÂY THẤT BẠI NHƯ THẾ NÀO?</strong></p><p>Vào lúc cuộc tập kích Sơn Tây bắt đầu, nghĩa là lúc 23 giờ 25 phút ngày 20-11-1970, từ Đà Nẵng, tướng Manor điện về Lầu Năm Góc báo tin “Chiến dịch Kingpin đã mở màn” thì tại Oasinhtơn đang là buổi trưa.</p><p></p><p>Hầu như tất cả các quan chức chóp bu của Lầu Năm Góc đều có mặt tại trung tâm chỉ huy: Bộ trưởng Laird, Thứ trưởng David Parker, Cố vấn Kissinger; cùng các thống tướng Tư lệnh Không quân, Tư lệnh Thủy quân lục chiến, Tham mưu trưởng Lục quân… Họ ăn trưa ngay tại phòng làm việc. Chủ đề các câu chuyện họ nói với nhau đều không ngoài cuộc tập kích Sơn Tây… Thỉnh thoảng lại có người nhìn đồng hồ, thấp thỏm chờ đợi tin tức.</p><p></p><p>Liên tiếp 3 công điện của tướng Manor từ Việt Nam gửi về báo cáo diễn tiến tốt đẹp của của cuộc hành quân, khiến cho không khí trong phòng họp của Trung tâm chỉ huy có vẻ hân hoan và tràn trề hy vọng…</p><p></p><p>Nhưng sự hy vọng và niềm hân hoan của các tướng lĩnh tại Lầu Năm Góc cũng chỉ tồn tại trong vòng hơn 3 giờ đồng hồ. Khi công điện thứ 4 của tướng Manor gửi về báo tin “Các toán đột kích Mỹ đang rời khỏi Sơn Tây” đã khiến cho bọn họ đứng ngồi không yên. Chưa đầy 30 phút sau, một công điện cuối cùng đã bay về và dội xuống mỗi “cái đầu nóng” một “gáo nước lạnh” đến tê người: “Không giải cứu được một tù binh phi công nào!”. Nguồn tin này đã khiến cho cả Trung tâm chỉ huy như chết lặng đi. Không một ai muốn tin rằng đó là sự thật và độ chính xác của công điện mà họ vừa nhận được. Nhưng bọn họ cũng không có cách nào kiểm chứng lại, bởi vì từ giờ phút đó các toán biệt kích Mỹ đã bay ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong im lặng, liên lạc vô tuyến bị cắt hoàn toàn… </p><p></p><p>Cũng xin được kể thêm rằng: lúc đó tại Bộ chỉ huy cuộc hành quân của tướng Manor ở Đà Nẵng một không khí thất vọng ê chề cũng đang bao trùm lên tất cả. Lần đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp của viên tướng cáo già này đã nếm mùi thất bại cay đắng đến thế. Ông ta thật sự hốt hoảng và bối rối, không biết phải hành động ra sao kể từ khi nhận được bức điện của Simons: “Zero Prisoners - Không có một tù binh nào cả!“. Bức điện đó đã được thảo xong ở ngay trại giam Sơn Tây trống rỗng. Lúc đầu, chính Simons cũng lúng túng và phân vân về cách diễn đạt này, vì trong bản mật mã liên lạc của cuộc hành quân không có quy định sử dụng chữ “Zero”. Quả thật, khi nhận được nó, tướng Manor đã không hiểu gì cả, và ông ta đã vội cho điện hỏi lại, vì nghĩ rằng có thể sĩ quan truyền tin của Simons đã “quên” hoặc “bỏ sót” một hai con số trước từ “Zero”. Simons đã kiên nhẫn cho điện lại lần thứ hai nội dung y như trên, trước khi điểm danh tên lính biệt kích Mỹ cuối cùng bước lên trực thăng…</p><p></p><p>Chiếc trực thăng cuối cùng của toán tập kích Mỹ rời khỏi Sơn Tây lúc 2 giờ 44 phút ngày 21-11-1970. Nghĩa là cuộc đổ bộ chỉ diễn ra trong 27 phút, đúng theo kế hoạch.</p><p></p><p>Và 6 phút sau, một ánh chớp lóe lên cùng một tiếng nổ lớn phát ra từ trại tù binh cũ. Đó là khối chất nổ C4 cực mạnh, được cài kíp hẹn giờ, đã phá tan chiếc HH-3 trong sân trại giam…</p><p></p><p><strong>TẠI SAO TÙ BINH PHI CÔNG MỸ LẠI ĐƯỢC CHUYỂN KHỎI TRẠI GIAM SƠN TÂY TRƯỚC KHI VỤ TẬP KÍCH XẢY RA ?</strong></p><p></p><p>Đó chính là câu hỏi đã làm điên đầu các quan chức chóp bu của Lầu Năm Góc sau khi cuộc tập kích thất bại, khiến cho ông chủ của Nhà Trắng bị mang tiếng là “Tên nói dối” trước dư luận.</p><p></p><p>Thực ra, trong suốt thời gian ráo riết chuẩn bị cho chiến dịch “Bờ biển Ngà”, các chuyên gia quân sự Mỹ vẫn thường xuyên tiến hành thu thập nguồn tin tình báo, đặc biệt là phân tích các bức không ảnh do các máy bay trinh sát chụp được. Họ cũng nhận thấy: từ cuối tháng 6-1970, trại tù binh Sơn Tây đã có những biểu hiện của sự “giảm bớt sinh hoạt bên ngoài sân trại”. Trước khi vụ tập kích được tiến hành, hàng ngày trại giam Sơn Tây vẫn liên tục được chụp không ảnh vừa bằng máy thường, vừa bằng tia hồng ngoại. Các bức không ảnh bằng tia hồng ngoại cho thấy rõ ràng là đang có người trong các phòng giam. Tuy nhiên, loại phim chụp tia hồng ngoại hồi ấy có nhược điểm là không phân biệt được thân nhiệt của người Việt Nam hay người Mỹ. Về vấn đề này, Đô đốc Moore đã thú nhận: “Các tin tức tình báo của chúng tôi rất chính xác. Nhưng chúng tôi không thể xác định được tù binh Mỹ đang ở đâu, khi họ liên tục bị di chuyển. Dù sao chăng nữa thì chúng tôi vẫn phải quyết định đề nghị mở cuộc hành quân giải cứu họ”.</p><p></p><p>Một số chuyên gia DIA cho rằng các tù binh phi công Mỹ được phía Việt Nam cho sơ tán khỏi trại giam “Hy vọng” Sơn Tây chỉ vì một lý do rất đơn giản, một sự trùng lặp hết sức tình cờ: để tránh những trận lụt, do hậu quả hoạt động mưa nhân tạo, nằm trong kế hoạch “Chiến tranh thời tiết” của CIA gây ra! Vì nguyên tắc bí mật, nên các chuyên gia của chiến dịch “Bờ biển Ngà” đã hoàn toàn không được CIA thông báo về các chiến dịch hoạt động mưa nhân tạo nói trên. Chính vì thế, đã xảy ra câu chuyện bi hài “gậy ông lại đập lưng ông” mà bạn đọc đã thấy trong phần cuối của thiên tư liệu này!</p><p></p><p>Theo các tù binh kể lại thì những trận mưa liên miên suốt mùa hè năm 1970, theo ý đồ tội ác của CIA, đã khiến cho vùng đất này có nguy cơ bị ngập lụt. Nước sông Tích đã dâng cao sát tường rào của trại giam, công việc đi lại, tiếp phẩm hết sức khó khăn. Một số mái nhà cấp bốn của trại giam do sử dụng quá lâu, bị xuống cấp đã trở nên dột nát và hư hỏng nhiều.</p><p></p><p>Một buổi trưa, tù binh được lệnh tháo gỡ các dây phơi quần áo, lưới bóng chuyền và các tư trang khác; cùng những lợn, gà, xoong, chậu… xếp lên những chiếc xe tải nhỏ. Và đêm hôm đó, tốp tù binh đầu tiên đã bước lên xe ca. Cuộc sơ tán lụt lội được tiến hành trong lặng lẽ, trật tự và kéo dài hàng tháng trời. Nơi họ đến là một doanh trại quân đội mới được sửa lại, chỉ cách “Hy vọng” khoảng 15 cây số. Các tù binh đã gọi nơi này bằng một cái tên mới cũng rất Mỹ: trại “Niềm tin”. Chính ở nơi đây, họ đã nghe khá rõ tiếng động cơ cánh quạt trực thăng, tiếng súng nổ và ánh sáng rực trời từ trại “Hy vọng”, trong đêm xảy ra vụ tập kích Sơn Tây…</p><p></p><p>Một số chuyên gia quân sự của Mỹ lại khẳng định rằng: Tình báo Việt Nam đã biết trước có cuộc tập kích này. Họ chỉ không rõ chính xác nó sẽ diễn ra vào thời gian nào mà thôi. Bởi thế nên đơn vị biệt kích của đại tá Simons mới có thể vào và thoát ra được như đã kể trên…</p><p></p><p>Vậy tình báo Việt Nam đã phát hiện ra âm mưu của cuộc tập kích Sơn Tây như thế nào?</p><p></p><p>Chúng ta hãy nghe Thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự, nguyên Trưởng Ban nghiên cứu của Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris kể lại: “Trong thời gian công tác ở Paris tôi thường xuyên được đọc và nghiên cứu các tài liệu mật mà các bạn Mỹ tiến bộ chuyển cho đoàn ta. Trong đó có các tập biên bản của Quốc hội Mỹ (Congressional Records). Chúng dày tới hàng nghìn trang, được in chữ nhỏ, khó đọc; nhưng có rất nhiều trang nói về chiến tranh Việt Nam, giúp cho Đoàn ta có thêm chứng cứ để đấu tranh trên bàn Hội nghị.</p><p></p><p>Vào khoảng giữa quý 4 năm 1970, trong một tập tài liệu mật do các bạn Mỹ chuyển đến, tôi phát hiện tin tức nói về việc xây dựng tại Mỹ mô hình một trại tù binh ở miền Bắc Việt Nam. Tôi phân tích rồi phán đoán: Có thể Chính phủ Mỹ muốn thấy tận mắt nơi ăn ở của tù binh Mỹ ở Việt Nam, để đòi ta phải đối xử tốt với người của họ? Hay là còn một lý do quan trọng nào khác? Trong một tập biên bản về cuộc điều trần trước một ủy ban của Quốc hội, có nhiều đoạn bị kiểm duyệt, bị gạch bỏ hoặc xóa trắng, xen kẽ những đoạn được công bố. Qua các đoạn còn lại, thấy nội dung đại ý: ủy ban đã chất vấn chính quyền là hành động như thế có thể dẫn đến việc một số nước XHCN đưa quân vào miền Bắc Việt Nam không? Đại diện chính quyền đã trả lời rằng không có khả năng đó…</p><p></p><p>Đọc đến đây, tôi chợt nhớ tới chi tiết sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ rất sợ một cuộc chiến tranh trên bộ với Trung Quốc ở lục địa Châu Á. