Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 8116" data-attributes="member: 7"><p><strong>ĐÊM SƠN TÂY KHÔNG QUÊN NGUỜI MỸ ĐÃ LÀM NHŨNG GÌ !</strong></p><p></p><p>Đoàn trực thăng biệt kích do một chiếc C-130 dẫn đường, lầm lũi bay trong đêm như kiểu đi ăn trộm. Simons ngồi trên chiếc trực thăng được ngụy danh là “Quả táo số Một” (Apple-1) bắt đầu ngủ lấy sức. Theo kế hoạch, kể cả thời gian tiếp liệu trên không phận của Lào, đúng 3 giờ sau họ sẽ đổ bộ xuống Sơn Tây…</p><p></p><p>Những phi công trong phi hành đoàn của Simons không ngờ rằng máy bay của họ chỉ là một trong hơn 100 chiếc đủ loại: Trực thăng, C-130, A-1, F-105, F-4… được cất cánh từ 5 căn cứ không quân tại Thái Lan, 3 tàu sân bay tại Vịnh Bắc bộ, mà Lầu Năm Góc đã huy động tham gia chiến dịch này. Và quy mô của chiến dịch diễn ra trên một vùng trời rộng tới 300.000 km2 của vùng Đông Nam Á!</p><p></p><p>Viên phi công Donohue lái chiếc “Quả táo số Ba” (Apple-3) bắt đầu hạ thấp độ cao khi bay vào không phận Việt Nam. Bay sau anh ta là hai chiếc “Quả táo số Bốn” (Apple-4) và “Quả táo số Năm” (Apple-5). Khi chỉ còn cách mặt đất chừng 500 bộ (1 bộ = 0.3048 mét), các phi công Mỹ đã có thể nhìn sông Đà lấp loáng dưới ánh trăng và dãy núi Tam Đảo trùng điệp để định hướng đúng như bản đồ bay đã ghi.</p><p></p><p>Khi chỉ còn cách mục tiêu khoảng 2 dặm, Donohue cho “Quả táo số Ba” bay chậm lại để chiếc Combat Talon C-130 cùng hai chiếc trực thăng khác vượt lên chuẩn bị thả pháo sáng. Lúc đó kim đồng hồ đã chỉ 2 giờ 17 phút của ngày 21-11-1970. Như vậy, phi hành đoàn biệt kích của Simons đã bay đến Sơn Tây nhanh hơn… 01 phút so với kế hoạch dự kiến. Quân Mỹ cho rằng đây là thời gian bộ đội canh giữ trại tù binh đang đổi gác, nên sẽ bị bất ngờ và không kịp trở tay!</p><p></p><p>Trong ánh pháo sáng lóa mắt của chiếc C-130 bắn xuống, đoàn trực thăng Mỹ bay sát ngọn cây, cánh quạt chém vào không khí tạo nên những luồng gió lốc rú rít ầm ầm giữa đêm khuya.</p><p></p><p>Sau những giây phút căng thẳng cố gắng định hướng cho máy bay đến đúng trại tù binh. Donohue bỗng phát hiện ra mình đã bay chệch về phía nam mục tiêu khoảng 400 mét. Nơi ấy cũng có một cơ sở giống như trại giam, nhưng không thấy có con sông nhỏ ở ngoài tường rào như các chuyên gia DIA đã mô tả. Anh ta lập tức lái chiếc “Quả táo số Ba” quay lại Bây giờ thì Donohue và cả đại úy Tom Waldron – viên phi công lái phụ đã nhìn thấy trại tù binh Sơn Tây với 3 chiếc chòi gác rõ mồn một. Chỉ có điều các cây cối trong trại có vẻ xanh tốt và cao to hơn rất nhiều so với những gì họ hình dung từ bên Mỹ. Có lẽ chúng đã lớn vổng lên sau mùa mưa vừa rồi!</p><p></p><p>“Chuẩn bị nổ súng!” - Donohue nói nhanh vào chiếc máy truyền tin, đồng thời anh ta hạ bớt tốc lực cánh quạt… “Bắn!”. Sau khẩu lệnh ngắn gọn, chiếc “Quả táo số Ba” rung lên. Hai khẩu Gatling được gắn bên hông của chiếc trực thăng thi nhau nhả đạn một cách tàn nhẫn. “Trúng rồi! Đổ sụp hết rồi!”