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chủ trương hạn chế hoạt động của bộ binh trong phạm vi miền Nam; chỉ dùng không quân, biệt kích ngụy, gián điệp đối với miền Bắc… Vì Mỹ cho rằng nếu dùng bộ binh tấn công miền Bắc thì chắc chắn các nước XHCN sẽ đưa quân vào giúp Việt Nam. Như vậy, sẽ xảy ra cuộc chiến tranh trên bộ với quân đội các nước XHCN, điều mà Mỹ vẫn muốn tránh…</p><p></p><p>Như vậy, rất có thể các nghị sĩ Mỹ đã lo ngại việc giới quân sự có ý đồ đưa bộ binh tiến ra miền Bắc Việt Nam. Nhưng trong thực tế ở chiến trường miền Nam thời gian đó, dưới nhiều áp lực quân đội Mỹ đang thực hiện việc rút dần về nước, để thay thế bằng kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Dùng người Việt đánh người Việt” . Nếu vậy, mục đích của hành động quân sự dùng bộ binh đánh miền Bắc là gì? Đánh vào thủ đô Hà Nội, đầu não chỉ huy cả nước? Đánh vào cảng Hải Phòng để phá hoại các kho hàng và ngăn chặn nguồn tiếp nhận viện trợ quân sự? Đánh ra nam khu Bốn để triệt phá các chuyến hàng vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến trường miền Nam?… Những khả năng ấy đều rất khó xảy ra, vì từ sau khi cuộc hành quân vào vùng Mỏ Vẹt hòng mở rộng chiến tranh sang Campuchia bị thất bại, Nixon đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của dư luận Mỹ. Chắc chắn, hắn chẳng dại gì liều lĩnh và mạo hiểm khi chưa được Quốc hội và dư luận Mỹ ủng hộ!</p><p></p><p>Từ những lập luận như thế, tôi chợt nghĩ tới vấn đề mấy trăm tù binh phi công Mỹ đã bị ta bắt sống và giam giữ tại miền Bắc? Đúng rồi, đó là vấn đề người Mỹ quan tâm hàng đầu lúc này! Qua nghiên cứu tài liệu trước đó, tôi được biết để đào tạo một phi công chiến đấu quân đội Mỹ thường phải tốn ít nhất tới nửa triệu đôla mỗi người. Và để có được những phi công giỏi, nhiều giờ bay chiến đấu còn tốn kém hơn rất nhiều… Đấy là chưa kể đến chuyện hầu hết các phi công đều được tuyển chọn trong các gia đình Mỹ giàu có và thế lực. Chẳng thế mà họ còn được mệnh danh là các “sĩ quan quý tộc”. Với người Mỹ, chiến tranh có thể hao tổn nhiều triệu đôla vũ khí, trang bị cũng không hề gì, nhưng chỉ cần một tên lính bị chết hoặc bắt sống là ầm ĩ cả lên! Huống hồ: đó lại là số phận của mấy trăm “sĩ quan quý tộc”, có nhiều gã là “cậu ấm”, là “con ông cháu cha”?</p><p></p><p>Đến đây, tôi liên hệ ngay tới việc Mỹ cho xây dựng trên đất của họ một trại giam giữ tù binh giống như ở Việt Nam. Hồi ấy, tôi đã biết ở Sơn Tây có một trại giam phi công Mỹ và mô hình trên rất có thể là trại giam đó. Quân đội Mỹ đã từng tổ chức giải cứu thành công một số phi công ngay sau khi họ bị bắn rơi ở chiến trường Việt Nam. Lần này, sự tham lam quá mức đã khiến cho Lầu Năm Góc có hành động quân sự phiêu lưu đến như vậy. Và kế hoạch quân sự phiêu lưu này đã được đưa ra quốc hội Mỹ bàn bạc, khiến cho nhiều trang văn bản bị kiểm duyệt, nhiều đoạn bị gạch bỏ. Nếu đúng như vậy, thì cần phải báo gấp thông tin này về “nhà” càng sớm càng tốt!</p><p></p><p>Rất may ngay sau đó, tôi được thủ trưởng đoàn thông báo cho biết là ngày hôm sau sẽ có người về thẳng Hà Nội. Tôi liền viết một báo cáo chi tiết một số điều tôi đã thu lượm được, trong đó có đoạn: Qua một số tư liệu trong biên bản Quốc hội Mỹ cho thấy địch có kế hoạch tập kích Trại giam Sơn Tây để giải thoát tù binh. Cần có phương án đề phòng.</p><p></p><p>Sau này, khi tôi về nước mới được biết tù binh Mỹ đã được chuyển khỏi trại giam Sơn Tây từ trước khi tôi báo tin về. Thì ra ở “nhà” cũng đã nhận được nguồn tin tình báo về kế hoạch giải cứu tù binh Mỹ tuyệt mật nói trên. Khoảng hai tuần sau đó cuộc tập kích diễn ra đúng như tôi dự đoán”…</p><p></p><p>Còn sau đây là câu chuyện của ông Gia Huy, một cán bộ tình báo bí mật của Bộ Công an:</p><p></p><p>“Khoảng giữa năm 1968, đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn trực tiếp cử tôi đi công tác ở một số nước Tây Âu. Noel năm sau, tôi nhờ một người bạn giỏi tiếng Anh làm phiên dịch rồi cùng đến “Nhà người Mỹ” (Maisons Etats-Unis) trong Cư xá Quốc tế tại đại lộ Jourdan ở Paris để tham dự một cuộc hội thảo với chủ đề “Chiến tranh và hòa bình”. Cuộc hội thảo diễn ra khá căng thẳng. Tôi tìm hiểu một số người phản chiến và nhanh chóng làm quen được với một số nhân tố tích cực. Đầu tiên là hai sinh viên Mỹ đang theo học khoa Sử có tên là L. và G. Để có tiền ăn học, L. phải làm bồi phòng cho đôi vợ chồng già ở quận III. Còn G. thì chưa có việc, tôi liền giới thiệu cho anh ta đến rửa bát cho một tiệm ăn Việt kiều. Mỗi ngày họ chỉ làm thêm vài tiếng đủ tiền công ăn học.</p><p></p><p>Để giúp nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, sau khi nghỉ hè từ Mỹ trở lại Paris, không hiểu bằng nguồn nào, hai sinh viên đã đến trao tận tay tôi một tập tài liệu khá hoàn chỉnh gồm: giáo trình, giáo án, danh sách và ảnh nhận dạng một số nhân viên tình báo của chế độ ngụy Sài Gòn đang được huấn luyện tại bang Illinois.</p><p></p><p>Một lần, vào cuối năm 1969, trong khi tham dự cuộc hội thảo về chống chiến tranh tại Genevre (Thụy Sỹ) do bà Voarôn và Tiến sĩ y khoa Ôntrama đồng chủ tọa, tôi đã tình cờ quen biết ông R. - một cựu nhân viên DIA (Cục Tình báo Quân đội Mỹ) vừa hết thời gian phục vụ ở Việt Nam. Hiện R. là một nhà báo đang làm việc cho một tờ tạp chí có uy tín ở Mỹ. R. từng bị chính quyền Mỹ gọi nhập ngũ phục vụ trong quân đội với lý do sang Việt Nam để “dẹp bọn phiến loạn Việt Cộng” và “giúp đồng minh” (chế độ ngụy Sài Gòn). R. đã tận mắt chứng kiến nhiều tội ác của quân đội Mỹ với dân thường Việt Nam, nên chán ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Và ông rất muốn làm một điều gì đó có ích cho nhân dân Việt Nam.</p><p></p><p>Trung tuần tháng 10-1970, trong một cuộc họp báo của Người phát ngôn VNDCCH tại Paris, R. cố tìm tôi. Bốn mắt nhìn nhau… Tín hiệu cần gặp gấp. Tôi vào toa lét. Rất nhanh, R. cùng đi theo. Thay vì cái bắt tay như thông lệ, R. chìa hai ngón tay về phía trước, ở giữa kẹp một mảnh giấy nhỏ gấp tư. Tôi hiểu ý, kẹp luôn mảnh giấy vào tay mình. R. ghé sát tai tôi nói nhỏ: “Tin rất quan trọng đấy”, rồi vội vã đi luôn. Tôi đứng trong phòng toa lét đọc rất nhanh nguồn tin “nóng”, rồi quẳng mảnh giấy nhỏ vào bồn vệ sinh và xả nước… Trở lại nơi họp báo, tôi nhẩm lại nội dung thông tin quan trọng có trong mảnh giấy nhỏ: “Bộ Quốc phòng Mỹ đang ráo riết chuẩn bị một cuộc tập kích vào phía Tây-Bắc Hà Nội để giải thoát cho tù binh phi công Mỹ. Qua một linh mục người Việt Nam ở Bỉ, DIA đã tuyển chọn một số sĩ quan biệt kích người Tây Âu có kinh nghiệm cùng tham gia kế hoạch này”…</p><p></p><p>Tôi vắt óc suy nghĩ: Thời gian qua, quân và dân miền Bắc nước ta đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái… Tất nhiên là phải có trại giam. Nhưng quả thật, tôi không hề biết những trại giam này đóng ở đâu.</p><p></p><p>Sáng hôm sau, tôi đến Bruxell (Bỉ) để tìm gặp một cựu sĩ quan du kích chống phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ II, rất có cảm tình với Việt Nam. Ông này đã nhiệt tình cho tôi biết: “Lính biệt kích nhảy dù ở vùng đó không nhiều, nhưng cũng có những tay khá nổi tiếng trong hàng ngũ nhà binh. Đó là Fontaine, một người Bỉ, gốc Pháp. Ông ta là một chuyên gia quân báo, rất giỏi về huấn luyện biệt kích nhảy dù, đã từng cộng tác với tình báo Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ II. Sau đó, Fontaine gia nhập quân đội Mỹ. Đầu thập kỷ 60, ông ta đã nhiều lần sang miền Nam Việt Nam và Lào để huấn luyện biệt kích. Nghe nói, mặc dù đã giải nghệ từ lâu nhưng Fontaine lại vừa được người Mỹ mời cộng tác để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt gì đó” …</p><p></p><p>Hồi đó, giới săn tin quốc tế thường kháo nhau: Nếu muốn biết việc gì đã, đang, hoặc sắp xảy ra tại Oasinhtơn (Mỹ), thì chỉ cần đến Paris hoặc London… bởi đó là những “trung tâm thông tin toàn cầu”. Liên hệ với nội dung có trong mảnh giấy do nhà báo R. cung cấp, tôi nhận định: Nguồn tin “nóng” của R. là có cơ sở. Nhưng chưa rõ kế hoạch đó sẽ được thực hiện trong thời điểm nào? </p><p></p><p>Tôi quyết định chuyển nhanh tin trên về “nhà”: “Có thể địch sẽ cho quân nhảy dù, tập kích để giải thoát cho tù binh Mỹ ở vùng Tây Bắc Hà Nội. Xin báo cáo để tham khảo”.</p><p></p><p>Sau này, khi về nước để báo cáo kết quả công tác, tôi đã được Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn biểu dương. Bộ trưởng còn cho biết: nguồn tin do tôi đưa về rất khớp với những nghi vấn do một số nguồn tin khác cung cấp cùng với nội dung “Địch có thể tập kích vào trại giam Sơn Tây”, mà ta chưa có điều kiện xác minh lại. Sau khi cân nhắc, cấp trên đã quyết định bí mật sơ tán ngay số tù binh phi công Mỹ ở Sơn Tây đến một trại giam dự bị, chỉ để lại một đơn vị thường trực trông coi doanh trại và sẵn sàng chiến đấu khi có địch. Việc sơ tán tù binh Mỹ đã được thực hiện đúng theo kế hoạch. Riêng việc thường trực sẵn sàng chiến đấu, lúc đầu đơn vị được giao nhiệm vụ đã thực hiện rất nghiêm chỉnh, nhưng vì không biết đích xác thời gian vụ tập kích xảy ra, sau vài tuần trực chiến không thấy gì, anh em đã mất cảnh giác, giao lại doanh trại cho bộ phận khác trông coi, nên khi bọn địch tập kích vào trại đã xảy ra chuyện đáng tiếc…”, như bạn đọc đã rõ.</p><p></p><p>Tuy nhiên, với Lầu Năm Góc thì lại khác: Do kế hoạch của cuộc tập kích Sơn Tây được chuẩn bị quá công phu và tốn kém, lại chịu sức ép nặng nề của dư luận Mỹ, nên việc không giải cứu được một tù binh phi công nào là một sự thất bại nhục nhã và ê chề!</p><p></p><p>Mặc dù đã “lường trước hậu quả xấu” có thể xảy ra, nhưng cả Nixon và Kissinger đều bị phe đối lập, quốc hội và dư luận Mỹ chỉ trích nặng nề. Để đối phó, vớt vát phần nào danh dự và trấn an dư luận, Lầu Năm Góc đã bày ra trò “họp báo” rùm beng để “tuyên dương công trạng” và thậm chí còn… gắn huân chương cho toán quân biệt kích thất bại của tướng Manor và đại tá Simons vừa liều lĩnh xâm nhập miền Bắc Việt Nam trở về.</p><p></p><p>Các chuyên gia quân sự của Lầu Năm Góc thì cố gắng tìm mọi lý do để biện minh cho thất bại của họ: Có người bảo nguyên nhân là do phía Mỹ đã chủ quan vì quá tin vào khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại; có người lại cho Mỹ thất bại là do Hà Nội được báo trước; cũng có một số ý kiến cho rằng: việc tù binh Mỹ được sơ tán khỏi trại giam Sơn Tây trước khi vụ tập kích diễn ra, chỉ hoàn toàn là sự trùng lặp tình cờ…</p><p></p><p>Tóm lại, đối với nhiều người Mỹ sự thất bại của cuộc tập kích Sơn Tây vẫn còn là một ẩn số. Và họ cho rằng đó là một trong những bí mật lớn nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam!</p><p></p><p>HẬU “VỤ TẬP KÍCH CỨU PHI CÔNG MỸ Ở SƠN TÂY” HAY LÀ “ĐIỀU BÍ MẬT CUỐI CÙNG”</p><p></p><p>Đã gần 30 năm trôi qua, nhưng bà Trần Thị Nghiên vẫn không sao quên được cái đêm kinh hoàng đó. Vốn là người hay nói lại có trí nhớ tốt, bà Nghiên đã vanh vách kể cho chúng tôi nghe, cứ như chuyện mới xảy ra tối hôm qua vậy:</p><p></p><p>- Nhà tôi ở sát cổng chính của trại tù binh. Hồi đó, vùng Xã Tắc này còn vắng vẻ và nghèo lắm. Tôi làm nghề buôn gà, (nên nhiều người bây giờ vẫn quen gọi tôi bằng cái tên ghép là “Nghiên gà”). Còn nhớ, các chú bộ đội tiếp phẩm trong trại rất hay ra nhờ tôi đi thu mua gà và khoai tây giúp. Họ thường mua với số lượng lớn, mà phải là gà và khoai ngon nhất chợ mới lấy. Sau này hòa bình rồi, tôi mới biết là họ mua những thứ ấy cho tù binh phi công Mỹ ăn!</p><p></p><p>Tối hôm trước đêm xảy ra vụ tập kích của Mỹ, có một chú bộ đội còn trẻ, khoác balô hỏi thăm đường vào trại giam. Chú ấy tự giới thiệu mình tên là Túc, người Nghệ An, mới tốt nghiệp kỹ sư xây dựng, được nhận quyết định về đây. Vì chú Túc chưa kịp báo cơm đơn vị, nên tôi mời chú ấy ăn tối với gia đình luôn, chả là bữa cơm có món thịt ngỗng rất ngon.</p><p></p><p>Đêm ấy, tôi nhớ đã là ngày 23 tháng 10 âm lịch, trời sáng trăng suông, lạnh lắm, đắp chăn bông vẫn thấy rét, nên khó ngủ. Quãng nửa đêm, tôi choàng tỉnh dậy vì thấy tiếng máy bay cánh quạt ầm ầm ngay trên nóc nhà mình. Tôi ngó qua cánh cửa sổ nhỏ, thấy nhiều ánh sáng lóa mắt, rồi tiếng súng nổ inh tai. Từ chỗ tôi nằm đến cổng gác chính của trại giam chỉ khoảng hai chục bước chân, nên nhìn rất rõ. Tôi thấy có những người đội mũ sắt, to cao lừng lững, nói xì xà xì xồ, chạy đi chạy lại… Chồng tôi, ông Cấn Hữu Ân, thì thào bên tai: “Không phải bộ đội mình tập trận đâu! (Chẳng là hồi đó, bộ đội ta thường hay tập trận ở Sơn Tây), hình như có biệt kích Mỹ đổ bộ vào đây rồi. Bà dẫn các con đi ẩn nấp mau!”. Tôi hoảng quá, cuống cả lên, vội chui vào tủ quần áo ngồi, rồi chui xuống gầm giường nằm, không dám cả thở mạnh…</p><p></p><p>Và sáng hôm sau, bà Nghiên lặng người khi nghe tiếng bà Tịnh hàng xóm của mình kêu giời, báo tin bên gia đình bà An bị giặc đạp cửa xông vào bắn cả nhà!</p><p></p><p>- Đấy chính là vợ và các con của tôi! - ông Lê Việt Tiến nhớ lại - Hồi đó, tôi đang là Phó ty Công an tỉnh Hà Tây. Đêm ấy, khi đang ngủ tại cơ quan ở thị xã Hà Đông, tôi nhận được tin dữ báo, vội về nhà ngay và đến Sơn Tây khi trời còn chưa sáng. Các đồng chí công an của thị xã cho biết: Gia đình tôi có 4 người, thì 2 người đã chết, 2 người bị thương rất nặng. Họ khuyên tôi đừng trở về nhà, vì sợ tôi đau đớn quá mà không đủ bình tĩnh để xử lý công việc.</p><p></p><p>Thế nhưng ông Lê Việt Tiến đã kiên quyết yêu cầu phải trực tiếp về để giải quyết việc nhà. Cho đến giờ, nhiều đồng sự, bạn bè cùng thời vẫn không hiểu ông đã lấy đâu ra sức mạnh, ý chí để có được sự bình tĩnh và nghị lực phi thường đến thế! Một mặt, ông thu xếp đưa hai con bị trọng thương đi viện cấp cứu, mặt khác ông trực tiếp lo tổ chức đám tang cho vợ và con gái.</p><p></p><p>Hồi ấy, người ta rất ít khi tập trung đông người, vì cảnh giác với máy bay Mỹ. Nhưng riêng đám tang của vợ và con ông Lê Việt Tiến thì người dân Sơn Tây đã tập trung hàng ngàn người. Họ đã lặng lẽ xếp hàng dài và đi bộ tới 4-5 cây số theo xe chở thi hài bà Bích An và em Thu Hương. Cảm kích trước tấm lòng của nhân dân thị xã, nhưng ông cũng không đành để bà con rồng rắn đưa vợ con mình tới nơi an nghỉ cuối cùng trong nguy hiểm như vậy. Ông đã kiên trì thuyết phục mọi người nhanh chóng giải tán quay về, đề phòng máy bay Mỹ trở lại bắn phá, gây thêm tội ác.