… Có tiếng reo lên khoái trá của mấy xạ thủ. Donohue liếc mắt thấy rõ những chiếc chòi gác sụp xuống tan tành khi chiếc trực thăng lướt qua…</p><p></p><p>“Quả táo số Ba” đã hoàn thành nhiệm vụ mở màn cuộc đột kích. Nó bốc lên cao hơn, bay về hướng đông khoảng 1,5 dặm, tìm một bãi đất trống và đáp xuống. Cũng tại đây, một tốp trực thăng khác đã đợi sẵn, tất cả vẫn để cánh quạt quay tít. Chúng có nhiệm vụ chờ đón các tù binh được giải thoát đưa ra khỏi trại giam rồi bốc lên luôn… Theo kế hoạch đã được định trước, tất cả các nhân viên tổ lái đều được lệnh sẵn sàng lẳng hết các thứ dụng cụ mang theo cho máy bay nhẹ bớt… để ưu tiên di tản những tù binh phi công được cứu thoát.</p><p></p><p>Donohue vặn to âm lượng máy truyền tin. Sau 3 giờ đồng hồ phải bay trong câm lặng, bây giờ thì tất cả các máy truyền tin được mang theo của các toán tập kích đều đã bật công tắc. Thôi thì đủ các làn sóng FM, EM, VHF, UHF… với vô vàn những âm thanh hỗn tạp cùng vang lên trong tiếng súng nổ và tiếng động cơ cánh quạt trực thăng hối hả…</p><p></p><p>Có lẽ nhiệm vụ khó khăn nhất thuộc về chiếc trực thăng mang ngụy danh “Quả táo số Hai” do đại úy Richard Dick Meadows chỉ huy, phi công Herb Kalen lái chính và Herb Zender lái phụ. Bọn họ có nhiệm vụ chở một toán đột kích đáp xuống chiếc sân nhỏ của trại tù binh, ngay sau khi chiếc “Quả táo số Ba” đã tiêu diệt hết các mục tiêu chòi gác. Toán đột kích này có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là khống chế, tiêu diệt những bộ đội Việt Nam có trong trại và tiếp cận ngay các buồng giam để bảo vệ tù binh. Sau đó, họ sẽ “nội công” để một lực lượng khác “ngoại kích”, phá bức tường rào của trại giam, tìm cách đưa tù binh vừa giải cứu được ra ngoài…</p><p></p><p>Theo kế hoạch đã được các chuyên gia Mỹ tính toán rất kỹ thì chỉ cần chiếc HH-3 khổng lồ đáp được xuống khoảng sân nhỏ của trại giam, không làm tốp lính bị thương, đã là thành công! Một khối thuốc nổ C4 cực mạnh đã được khóa chặt dưới sàn của máy bay (đề phòng đối phương tháo gỡ), với 2 ngòi nổ hẹn giờ, để Meadows phá tan chiếc máy bay đó sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Nghe nói: một sĩ quan cao cấp của Lục quân đã không đồng ý với kế hoạch này, chỉ vì… tiếc của. Tướng Blackburn tức lắm! Ông ta đòi gặp riêng viên sĩ quan nọ để “làm cho ra nhẽ”. Viên sĩ quan nọ đã thật thà khuyên Blackburn nên dùng loại trực thăng UH-1 của bộ binh, giá tiền chỉ có 350.000 đôla một chiếc, thay vì dùng loại HH-3 của không quân, giá tiền những gần 1.000.000 đôla mỗi chiếc. Blackburn đã suýt nổi khùng lên. Ông ta nói đại ý: Không thể dùng đôla để cò kè hơn thiệt với tính mạng hàng trăm tù binh phi công Mỹ đang bị giam ở Sơn Tây. Đến thời điểm đó, quân đội Mỹ đã mất không dưới 3.000 chiếc trực thăng các loại trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ giàu có lắm, nếu có mất thêm một chiếc trực thăng nữa thì cũng như rơi cái đinh rỉ mà thôi! Nhưng chỉ cần mất một tên lính, hơn nữa lại là một phi công, thì đó là cả một sự khủng khiếp!