</p><p></p><p>Vào thời gian xảy ra vụ tập kích Sơn Tây, 2 người con trai lớn của ông Việt Tiến là Lê Thành và Lê Văn Hùng đang học tập tại Liên Xô (cũ). Do hoàn cảnh chiến tranh, hồi đó việc liên lạc giữa họ và gia đình hết sức khó khăn. Mỗi lá thư đi và hồi âm trở lại thường phải mất mấy tháng trời. Sợ các con đau buồn, ảnh hưởng tới sức khỏe và học tập, ông Tiến đã cấm người nhà không được thông báo cho Thành và Hùng biết. Cần phải nói thêm rằng: cũng do hoàn cảnh chiến tranh, các phương tiện báo chí và thông tin đại chúng của nước ta hồi đó đã không hề hé lộ một chi tiết nào về “Vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây”. Chỉ những cán bộ có trách nhiệm mới được phổ biến những thông tin hạn chế, theo chế độ bảo mật chặt chẽ. Nhưng phía Mỹ thì lại khác, sau khi các toán biệt kích thất bại từ vụ tập kích trở về, để trấn an dư luận, Lầu Năm Góc đã tổ chức họp báo, “tuyên dương công trạng” rùm beng cho một số tên sĩ quan chỉ huy và cầm đầu cuộc tập kích. Nên hầu hết các báo chí nước ngoài, trong đó có báo chí của Liên Xô (cũ) đã đăng tin quân Mỹ tiến hành “Vụ tập kích Sơn Tây“. Và hai người con trai lớn của gia đình ông Lê Việt Tiến đã nhận được thông tin đầu tiên qua nguồn này. Họ lập tức viết thư về nhà cho bạn bè và chẳng bao lâu họ đã rõ toàn bộ sự thật đau lòng… Vậy mà họ đã phải nén đau thương để tiếp tục học tập, tiếp thu thật nhiều kiến thức để sau này trở về phục vụ đất nước. Và bây giờ, sau gần 30 năm, cả hai người đều đã thành đạt: một người là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an; người kia là Giám đốc Công ty Chế biến và kinh doanh sản phẩm dầu mỏ, thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị của 3 liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam.</p><p></p><p>Trở lại chuyện hai người con của ông Lê Việt Tiến bị trọng thương năm 1970. Ngày đó, chị Lê Thị Thu Nga 15 tuổi, học lớp 9; còn anh Lê Việt Tuấn mới lên 9, đang học lớp 3. Chị Nga bị đạn của quân biệt kích Mỹ mất mảng xương thái dương bên trái; anh Tuấn cũng bị vỡ xương trên tai trái và hỏng một mắt. Cả hai người đều bị tổn thương sọ não rất nặng.</p><p></p><p>Chị Thu Nga nhớ lại:</p><p></p><p>- Đó là đêm thứ Bảy, vừa là ngày nghỉ cuối tuần, vừa trùng với ngày Nhà giáo Việt Nam. Như bao nơi khác, tuổi học trò chúng tôi đều được nghỉ học để mừng ngày lễ của các thầy cô giáo. Tôi còn nhớ, em Thu Hương theo bạn đến thăm cô giáo nên về nhà rất muộn. Đêm ấy, chúng tôi ngủ được một lúc thì nghe có tiếng máy bay ầm ầm trên trời, tiếng súng nổ loạn xạ xung quanh. Điện phụt tắt, nhưng ra ngoài bỗng thấy trời rực sáng như đang có nắng. (Sau này tôi mới biết quân biệt kích Mỹ thả pháo sáng). Do thường xuyên được nhà trường nhắc nhở các bài học cảnh giác, nên chúng tôi đoán biết có chuyện gì đó rất nguy hiểm đang xảy ra. Mẹ tôi vội giục cả nhà chui xuống gầm giường tránh mảnh đạn. Giường ngủ của nhà tôi kê gạch rất cao nên tôi có thể ngồi bó gối mà ngủ gà ngủ gật được. Nhưng tôi vẫn nghe có rất nhiều tiếng người nói xì xồ, chạy huỳnh huỵch bên ngoài. Một lúc sau, đột nhiên cánh cửa nhà tôi bị bật tung ra. Có mấy người đàn ông cao to hùng hổ xông vào. Rồi ánh đèn pin quét loang loáng trong tiếng súng nổ và tiếng lựu đạn choáng tai. Tôi nhắm mắt lại vì sợ hãi. Một lát sau, khi tiếng súng ngớt, tôi nghe rõ tiếng mẹ rên khe khẽ trong đau đớn: “Các con ơi… mẹ bị thương rồi… có lẽ chết mất…”. Tôi càng hoảng hơn khi thấy em Việt Tuấn cứ gục đầu vào người tôi mà lả đi. Tay tôi sờ vào chỗ nào cũng thấy có máu. Không hiểu nghĩ sao, lúc đó tôi đã dùng hết sức mình cõng em Tuấn ra đầu hồi nhà, nghỉ một lúc, tôi cõng em đi tiếp xuống phía cổng trại giam… Tới gần nhà bà Nghiên thì gặp các chú bộ đội. Tôi không biết rằng chính mình cũng đang bị thương rất nặng, máu chảy đầy mặt. Tôi chỉ kịp nói: “Các chú ơi, hãy đến cứu mẹ cháu và em cháu còn đang ở trong nhà”… thì xỉu luôn. Trong mê man, tôi vẫn nhận thấy mình được khênh lên ôtô, được băng bó, tiêm thuốc và cứu chữa ra sao…</p><p></p><p>- Đầu tiên, tôi đưa 2 con mình đến Quân y viện 105 ở Sơn Lộc, cách nhà khoảng một cây số - ông Việt Tiến kể tiếp - Sơ cứu băng bó xong, tôi đề nghị đưa hai cháu đến Bệnh viện Việt-Đức để chạy chữa tiếp. Nhập viện cho 2 con bị thương xong, tôi vội quay về Sơn Tây để tổ chức tang lễ cho vợ và con gái ngay trong ngày 21-11-1970… Có lẽ cũng cần phải nhấn mạnh rằng: Đây là đám tang duy nhất của các nạn nhân đã bị quân biệt kích Mỹ sát hại trong vụ tập kích Sơn Tây. 11 người còn lại, do không có điều kiện, nên đành cho nhập quan tài rồi đem chôn cất luôn…</p><p></p><p>- Trong số đó, có cả chú Túc kỹ sư xây dựng, người Nghệ An - Bà Nghiên bồi hồi, xúc động - Tối hôm trước, chú ấy còn vừa ăn cơm thịt ngỗng ở nhà tôi, vừa hẹn đi thăm quan Đền Và. Vậy mà sáng hôm sau đã trở thành oan hồn, chẳng kịp trăng trối điều gì. Thế là ngày 21-11 bỗng nhiên trở thành ngày giỗ của làng này. Hằng năm, tới ngày đó, ở Xã Tắc bây giờ nhà nhà đều thắp hương. Riêng tôi, năm nào cũng thắp hương khấn cho cả 6 chú bộ đội, với 6 chiếc bát và 6 đôi đũa trên mâm cơm cúng… Cho mãi tới năm ngoái (1997), người nhà của chú Túc mới ra bốc mộ mang hài cốt chú ấy về quê chôn cất… </p><p></p><p>Anh Lê Việt Tuấn cho biết:</p><p></p><p>- Hồi ấy, mặc dù còn rất nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ chị em mình đã được cứu chữa tại bệnh viện ra sao. Chúng tôi đều bị cạo hết tóc, đầu trọc lốc trước khi lên bàn mổ hộp sọ. Sau đó là nhiều ngày nằm bất động, với bông băng đầy người, tiếp nước liên tục. Nhiều người nhìn cảnh ấy đã không tin rằng chị em tôi lại có thể sống sót được. Vậy mà sau hai tháng điều trị, chúng tôi đã được Bệnh viện Việt-Đức cho về nhà ăn Tết. Sau đó, tôi còn phải vào Quân y viện 103 điều trị tiếp một tháng nữa mới tạm ổn. Tôi nói “tạm ổn” bởi vì cho tới hôm nay, sau gần 30 năm đầu tôi vẫn thường bị đau nhức, mắt tối sầm mỗi khi trái gió trở trời. Mấy mảnh đạn nhỏ còn lại trong người tôi thỉnh thoảng vẫn sưng tấy lên. Chị Thu Nga của tôi cũng vậy. Nếu lật tóc mai trái của chị ấy lên, sẽ thấy một vết lõm sâu và to như cái miệng chén Tống. Đó là chỗ mảnh xương sọ bị mất, rất nguy hiểm đến tính mạng nếu không may sơ ý bị một vật cứng đụng vào…</p><p></p><p>Trước ngày giỗ lần thứ 28 của các nạn nhân trong “Vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây”, người viết bài này đã đến thăm ngôi nhà nhỏ nằm trong ngõ 50, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Đó là nơi cụ Lê Việt Tiến đang sống hạnh phúc cùng con cháu những năm tuổi già. Cụ vừa vinh dự được nhận huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Trước khi về nghỉ hưu, người cán bộ Công an lão thành này là Phó giám đốc Công an thành phố Hà Nội. Năm nay dù tuổi đã cao tới gần “bát thập”, nhưng cụ Việt Tiến vẫn còn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Cụ cho biết: Hằng năm vào ngày 21-11, thường có rất nhiều bà con Sơn Tây lặng lẽ tìm đến thắp hương trên bàn thờ của gia đình. Và cụ thường tự hào giới thiệu với khách: “Cháu Thu Nga của tôi giờ đang là giáo viên Trường tiểu học Ngọc Hà, chồng của cháu là Thiếu tá Công an công tác ở quận Ba Đình; cháu Việt Tuấn thì làm công nhân ở Công ty Điện tử Giảng Võ, lấy vợ công tác ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam…”.</p><p></p><p>Còn hai điều khá đặc biệt này nữa, tuy cụ Việt Tiến không giới thiệu, nhưng hàng xóm với gia đình cụ ai cũng biết: Thứ nhất, là vào các ngày nghỉ, chủ nhật, hai người con trai lớn thành đạt, thường đi xe đạp hoặc đi bộ về thăm nhà (cụ Việt Tiến không thích họ đi ôtô, xe máy, vì sợ ồn ào và ầm ĩ dân phố), rồi ngoan ngoãn ngồi hầu chuyện và lắng nghe những lời răn dạy của cụ. Thứ hai là, sau khi người vợ yêu quý không may bị quân biệt kích Mỹ sát hại, mặc dù là một người đàn ông nổi tiếng “to khỏe, đẹp trai, có địa vị trong xã hội”, nhưng gần 30 năm qua cụ Lê Việt Tiến vẫn kiên quyết ở vậy mà không hề nghĩ chuyện “đi bước nữa”, để dành tâm trí phục vụ sự nghiệp và nuôi dạy con cháu…</p><p></p><p>Sơn Tây - Hà Nội. Tháng 6 - tháng 12 năm 1998</p><p></p><p>SỰ THẬT VỀ VỤ TẬP KÍCH</p><p></p><p>CỨU PHI CÔNG MỸ TẠI</p><p></p><p>SƠN TÂY</p><p></p><p>ĐẶNG VƯƠNG HƯNG</p><p></p><p>NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN</p><p></p><p>65 Nguyễn Du, Hà Nội – ĐT & Fax: 8222135</p><p></p><p>Chịu trách nhiệm xuất bản: </p><p></p><p>NGUYỄN PHAN HÁCH</p><p></p><p>Biên tập:</p><p></p><p>LÊ MINH KHUÊ</p><p></p><p>Trình bày:</p><p></p><p>NGUYỄN SỸ - THANH NHÃ</p><p></p><p>Vẽ bìa:</p><p></p><p>VĂN SÁNG</p><p></p><p>Sửa bản in:</p><p></p><p>TRƯƠNG NAM HƯƠNG</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 8117, member: 7"] [B]LẦU NĂM GÓC ĐÃ NHẬN ĐUỢC TIN CUỘC TẬP KÍCH SƠN TÂY THẤT BẠI NHƯ THẾ NÀO?[/B] Vào lúc cuộc tập kích Sơn Tây bắt đầu, nghĩa là lúc 23 giờ 25 phút ngày 20-11-1970, từ Đà Nẵng, tướng Manor điện về Lầu Năm Góc báo tin “Chiến dịch Kingpin đã mở màn” thì tại Oasinhtơn đang là buổi trưa. Hầu như tất cả các quan chức chóp bu của Lầu Năm Góc đều có mặt tại trung tâm chỉ huy: Bộ trưởng Laird, Thứ trưởng David Parker, Cố vấn Kissinger; cùng các thống tướng Tư lệnh Không quân, Tư lệnh Thủy quân lục chiến, Tham mưu trưởng Lục quân… Họ ăn trưa ngay tại phòng làm việc. Chủ đề các câu chuyện họ nói với nhau đều không ngoài cuộc tập kích Sơn Tây… Thỉnh thoảng lại có người nhìn đồng hồ, thấp thỏm chờ đợi tin tức. Liên tiếp 3 công điện của tướng Manor từ Việt Nam gửi về báo cáo diễn tiến tốt đẹp của của cuộc hành quân, khiến cho không khí trong phòng họp của Trung tâm chỉ huy có vẻ hân hoan và tràn trề hy vọng… Nhưng sự hy vọng và niềm hân hoan của các tướng lĩnh tại Lầu Năm Góc cũng chỉ tồn tại trong vòng hơn 3 giờ đồng hồ. Khi công điện thứ 4 của tướng Manor gửi về báo tin “Các toán đột kích Mỹ đang rời khỏi Sơn Tây” đã khiến cho bọn họ đứng ngồi không yên. Chưa đầy 30 phút sau, một công điện cuối cùng đã bay về và dội xuống mỗi “cái đầu nóng” một “gáo nước lạnh” đến tê người: “Không giải cứu được một tù binh phi công nào!”. Nguồn tin này đã khiến cho cả Trung tâm chỉ huy như chết lặng đi. Không một ai muốn tin rằng đó là sự thật và độ chính xác của công điện mà họ vừa nhận được. Nhưng bọn họ cũng không có cách nào kiểm chứng lại, bởi vì từ giờ phút đó các toán biệt kích Mỹ đã bay ra khỏi lãnh thổ Việt Nam trong im lặng, liên lạc vô tuyến bị cắt hoàn toàn… Cũng xin được kể thêm rằng: lúc đó tại Bộ chỉ huy cuộc hành quân của tướng Manor ở Đà Nẵng một không khí thất vọng ê chề cũng đang bao trùm lên tất cả. Lần đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp của viên tướng cáo già này đã nếm mùi thất bại cay đắng đến thế. Ông ta thật sự hốt hoảng và bối rối, không biết phải hành động ra sao kể từ khi nhận được bức điện của Simons: “Zero Prisoners - Không có một tù binh nào cả!“. Bức điện đó đã được thảo xong ở ngay trại giam Sơn Tây trống rỗng. Lúc đầu, chính Simons cũng lúng túng và phân vân về cách diễn đạt này, vì trong bản mật mã liên lạc của cuộc hành quân không có quy định sử dụng chữ “Zero”. Quả thật, khi nhận được nó, tướng Manor đã không hiểu gì cả, và ông ta đã vội cho điện hỏi lại, vì nghĩ rằng có thể sĩ quan truyền tin của Simons đã “quên” hoặc “bỏ sót” một hai con số trước từ “Zero”. Simons đã kiên nhẫn cho điện lại lần thứ hai nội dung y như trên, trước khi điểm danh tên lính biệt kích Mỹ cuối cùng bước lên trực thăng… Chiếc trực thăng cuối cùng của toán tập kích Mỹ rời khỏi Sơn Tây lúc 2 giờ 44 phút ngày 21-11-1970. Nghĩa là cuộc đổ bộ chỉ diễn ra trong 27 phút, đúng theo kế hoạch. Và 6 phút sau, một ánh chớp lóe lên cùng một tiếng nổ lớn phát ra từ trại tù binh cũ. Đó là khối chất nổ C4 cực mạnh, được cài kíp hẹn giờ, đã phá tan chiếc HH-3 trong sân trại giam… [B]TẠI SAO TÙ BINH PHI CÔNG MỸ LẠI ĐƯỢC CHUYỂN KHỎI TRẠI GIAM SƠN TÂY TRƯỚC KHI VỤ TẬP KÍCH XẢY RA ?[/B] Đó chính là câu hỏi đã làm điên đầu các quan chức chóp bu của Lầu Năm Góc sau khi cuộc tập kích thất bại, khiến cho ông chủ của Nhà Trắng bị mang tiếng là “Tên nói dối” trước dư luận. Thực ra, trong suốt thời gian ráo riết chuẩn bị cho chiến dịch “Bờ biển Ngà”, các chuyên gia quân sự Mỹ vẫn thường xuyên tiến hành thu thập nguồn tin tình báo, đặc biệt là phân tích các bức không ảnh do các máy bay trinh sát chụp được. Họ cũng nhận thấy: từ cuối tháng 6-1970, trại tù binh Sơn Tây đã có những biểu hiện của sự “giảm bớt sinh hoạt bên ngoài sân trại”. Trước khi vụ tập kích được tiến hành, hàng ngày trại giam Sơn Tây vẫn liên tục được chụp không ảnh vừa bằng máy thường, vừa bằng tia hồng ngoại. Các bức không ảnh bằng tia hồng ngoại cho thấy rõ ràng là đang có người trong các phòng giam. Tuy nhiên, loại phim chụp tia hồng ngoại hồi ấy có nhược điểm là không phân biệt được thân nhiệt của người Việt Nam hay người Mỹ. Về vấn đề này, Đô đốc Moore đã thú nhận: “Các tin tức tình báo của chúng tôi rất chính xác. Nhưng chúng tôi không thể xác định được tù binh Mỹ đang ở đâu, khi họ liên tục bị di chuyển. Dù sao chăng nữa thì chúng tôi vẫn phải quyết định đề nghị mở cuộc hành quân giải cứu họ”. Một số chuyên gia DIA cho rằng các tù binh phi công Mỹ được phía Việt Nam cho sơ tán khỏi trại giam “Hy vọng” Sơn Tây chỉ vì một lý do rất đơn giản, một sự trùng lặp hết sức tình cờ: để tránh những trận lụt, do hậu quả hoạt động mưa nhân tạo, nằm trong kế hoạch “Chiến tranh thời tiết” của CIA gây ra! Vì nguyên tắc bí mật, nên các chuyên gia của chiến dịch “Bờ biển Ngà” đã hoàn toàn không được CIA thông báo về các chiến dịch hoạt động mưa nhân tạo nói trên. Chính vì thế, đã xảy ra câu chuyện bi hài “gậy ông lại đập lưng ông” mà bạn đọc đã thấy trong phần cuối của thiên tư liệu này! Theo các tù binh kể lại thì những trận mưa liên miên suốt mùa hè năm 1970, theo ý đồ tội ác của CIA, đã khiến cho vùng đất này có nguy cơ bị ngập lụt. Nước sông Tích đã dâng cao sát tường rào của trại giam, công việc đi lại, tiếp phẩm hết sức khó khăn. Một số mái nhà cấp bốn của trại giam do sử dụng quá lâu, bị xuống cấp đã trở nên dột nát và hư hỏng nhiều. Một buổi trưa, tù binh được lệnh tháo gỡ các dây phơi quần áo, lưới bóng chuyền và các tư trang khác; cùng những lợn, gà, xoong, chậu… xếp lên những chiếc xe tải nhỏ. Và đêm hôm đó, tốp tù binh đầu tiên đã bước lên xe ca. Cuộc sơ tán lụt lội được tiến hành trong lặng lẽ, trật tự và kéo dài hàng tháng trời. Nơi họ đến là một doanh trại quân đội mới được sửa lại, chỉ cách “Hy vọng” khoảng 15 cây số. Các tù binh đã gọi nơi này bằng một cái tên mới cũng rất Mỹ: trại “Niềm tin”. Chính ở nơi đây, họ đã nghe khá rõ tiếng động cơ cánh quạt trực thăng, tiếng súng nổ và ánh sáng rực trời từ trại “Hy vọng”, trong đêm xảy ra vụ tập kích Sơn Tây… Một số chuyên gia quân sự của Mỹ lại khẳng định rằng: Tình báo Việt Nam đã biết trước có cuộc tập kích này. Họ chỉ không rõ chính xác nó sẽ diễn ra vào thời gian nào mà thôi. Bởi thế nên đơn vị biệt kích của đại tá Simons mới có thể vào và thoát ra được như đã kể trên… Vậy tình báo Việt Nam đã phát hiện ra âm mưu của cuộc tập kích Sơn Tây như thế nào? Chúng ta hãy nghe Thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự, nguyên Trưởng Ban nghiên cứu của Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris kể lại: “Trong thời gian công tác ở Paris tôi thường xuyên được đọc và nghiên cứu các tài liệu mật mà các bạn Mỹ tiến bộ chuyển cho đoàn ta. Trong đó có các tập biên bản của Quốc hội Mỹ (Congressional Records). Chúng dày tới hàng nghìn trang, được in chữ nhỏ, khó đọc; nhưng có rất nhiều trang nói về chiến tranh Việt Nam, giúp cho Đoàn ta có thêm chứng cứ để đấu tranh trên bàn Hội nghị. Vào khoảng giữa quý 4 năm 1970, trong một tập tài liệu mật do các bạn Mỹ chuyển đến, tôi phát hiện tin tức nói về việc xây dựng tại Mỹ mô hình một trại tù binh ở miền Bắc Việt Nam. Tôi phân tích rồi phán đoán: Có thể Chính phủ Mỹ muốn thấy tận mắt nơi ăn ở của tù binh Mỹ ở Việt Nam, để đòi ta phải đối xử tốt với người của họ? Hay là còn một lý do quan trọng nào khác? Trong một tập biên bản về cuộc điều trần trước một ủy ban của Quốc hội, có nhiều đoạn bị kiểm duyệt, bị gạch bỏ hoặc xóa trắng, xen kẽ những đoạn được công bố. Qua các đoạn còn lại, thấy nội dung đại ý: ủy ban đã chất vấn chính quyền là hành động như thế có thể dẫn đến việc một số nước XHCN đưa quân vào miền Bắc Việt Nam không? Đại diện chính quyền đã trả lời rằng không có khả năng đó… Đọc đến đây, tôi chợt nhớ tới chi tiết sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ rất sợ một cuộc chiến tranh trên bộ với Trung Quốc ở lục địa Châu Á. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chủ trương hạn chế hoạt động của bộ binh trong phạm vi miền Nam; chỉ dùng không quân, biệt kích ngụy, gián điệp đối với miền Bắc… Vì Mỹ cho rằng nếu dùng bộ binh tấn công miền Bắc thì chắc chắn các nước XHCN sẽ đưa quân vào giúp Việt Nam. Như vậy, sẽ xảy ra cuộc chiến tranh trên bộ với quân đội các nước XHCN, điều mà Mỹ vẫn muốn tránh… Như vậy, rất có thể các nghị sĩ Mỹ đã lo ngại việc giới quân sự có ý đồ đưa bộ binh tiến ra miền Bắc Việt Nam. Nhưng trong thực tế ở chiến trường miền Nam thời gian đó, dưới nhiều áp lực quân đội Mỹ đang thực hiện việc rút dần về nước, để thay thế bằng kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Dùng người Việt đánh người Việt” . Nếu vậy, mục đích của hành động quân sự dùng bộ binh đánh miền Bắc là gì? Đánh vào thủ đô Hà Nội, đầu não chỉ huy cả nước? Đánh vào cảng Hải Phòng để phá hoại các kho hàng và ngăn chặn nguồn tiếp nhận viện trợ quân sự? Đánh ra nam khu Bốn để triệt phá các chuyến hàng vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến trường miền Nam?… Những khả năng ấy đều rất khó xảy ra, vì từ sau khi cuộc hành quân vào vùng Mỏ Vẹt hòng mở rộng chiến tranh sang Campuchia bị thất bại, Nixon đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của dư luận Mỹ. Chắc chắn, hắn chẳng dại gì liều lĩnh và mạo hiểm khi chưa được Quốc hội và dư luận Mỹ ủng hộ! Từ những lập luận như thế, tôi chợt nghĩ tới vấn đề mấy trăm tù binh phi công Mỹ đã bị ta bắt sống và giam giữ tại miền Bắc? Đúng rồi, đó là vấn đề người Mỹ quan tâm hàng đầu lúc này! Qua nghiên cứu tài liệu trước đó, tôi được biết để đào tạo một phi công chiến đấu quân đội Mỹ thường phải tốn ít nhất tới nửa triệu đôla mỗi người. Và để có được những phi công giỏi, nhiều giờ bay chiến đấu còn tốn kém hơn rất nhiều… Đấy là chưa kể đến chuyện hầu hết các phi công đều được tuyển chọn trong các gia đình Mỹ giàu có và thế lực. Chẳng thế mà họ còn được mệnh danh là các “sĩ quan quý tộc”. Với người Mỹ, chiến tranh có thể hao tổn nhiều triệu đôla vũ khí, trang bị cũng không hề gì, nhưng chỉ cần một tên lính bị chết hoặc bắt sống là ầm ĩ cả lên! Huống hồ: đó lại là số phận của mấy trăm “sĩ quan quý tộc”, có nhiều gã là “cậu ấm”, là “con ông cháu cha”? Đến đây, tôi liên hệ ngay tới việc Mỹ cho xây dựng trên đất của họ một trại giam giữ tù binh giống như ở Việt Nam. Hồi ấy, tôi đã biết ở Sơn Tây có một trại giam phi công Mỹ và mô hình trên rất có thể là trại giam đó. Quân đội Mỹ đã từng tổ chức giải cứu thành công một số phi công ngay sau khi họ bị bắn rơi ở chiến trường Việt Nam. Lần này, sự tham lam quá mức đã khiến cho Lầu Năm Góc có hành động quân sự phiêu lưu đến như vậy. Và kế hoạch quân sự phiêu lưu này đã được đưa ra quốc hội Mỹ bàn bạc, khiến cho nhiều trang văn bản bị kiểm duyệt, nhiều đoạn bị gạch bỏ. Nếu đúng như vậy, thì cần phải báo gấp thông tin này về “nhà” càng sớm càng tốt! Rất may ngay sau đó, tôi được thủ trưởng đoàn thông báo cho biết là ngày hôm sau sẽ có người về thẳng Hà Nội. Tôi liền viết một báo cáo chi tiết một số điều tôi đã thu lượm được, trong đó có đoạn: Qua một số tư liệu trong biên bản Quốc hội Mỹ cho thấy địch có kế hoạch tập kích Trại giam Sơn Tây để giải thoát tù binh. Cần có phương án đề phòng. Sau này, khi tôi về nước mới được biết tù binh Mỹ đã được chuyển khỏi trại giam Sơn Tây từ trước khi tôi báo tin về. Thì ra ở “nhà” cũng đã nhận được nguồn tin tình báo về kế hoạch giải cứu tù binh Mỹ tuyệt mật nói trên. Khoảng hai tuần sau đó cuộc tập kích diễn ra đúng như tôi dự đoán”… Còn sau đây là câu chuyện của ông Gia Huy, một cán bộ tình báo bí mật của Bộ Công an: “Khoảng giữa năm 1968, đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn trực tiếp cử tôi đi công tác ở một số nước Tây Âu. Noel năm sau, tôi nhờ một người bạn giỏi tiếng Anh làm phiên dịch rồi cùng đến “Nhà người Mỹ” (Maisons Etats-Unis) trong Cư xá Quốc tế tại đại lộ Jourdan ở Paris để tham dự một cuộc hội thảo với chủ đề “Chiến tranh và hòa bình”. Cuộc hội thảo diễn ra khá căng thẳng. Tôi tìm hiểu một số người phản chiến và nhanh chóng làm quen được với một số nhân tố tích cực. Đầu tiên là hai sinh viên Mỹ đang theo học khoa Sử có tên là L. và G. Để có tiền ăn học, L. phải làm bồi phòng cho đôi vợ chồng già ở quận III. Còn G. thì chưa có việc, tôi liền giới thiệu cho anh ta đến rửa bát cho một tiệm ăn Việt kiều. Mỗi ngày họ chỉ làm thêm vài tiếng đủ tiền công ăn học. Để giúp nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, sau khi nghỉ hè từ Mỹ trở lại Paris, không hiểu bằng nguồn nào, hai sinh viên đã đến trao tận tay tôi một tập tài liệu khá hoàn chỉnh gồm: giáo trình, giáo án, danh sách và ảnh nhận dạng một số nhân viên tình báo của chế độ ngụy Sài Gòn đang được huấn luyện tại bang Illinois. Một lần, vào cuối năm 1969, trong khi tham dự cuộc hội thảo về chống chiến tranh tại Genevre (Thụy Sỹ) do bà Voarôn và Tiến sĩ y khoa Ôntrama đồng chủ tọa, tôi đã tình cờ quen biết ông R. - một cựu nhân viên DIA (Cục Tình báo Quân đội Mỹ) vừa hết thời gian phục vụ ở Việt Nam. Hiện R. là một nhà báo đang làm việc cho một tờ tạp chí có uy tín ở Mỹ. R. từng bị chính quyền Mỹ gọi nhập ngũ phục vụ trong quân đội với lý do sang Việt Nam để “dẹp bọn phiến loạn Việt Cộng” và “giúp đồng minh” (chế độ ngụy Sài Gòn). R. đã tận mắt chứng kiến nhiều tội ác của quân đội Mỹ với dân thường Việt Nam, nên chán ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Và ông rất muốn làm một điều gì đó có ích cho nhân dân Việt Nam. Trung tuần tháng 10-1970, trong một cuộc họp báo của Người phát ngôn VNDCCH tại Paris, R. cố tìm tôi. Bốn mắt nhìn nhau… Tín hiệu cần gặp gấp. Tôi vào toa lét. Rất nhanh, R. cùng đi theo. Thay vì cái bắt tay như thông lệ, R. chìa hai ngón tay về phía trước, ở giữa kẹp một mảnh giấy nhỏ gấp tư. Tôi hiểu ý, kẹp luôn mảnh giấy vào tay mình. R. ghé sát tai tôi nói nhỏ: “Tin rất quan trọng đấy”, rồi vội vã đi luôn. Tôi đứng trong phòng toa lét đọc rất nhanh nguồn tin “nóng”, rồi quẳng mảnh giấy nhỏ vào bồn vệ sinh và xả nước… Trở lại nơi họp báo, tôi nhẩm lại nội dung thông tin quan trọng có trong mảnh giấy nhỏ: “Bộ Quốc phòng Mỹ đang ráo riết chuẩn bị một cuộc tập kích vào phía Tây-Bắc Hà Nội để giải thoát cho tù binh phi công Mỹ. Qua một linh mục người Việt Nam ở Bỉ, DIA đã tuyển chọn một số sĩ quan biệt kích người Tây Âu có kinh nghiệm cùng tham gia kế hoạch này”… Tôi vắt óc suy nghĩ: Thời gian qua, quân và dân miền Bắc nước ta đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái… Tất nhiên là phải có trại giam. Nhưng quả thật, tôi không hề biết những trại giam này đóng ở đâu. Sáng hôm sau, tôi đến Bruxell (Bỉ) để tìm gặp một cựu sĩ quan du kích chống phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ II, rất có cảm tình với Việt Nam. Ông này đã nhiệt tình cho tôi biết: “Lính biệt kích nhảy dù ở vùng đó không nhiều, nhưng