</p><p></p><p>… Trở lại đêm thực tế ở Sơn Tây, mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng viên phi công Herb Kalen vẫn không tài nào điều khiển nổi chiếc “Quả táo số Hai” đáp xuống sân trại giam được như ý muốn. Vào những giây phút cuối cùng trước khi tiếp đất, càng của chiếc trực thăng đã vướng phải hàng dây thép chăng ngang sân (kiểu dây phơi quần áo), còn chiếc cánh quạt quá dài tới 62 bộ đã chém đứt ngang mấy thân cây to, băm nhỏ từng khúc, khiến cành lá của chúng văng ra tung tóe khắp nơi, rơi rụng ào ào… Một tiếng va chạm cực mạnh, ầm vang hơn cả bão lốc. Chiếc trực thăng đổ nhào trong sân trại tù binh khiến cho những tấm kính chắn gió vỡ vụn, ô cửa sổ méo mó. Động cơ máy bay gầm lên dữ dội và lồng lộn như thú dữ bị trọng thương. Chiếc cánh quạt sứt mẻ đã chém đứt thêm mấy đoạn cây lớn nữa, rồi mới chịu bất lực dừng hẳn vòng quay…</p><p></p><p>Cú va chạm khủng khiếp đã làm cho một tên lính Mỹ bị văng ra khỏi máy bay đến mấy mét, một tên khác bị vỡ cổ chân. Đại úy Meadows ê ẩm cả người, nhưng anh ta cố vùng ngay dậy được và thoát ra khỏi chiếc máy bay hỏng. Meadows chạy cách xa khoảng hơn chục mét thì dừng lại và quỳ xuống. Anh ta hướng chiếc loa pin vào khu buồng giam và bắt đầu phát thanh, giọng anh ta hổn hển, gấp gáp, nhưng cố gắng bình tĩnh: “Chú ý! Chú chú ý! Chúng tôi là người Mỹ! Chúng tôi đến đây để cứu thoát các anh ra khỏi chỗ này! Để đảm bảo an toàn, yêu cầu tất cả các anh hãy nằm xuống nền nhà! Chúng tôi sẽ vào phòng giam của các anh trong sau vài phút nữa!”…</p><p></p><p>Trong khi Meadows phát thanh nhắc lại nội dung trên nhiều lần, thì 13 người trong toán đột kích còn lại của anh ta với súng tiểu liên lăm lăm trong tay đã nhanh chóng tỏa ra tiếp cận các phòng giam và khu cổng trại chính. Họ xả súng bắn không tiếc đạn vào bất cứ thứ gì có vẻ khả nghi trên đường tiến quân.</p><p></p><p>“Chú ý! Chú ý! Chúng tôi là người Mỹ! Chúng tôi đến đây để cứu thoát các anh ra khỏi chỗ này!… Chúng tôi sẽ vào các phòng giam sau vài phút nữa…”.</p><p></p><p>Giọng Meadows vẫn vang vọng khắp khu trại giam, lẫn trong tiếng súng nổ và tiếng cánh quạt trực thăng phành phạch. Nhưng tuyệt nhiên không có sự hồi âm lại của phía các tù binh. Các phòng giam vẫn hoàn toàn im lặng một cách đáng ngờ!</p><p></p><p>Meadows xem đồng hồ: cuộc tập kích đã diễn ra được gần 3 phút. Vào giờ này, theo kế hoạch lẽ ra toán quân của Simons đã xuất hiện. Nhưng không hiểu họ biến đi đâu cả?</p><p></p><p>Bỗng xuất hiện một quầng sáng chói mắt, kèm theo một tiếng nổ lớn. Meadows thấy bờ tường rào phía nam đã bị bục một mảng lớn. Trong khói bụi khét lẹt, một toán biệt kích Mỹ hùng hổ nhảy vào. Nhưng đó lại là toán quân của trung tá Elliot Sydnor…</p><p></p><p>Thì ra chiếc trực thăng mang ngụy danh “Quả táo số Một” chở toán quân của Simons gồm 22 người, đã đổ bộ nhầm xuống một địa điểm cách mục tiêu khoảng 400 mét về phía nam. Nơi này, theo các chuyên gia DIA đã đánh dấu trong bản đồ bay là “Trường trung học”. (Thực ra, nơi đây nguyên là Trường Đảng của tỉnh Sơn Tây, sau ngày tỉnh Hà Tây được thành lập, trường được cải tạo thành nơi an dưỡng cho cán bộ). Trước khi cuộc tập kích xảy ra, Simons đã nhắc nhở các phi công rất kỹ: từ trên cao nhìn xuống nó rất giống mục tiêu, nên phải hết sức cẩn thận. Nhưng thật mỉa mai là chính viên phi công kỳ cựu Warner Britton chở toán của Simons lại bị mắc lừa! Simons đã nhận ra điều này sau khi chiếc trực thăng đã thả toán đổ bộ xuống bên ngoài bức tường rào và bay lên cao. Ông ta ngạc nhiên vì chờ mãi mà không nghe tiếng Dick Meadows phát thanh kêu gọi tù binh nằm xuống tránh đạn, cũng không nghe tiếng súng nổ phía trong. Để chắc chắn, Simons lệnh cho toán lính phá vỡ bức tường rào và xông vào… Tại đây trước khi rút ra ngoài, những tên lính biệt kích Mỹ đã gây ra một tội ác man rợ: Chúng xả súng bắn chết 5 cán bộ an dưỡng khi họ đang ngủ… Và chỉ trong 5 phút, chúng đã đốt phá cơ sở này thành một bó đuốc lớn!</p><p></p><p>Khi chiếc trực thăng “Quả táo số Một” quay lại đón toán của Simons đến đúng vị trí của mục tiêu, thì cuộc tập kích đã diễn ra được 8 phút. Simons lập tức liên lạc bằng bộ đàm với Dick Meadows và Elliot Sydnor, lệnh cho các toán trở lại Phương án Một. (Trước đó, vì phát hiện ra Simons đổ bộ sai vị trí, Elliot Sydnor đã quyết định cho toán quân của mình chia làm đôi để thế chỗ và thông báo qua bộ đàm xin thực hiện Phương án Hai).</p><p></p><p>Theo đúng kế hoạch, sau khi thiết lập xong Sở chỉ huy nhẹ, Simons vội cho một tốp lính đi phá sập cầu Sông Tích bằng thuốc nổ. Trong khi đó, toán lính của Sydnor cũng đã phá sụp trạm biến thế cùng các cột điện gần đó, cắt hết điện lưới cung cấp cho trại tù binh và các khu vực xung quanh. Và mặc dù không có trong dự định trước, nhưng tốp lính này đã dùng chất nổ phá tan luôn cả trạm bơm nước của thủy lợi gần đó (Đây thực sự là hành động của những tên lính xâm lược đã quen nghề ăn cướp và phá hoại !).</p><p></p><p>Chưa hết! Trên đường tiến quân, một tên lính của toán Simons đã đạp cửa xông vào một trong ba ngôi nhà dân hiếm hoi của cả vùng, bởi nhà này còn thắp điện sáng. Một người mẹ và ba đứa con nhỏ đang ngủ ngon. Bỗng nghe tiếng súng, bốn mẹ con sợ quá vội chui xuống gầm giường. Tên lính Mỹ soi đèn pin và phát hiện ra họ. Hắn đã dã man bóp cò súng, bắn trọn một băng tiểu liên vào người phụ nữ và ba đứa trẻ. Bà Nguyễn Thị An, 48 tuổi và cháu gái Lê Thu Hương 12 tuổi chết ngay tại chỗ. Cháu gái Lê Thu Nga, 15 tuổi và cháu trai Lê Việt Tuấn, 9 tuổi, bị thương rất nặng bởi trúng nhiều vết đạn…</p><p></p><p>Cùng lúc đó, sau khi gọi loa phát thanh, Dick Meadows đã chỉ huy toán lính phá khóa đột nhập vào từng buồng giam. Hầu hết các phòng đều trống không… Nhưng trong một căn buồng nhỏ, toán biệt kích Mỹ đã phát hiện ra 6 người đàn ông đang cởi trần nằm ngủ. Họ chính là những người lính có nhiệm vụ trông coi trại giam sau khi tù binh Mỹ đã chuyển đi nơi khác, và đều thuộc diện quân số thu dung (những người đang ốm yếu, bệnh tật, an dưỡng từ nhiều nơi được điều về… nghĩa là không phải quân số tham gia công tác, chiến đấu, nên thường không được trang bị vũ khí). Và toán lính của Meadows đã xả súng bắn chết tất cả 6 người đàn ông không hề có vũ trang này!</p><p></p><p>Thượng sĩ Jemmer là người đầu tiên được lệnh lục soát các phòng giam. Anh ta hết sức kinh ngạc, bởi phòng nào cũng trống không! Tuyệt nhiên không thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ có tù binh Mỹ đang ở.