cũng có những tay khá nổi tiếng trong hàng ngũ nhà binh. Đó là Fontaine, một người Bỉ, gốc Pháp. Ông ta là một chuyên gia quân báo, rất giỏi về huấn luyện biệt kích nhảy dù, đã từng cộng tác với tình báo Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ II. Sau đó, Fontaine gia nhập quân đội Mỹ. Đầu thập kỷ 60, ông ta đã nhiều lần sang miền Nam Việt Nam và Lào để huấn luyện biệt kích. Nghe nói, mặc dù đã giải nghệ từ lâu nhưng Fontaine lại vừa được người Mỹ mời cộng tác để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt gì đó” … Hồi đó, giới săn tin quốc tế thường kháo nhau: Nếu muốn biết việc gì đã, đang, hoặc sắp xảy ra tại Oasinhtơn (Mỹ), thì chỉ cần đến Paris hoặc London… bởi đó là những “trung tâm thông tin toàn cầu”. Liên hệ với nội dung có trong mảnh giấy do nhà báo R. cung cấp, tôi nhận định: Nguồn tin “nóng” của R. là có cơ sở. Nhưng chưa rõ kế hoạch đó sẽ được thực hiện trong thời điểm nào? Tôi quyết định chuyển nhanh tin trên về “nhà”: “Có thể địch sẽ cho quân nhảy dù, tập kích để giải thoát cho tù binh Mỹ ở vùng Tây Bắc Hà Nội. Xin báo cáo để tham khảo”. Sau này, khi về nước để báo cáo kết quả công tác, tôi đã được Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn biểu dương. Bộ trưởng còn cho biết: nguồn tin do tôi đưa về rất khớp với những nghi vấn do một số nguồn tin khác cung cấp cùng với nội dung “Địch có thể tập kích vào trại giam Sơn Tây”, mà ta chưa có điều kiện xác minh lại. Sau khi cân nhắc, cấp trên đã quyết định bí mật sơ tán ngay số tù binh phi công Mỹ ở Sơn Tây đến một trại giam dự bị, chỉ để lại một đơn vị thường trực trông coi doanh trại và sẵn sàng chiến đấu khi có địch. Việc sơ tán tù binh Mỹ đã được thực hiện đúng theo kế hoạch. Riêng việc thường trực sẵn sàng chiến đấu, lúc đầu đơn vị được giao nhiệm vụ đã thực hiện rất nghiêm chỉnh, nhưng vì không biết đích xác thời gian vụ tập kích xảy ra, sau vài tuần trực chiến không thấy gì, anh em đã mất cảnh giác, giao lại doanh trại cho bộ phận khác trông coi, nên khi bọn địch tập kích vào trại đã xảy ra chuyện đáng tiếc…”, như bạn đọc đã rõ. Tuy nhiên, với Lầu Năm Góc thì lại khác: Do kế hoạch của cuộc tập kích Sơn Tây được chuẩn bị quá công phu và tốn kém, lại chịu sức ép nặng nề của dư luận Mỹ, nên việc không giải cứu được một tù binh phi công nào là một sự thất bại nhục nhã và ê chề! Mặc dù đã “lường trước hậu quả xấu” có thể xảy ra, nhưng cả Nixon và Kissinger đều bị phe đối lập, quốc hội và dư luận Mỹ chỉ trích nặng nề. Để đối phó, vớt vát phần nào danh dự và trấn an dư luận, Lầu Năm Góc đã bày ra trò “họp báo” rùm beng để “tuyên dương công trạng” và thậm chí còn… gắn huân chương cho toán quân biệt kích thất bại của tướng Manor và đại tá Simons vừa liều lĩnh xâm nhập miền Bắc Việt Nam trở về. Các chuyên gia quân sự của Lầu Năm Góc thì cố gắng tìm mọi lý do để biện minh cho thất bại của họ: Có người bảo nguyên nhân là do phía Mỹ đã chủ quan vì quá tin vào khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại; có người lại cho Mỹ thất bại là do Hà Nội được báo trước; cũng có một số ý kiến cho rằng: việc tù binh Mỹ được sơ tán khỏi trại giam Sơn Tây trước khi vụ tập kích diễn ra, chỉ hoàn toàn là sự trùng lặp tình cờ… Tóm lại, đối với nhiều người Mỹ sự thất bại của cuộc tập kích Sơn Tây vẫn còn là một ẩn số. Và họ cho rằng đó là một trong những bí mật lớn nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam! HẬU “VỤ TẬP KÍCH CỨU PHI CÔNG MỸ Ở SƠN TÂY” HAY LÀ “ĐIỀU BÍ MẬT CUỐI CÙNG” Đã gần 30 năm trôi qua, nhưng bà Trần Thị Nghiên vẫn không sao quên được cái đêm kinh hoàng đó. Vốn là người hay nói lại có trí nhớ tốt, bà Nghiên đã vanh vách kể cho chúng tôi nghe, cứ như chuyện mới xảy ra tối hôm qua vậy: - Nhà tôi ở sát cổng chính của trại tù binh. Hồi đó, vùng Xã Tắc này còn vắng vẻ và nghèo lắm. Tôi làm nghề buôn gà, (nên nhiều người bây giờ vẫn quen gọi tôi bằng cái tên ghép là “Nghiên gà”). Còn nhớ, các chú bộ đội tiếp phẩm trong trại rất hay ra nhờ tôi đi thu mua gà và khoai tây giúp. Họ thường mua với số lượng lớn, mà phải là gà và khoai ngon nhất chợ mới lấy. Sau này hòa bình rồi, tôi mới biết là họ mua những thứ ấy cho tù binh phi công Mỹ ăn! Tối hôm trước đêm xảy ra vụ tập kích của Mỹ, có một chú bộ đội còn trẻ, khoác balô hỏi thăm đường vào trại giam. Chú ấy tự giới thiệu mình tên là Túc, người Nghệ An, mới tốt nghiệp kỹ sư xây dựng, được nhận quyết định về đây. Vì chú Túc chưa kịp báo cơm đơn vị, nên tôi mời chú ấy ăn tối với gia đình luôn, chả là bữa cơm có món thịt ngỗng rất ngon. Đêm ấy, tôi nhớ đã là ngày 23 tháng 10 âm lịch, trời sáng trăng suông, lạnh lắm, đắp chăn bông vẫn thấy rét, nên khó ngủ. Quãng nửa đêm, tôi choàng tỉnh dậy vì thấy tiếng máy bay cánh quạt ầm ầm ngay trên nóc nhà mình. Tôi ngó qua cánh cửa sổ nhỏ, thấy nhiều ánh sáng lóa mắt, rồi tiếng súng nổ inh tai. Từ chỗ tôi nằm đến cổng gác chính của trại giam chỉ khoảng hai chục bước chân, nên nhìn rất rõ. Tôi thấy có những người đội mũ sắt, to cao lừng lững, nói xì xà xì xồ, chạy đi chạy lại… Chồng tôi, ông Cấn Hữu Ân, thì thào bên tai: “Không phải bộ đội mình tập trận đâu! (Chẳng là hồi đó, bộ đội ta thường hay tập trận ở Sơn Tây), hình như có biệt kích Mỹ đổ bộ vào đây rồi. Bà dẫn các con đi ẩn nấp mau!”. Tôi hoảng quá, cuống cả lên, vội chui vào tủ quần áo ngồi, rồi chui xuống gầm giường nằm, không dám cả thở mạnh… Và sáng hôm sau, bà Nghiên lặng người khi nghe tiếng bà Tịnh hàng xóm của mình kêu giời, báo tin bên gia đình bà An bị giặc đạp cửa xông vào bắn cả nhà! - Đấy chính là vợ và các con của tôi! - ông Lê Việt Tiến nhớ lại - Hồi đó, tôi đang là Phó ty Công an tỉnh Hà Tây. Đêm ấy, khi đang ngủ tại cơ quan ở thị xã Hà Đông, tôi nhận được tin dữ báo, vội về nhà ngay và đến Sơn Tây khi trời còn chưa sáng. Các đồng chí công an của thị xã cho biết: Gia đình tôi có 4 người, thì 2 người đã chết, 2 người bị thương rất nặng. Họ khuyên tôi đừng trở về nhà, vì sợ tôi đau đớn quá mà không đủ bình tĩnh để xử lý công việc. Thế nhưng ông Lê Việt Tiến đã kiên quyết yêu cầu phải trực tiếp về để giải quyết việc nhà. Cho đến giờ, nhiều đồng sự, bạn bè cùng thời vẫn không hiểu ông đã lấy đâu ra sức mạnh, ý chí để có được sự bình tĩnh và nghị lực phi thường đến thế! Một mặt, ông thu xếp đưa hai con bị trọng thương đi viện cấp cứu, mặt khác ông trực tiếp lo tổ chức đám tang cho vợ và con gái. Hồi ấy, người ta rất ít khi tập trung đông người, vì cảnh giác với máy bay Mỹ. Nhưng riêng đám tang của vợ và con ông Lê Việt Tiến thì người dân Sơn Tây đã tập trung hàng ngàn người. Họ đã lặng lẽ xếp hàng dài và đi bộ tới 4-5 cây số theo xe chở thi hài bà Bích An và em Thu Hương. Cảm kích trước tấm lòng của nhân dân thị xã, nhưng ông cũng không đành để bà con rồng rắn đưa vợ con mình tới nơi an nghỉ cuối cùng trong nguy hiểm như vậy. Ông đã kiên trì thuyết phục mọi người nhanh chóng giải tán quay về, đề phòng máy bay Mỹ trở lại bắn phá, gây thêm tội ác. Vào thời gian xảy ra vụ tập kích Sơn Tây, 2 người con trai lớn của ông Việt Tiến là Lê Thành và Lê Văn Hùng đang học tập tại Liên Xô (cũ). Do hoàn cảnh chiến tranh, hồi đó việc liên lạc giữa họ và gia đình hết sức khó khăn. Mỗi lá thư đi và hồi âm trở lại thường phải mất mấy tháng trời. Sợ các con đau buồn, ảnh hưởng tới sức khỏe và học tập, ông Tiến đã cấm người nhà không được thông báo cho Thành và Hùng biết. Cần phải nói thêm rằng: cũng do hoàn cảnh chiến tranh, các phương tiện báo chí và thông tin đại chúng của nước ta hồi đó đã không hề hé lộ một chi tiết nào về “Vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây”. Chỉ những cán bộ có trách nhiệm mới được