</p><p></p><p>Trung úy Petrie, trưởng toán hành động đứng bên ngoài cảnh giới sốt ruột hỏi vọng vào:</p><p></p><p>- Có tìm thấy ai không? Có gặp người nào không?</p><p></p><p>Jemmer đáp gọn lỏn:</p><p></p><p>- Chẳng thấy mống nào hết !</p><p></p><p>Petrie không tin, anh ta vội lao vào, trực tiếp cầm đèn pin soi từng phòng một. Nhưng sự thật vẫn là những căn phòng hoàn toàn trống rỗng! Một số phòng các cửa sổ bị mở toang, nền nhà đầy bụi bặm và không khí nồng nặc mùi ẩm mốc. Thật khó mà xác định được chúng đã bị bỏ hoang bao lâu. Có thể đã vài tuần, nhưng cũng có thể chỉ mới vài ngày…</p><p></p><p>Sau một hồi lục soát và tìm kiếm vô vọng, đại úy Meadows đành báo cáo qua bộ đàm:</p><p></p><p>- Trại giam trống rỗng! Không tìm thấy một tù binh Mỹ nào cả!</p><p></p><p>“Không tìm thấy một tù binh nào cả!”, “Không tìm thấy một tù binh nào cả!”… Câu nói ấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần và truyền từ người này tới người khác, sau cùng nó đã đến tai Simons như một cú sét, khiến cho ông ta không khỏi giật mình choáng váng.</p><p></p><p>- Các anh đã kiểm tra thật kỹ chưa? - Simons không tin hốt hoảng hỏi lại. Giọng ông ta nghe lạc hẳn đi.</p><p></p><p>- Thì tôi đang ở trong một phòng giam đây! - Meadows bực mình gào lên trong máy.</p><p></p><p>Đồng hồ đã chỉ sang phút thứ 18 kể từ khi bắt đầu cuộc tập kích. Simons lệnh cho mấy tên lính đem theo máy ảnh vào các buồng giam để chụp ảnh. Và đích thân ông ta đã vào tận nơi để kiểm tra lần cuối cùng, với một tâm trạng đầy thất vọng và chán chường.</p><p></p><p>Một bức điện không có trong dự kiến đã được viên sĩ quan truyền tin của Simons gửi cho tướng Manor ở Bộ chỉ huy cuộc hành quân tại Đà Nẵng: “Không có một tù binh nào cả”, trước khi đại tá Simons hạ lệnh cho tất cả toán tập tập kích rút lui và lên máy bay.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 8116, member: 7"] [B]ĐÊM SƠN TÂY KHÔNG QUÊN NGUỜI MỸ ĐÃ LÀM NHŨNG GÌ ![/B] Đoàn trực thăng biệt kích do một chiếc C-130 dẫn đường, lầm lũi bay trong đêm như kiểu đi ăn trộm. Simons ngồi trên chiếc trực thăng được ngụy danh là “Quả táo số Một” (Apple-1) bắt đầu ngủ lấy sức. Theo kế hoạch, kể cả thời gian tiếp liệu trên không phận của Lào, đúng 3 giờ sau họ sẽ đổ bộ xuống Sơn Tây… Những phi công trong phi hành đoàn của Simons không ngờ rằng máy bay của họ chỉ là một trong hơn 100 chiếc đủ loại: Trực thăng, C-130, A-1, F-105, F-4… được cất cánh từ 5 căn cứ không quân tại Thái Lan, 3 tàu sân bay tại Vịnh Bắc bộ, mà Lầu Năm Góc đã huy động tham gia chiến dịch này. Và quy mô của chiến dịch diễn ra trên một vùng trời rộng tới 300.000 km2 của vùng Đông Nam Á! Viên phi công Donohue lái chiếc “Quả táo số Ba” (Apple-3) bắt đầu hạ thấp độ cao khi bay vào không phận Việt Nam. Bay sau anh ta là hai chiếc “Quả táo số Bốn” (Apple-4) và “Quả táo số Năm” (Apple-5). Khi chỉ còn cách mặt đất chừng 500 bộ (1 bộ = 0.3048 mét), các phi công Mỹ đã có thể nhìn sông Đà lấp loáng dưới ánh trăng và dãy núi Tam Đảo trùng điệp để định hướng đúng như bản đồ bay đã ghi. Khi chỉ còn cách mục tiêu khoảng 2 dặm, Donohue cho “Quả táo số Ba” bay chậm lại để