phổ biến những thông tin hạn chế, theo chế độ bảo mật chặt chẽ. Nhưng phía Mỹ thì lại khác, sau khi các toán biệt kích thất bại từ vụ tập kích trở về, để trấn an dư luận, Lầu Năm Góc đã tổ chức họp báo, “tuyên dương công trạng” rùm beng cho một số tên sĩ quan chỉ huy và cầm đầu cuộc tập kích. Nên hầu hết các báo chí nước ngoài, trong đó có báo chí của Liên Xô (cũ) đã đăng tin quân Mỹ tiến hành “Vụ tập kích Sơn Tây“. Và hai người con trai lớn của gia đình ông Lê Việt Tiến đã nhận được thông tin đầu tiên qua nguồn này. Họ lập tức viết thư về nhà cho bạn bè và chẳng bao lâu họ đã rõ toàn bộ sự thật đau lòng… Vậy mà họ đã phải nén đau thương để tiếp tục học tập, tiếp thu thật nhiều kiến thức để sau này trở về phục vụ đất nước. Và bây giờ, sau gần 30 năm, cả hai người đều đã thành đạt: một người là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an; người kia là Giám đốc Công ty Chế biến và kinh doanh sản phẩm dầu mỏ, thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị của 3 liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam. Trở lại chuyện hai người con của ông Lê Việt Tiến bị trọng thương năm 1970. Ngày đó, chị Lê Thị Thu Nga 15 tuổi, học lớp 9; còn anh Lê Việt Tuấn mới lên 9, đang học lớp 3. Chị Nga bị đạn của quân biệt kích Mỹ mất mảng xương thái dương bên trái; anh Tuấn cũng bị vỡ xương trên tai trái và hỏng một mắt. Cả hai người đều bị tổn thương sọ não rất nặng. Chị Thu Nga nhớ lại: - Đó là đêm thứ Bảy, vừa là ngày nghỉ cuối tuần, vừa trùng với ngày Nhà giáo Việt Nam. Như bao nơi khác, tuổi học trò chúng tôi đều được nghỉ học để mừng ngày lễ của các thầy cô giáo. Tôi còn nhớ, em Thu Hương theo bạn đến thăm cô giáo nên về nhà rất muộn. Đêm ấy, chúng tôi ngủ được một lúc thì nghe có tiếng máy bay ầm ầm trên trời, tiếng súng nổ loạn xạ xung quanh. Điện phụt tắt, nhưng ra ngoài bỗng thấy trời rực sáng như đang có nắng. (Sau này tôi mới biết quân biệt kích Mỹ thả pháo sáng). Do thường xuyên được nhà trường nhắc nhở các bài học cảnh giác, nên chúng tôi đoán biết có chuyện gì đó rất nguy hiểm đang xảy ra. Mẹ tôi vội giục cả nhà chui xuống gầm giường tránh mảnh đạn. Giường ngủ của nhà tôi kê gạch rất cao nên tôi có thể ngồi bó gối mà ngủ gà ngủ gật được. Nhưng tôi vẫn nghe có rất nhiều tiếng người nói xì xồ, chạy huỳnh huỵch bên ngoài. Một lúc sau, đột nhiên cánh cửa nhà tôi bị bật tung ra. Có mấy người đàn ông cao to hùng hổ xông vào. Rồi ánh đèn pin quét loang loáng trong tiếng súng nổ và tiếng lựu đạn choáng tai. Tôi nhắm mắt lại vì sợ hãi. Một lát sau, khi tiếng súng ngớt, tôi nghe rõ tiếng mẹ rên khe khẽ trong đau đớn: “Các con ơi… mẹ bị thương rồi… có lẽ chết mất…”. Tôi càng hoảng hơn khi thấy em Việt Tuấn cứ gục đầu vào người tôi mà lả đi. Tay tôi sờ vào chỗ nào cũng thấy có máu. Không hiểu nghĩ sao, lúc đó tôi đã dùng hết sức mình cõng em Tuấn ra đầu hồi nhà, nghỉ một lúc, tôi cõng em đi tiếp xuống phía cổng trại giam… Tới gần nhà bà Nghiên thì gặp các chú bộ đội. Tôi không biết rằng chính mình cũng đang bị thương rất nặng, máu chảy đầy mặt. Tôi chỉ kịp nói: “Các chú ơi, hãy đến cứu mẹ cháu và em cháu còn đang ở trong nhà”… thì xỉu luôn. Trong mê man, tôi vẫn nhận thấy mình được khênh lên ôtô, được băng bó, tiêm thuốc và cứu chữa ra sao… - Đầu tiên, tôi đưa 2 con mình đến Quân y viện 105 ở Sơn Lộc, cách nhà khoảng một cây số - ông Việt Tiến kể tiếp - Sơ cứu băng bó xong, tôi đề nghị đưa hai cháu đến Bệnh viện Việt-Đức để chạy chữa tiếp. Nhập viện cho 2 con bị thương xong, tôi vội quay về Sơn Tây để tổ chức tang lễ cho vợ và con gái ngay trong ngày 21-11-1970… Có lẽ cũng cần phải nhấn mạnh rằng: Đây là đám tang duy nhất của các nạn nhân đã bị quân biệt kích Mỹ sát hại trong vụ tập kích Sơn Tây. 11 người còn lại, do không có điều kiện, nên đành cho nhập quan tài rồi đem chôn cất luôn… - Trong số đó, có cả chú Túc kỹ sư xây dựng, người Nghệ An - Bà Nghiên bồi hồi, xúc động - Tối hôm trước, chú ấy còn vừa ăn cơm thịt ngỗng ở nhà tôi, vừa hẹn đi thăm quan Đền Và. Vậy mà sáng hôm sau đã trở thành oan hồn, chẳng kịp trăng trối điều gì. Thế là ngày 21-11 bỗng nhiên trở thành ngày giỗ của làng này. Hằng năm, tới ngày đó, ở Xã Tắc bây giờ nhà nhà đều thắp hương. Riêng tôi, năm nào cũng thắp hương khấn cho cả 6 chú bộ đội, với 6 chiếc bát và 6 đôi đũa trên mâm cơm cúng… Cho mãi tới năm ngoái (1997), người nhà của chú Túc mới ra bốc mộ mang hài cốt chú ấy về quê chôn cất… Anh Lê Việt Tuấn cho biết: - Hồi ấy, mặc dù còn rất nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ chị em mình đã được cứu chữa tại bệnh viện ra sao. Chúng tôi đều bị cạo hết tóc, đầu trọc lốc trước khi lên bàn mổ hộp sọ. Sau đó là nhiều ngày nằm bất động, với bông băng đầy người, tiếp nước liên tục. Nhiều người nhìn cảnh ấy đã không tin rằng chị em tôi lại có thể sống sót được. Vậy mà sau hai tháng điều trị, chúng tôi đã được Bệnh viện Việt-Đức cho về nhà ăn Tết. Sau đó, tôi còn phải vào Quân y viện 103 điều trị tiếp một tháng nữa mới tạm ổn. Tôi nói “tạm ổn” bởi vì cho tới hôm nay, sau gần 30 năm đầu tôi vẫn thường bị đau nhức, mắt tối sầm mỗi khi trái gió trở trời. Mấy mảnh đạn nhỏ còn lại trong người tôi thỉnh thoảng vẫn sưng tấy lên. Chị Thu Nga của tôi cũng vậy. Nếu lật tóc mai trái của chị ấy lên, sẽ thấy một vết lõm sâu và to như cái miệng chén Tống. Đó là chỗ mảnh xương sọ bị mất, rất nguy hiểm đến tính mạng nếu không may sơ ý bị một vật cứng đụng vào… Trước ngày giỗ lần thứ 28 của các nạn nhân trong “Vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây”, người viết bài này đã đến thăm ngôi nhà nhỏ nằm trong ngõ 50, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Đó là nơi cụ Lê Việt Tiến đang sống hạnh phúc cùng con cháu những năm tuổi già. Cụ vừa vinh dự được nhận huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Trước khi về nghỉ hưu, người cán bộ Công an lão thành này là Phó giám đốc Công an thành phố Hà Nội. Năm nay dù tuổi đã cao tới gần “bát thập”, nhưng cụ Việt Tiến vẫn còn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Cụ cho biết: Hằng năm vào ngày 21-11, thường có rất nhiều bà con Sơn Tây lặng lẽ tìm đến thắp hương trên bàn thờ của gia đình. Và cụ thường tự hào giới thiệu với khách: “Cháu Thu Nga của tôi giờ đang là giáo viên Trường tiểu học Ngọc Hà, chồng của cháu là Thiếu tá Công an công tác ở quận Ba Đình; cháu Việt Tuấn thì làm công nhân ở Công ty Điện tử Giảng Võ, lấy vợ công tác ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam…”. Còn hai điều khá đặc biệt này nữa, tuy cụ Việt Tiến không giới thiệu, nhưng hàng xóm với gia đình cụ ai cũng biết: Thứ nhất, là vào các ngày nghỉ, chủ nhật, hai người con trai lớn thành đạt, thường đi xe đạp hoặc đi bộ về thăm nhà (cụ Việt Tiến không thích họ đi ôtô, xe máy, vì sợ ồn ào và ầm ĩ dân phố), rồi ngoan ngoãn ngồi hầu chuyện và lắng nghe những lời răn dạy của cụ. Thứ hai là, sau khi người vợ yêu quý không may bị quân biệt kích Mỹ sát hại, mặc dù là một người đàn ông nổi tiếng “to khỏe, đẹp trai, có địa vị trong xã hội”, nhưng gần 30 năm qua cụ Lê Việt Tiến vẫn kiên quyết ở vậy mà không hề nghĩ chuyện “đi bước nữa”, để dành tâm trí phục vụ sự nghiệp và nuôi dạy con cháu… Sơn Tây - Hà Nội. Tháng 6 - tháng 12 năm 1998 SỰ THẬT VỀ VỤ TẬP KÍCH CỨU PHI CÔNG MỸ TẠI SƠN TÂY ĐẶNG VƯƠNG HƯNG NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN 65 Nguyễn Du, Hà Nội – ĐT & Fax: 8222135 Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN PHAN HÁCH Biên tập: LÊ MINH KHUÊ Trình bày: NGUYỄN SỸ - THANH NHÃ Vẽ bìa: VĂN SÁNG Sửa bản in: TRƯƠNG NAM HƯƠNG [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
Top