chiếc Combat Talon C-130 cùng hai chiếc trực thăng khác vượt lên chuẩn bị thả pháo sáng. Lúc đó kim đồng hồ đã chỉ 2 giờ 17 phút của ngày 21-11-1970. Như vậy, phi hành đoàn biệt kích của Simons đã bay đến Sơn Tây nhanh hơn… 01 phút so với kế hoạch dự kiến. Quân Mỹ cho rằng đây là thời gian bộ đội canh giữ trại tù binh đang đổi gác, nên sẽ bị bất ngờ và không kịp trở tay! Trong ánh pháo sáng lóa mắt của chiếc C-130 bắn xuống, đoàn trực thăng Mỹ bay sát ngọn cây, cánh quạt chém vào không khí tạo nên những luồng gió lốc rú rít ầm ầm giữa đêm khuya. Sau những giây phút căng thẳng cố gắng định hướng cho máy bay đến đúng trại tù binh. Donohue bỗng phát hiện ra mình đã bay chệch về phía nam mục tiêu khoảng 400 mét. Nơi ấy cũng có một cơ sở giống như trại giam, nhưng không thấy có con sông nhỏ ở ngoài tường rào như các chuyên gia DIA đã mô tả. Anh ta lập tức lái chiếc “Quả táo số Ba” quay lại Bây giờ thì Donohue và cả đại úy Tom Waldron – viên phi công lái phụ đã nhìn thấy trại tù binh Sơn Tây với 3 chiếc chòi gác rõ mồn một. Chỉ có điều các cây cối trong trại có vẻ xanh tốt và cao to hơn rất nhiều so với những gì họ hình dung từ bên Mỹ. Có lẽ chúng đã lớn vổng lên sau mùa mưa vừa rồi! “Chuẩn bị nổ súng!” - Donohue nói nhanh vào chiếc máy truyền tin, đồng thời anh ta hạ bớt tốc lực cánh quạt… “Bắn!”. Sau khẩu lệnh ngắn gọn, chiếc “Quả táo số Ba” rung lên. Hai khẩu Gatling được gắn bên hông của chiếc trực thăng thi nhau nhả đạn một cách tàn nhẫn. “Trúng rồi! Đổ sụp hết rồi!”… Có tiếng reo lên khoái trá của mấy xạ thủ. Donohue liếc mắt thấy rõ những chiếc chòi gác sụp xuống tan tành khi chiếc trực thăng lướt qua… “Quả táo số Ba” đã hoàn thành nhiệm vụ mở màn cuộc đột kích. Nó bốc lên cao hơn, bay về hướng đông khoảng 1,5 dặm, tìm một bãi đất trống và đáp xuống. Cũng tại đây, một tốp trực thăng khác đã đợi sẵn, tất cả vẫn để cánh quạt quay tít. Chúng có nhiệm vụ chờ đón các tù binh được giải thoát đưa ra khỏi trại giam rồi bốc lên luôn… Theo kế hoạch đã được định trước, tất cả các nhân viên tổ lái đều được lệnh sẵn sàng lẳng hết các thứ dụng cụ mang theo cho máy bay nhẹ bớt… để ưu tiên di tản những tù binh phi công được cứu thoát. Donohue vặn to âm lượng máy truyền tin. Sau 3 giờ đồng hồ phải bay trong câm lặng, bây giờ thì tất cả các máy truyền tin được mang theo của các toán tập kích đều đã bật công tắc. Thôi thì đủ các làn sóng FM, EM, VHF, UHF… với vô vàn những âm thanh hỗn tạp cùng vang lên trong tiếng súng nổ và tiếng động cơ cánh quạt trực thăng hối hả… Có lẽ nhiệm vụ khó khăn nhất thuộc về chiếc trực thăng mang ngụy danh “Quả táo số Hai” do đại úy Richard Dick Meadows chỉ huy, phi công Herb Kalen lái chính và Herb Zender lái phụ. Bọn họ có nhiệm vụ chở một toán đột kích đáp xuống chiếc sân nhỏ của trại tù binh, ngay sau khi chiếc “Quả táo số Ba” đã tiêu diệt hết các mục tiêu chòi gác. Toán đột kích này có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là khống chế, tiêu diệt những bộ đội Việt Nam có trong trại và tiếp cận ngay các buồng giam để bảo vệ tù binh. Sau đó, họ sẽ “nội công” để một lực lượng khác “ngoại kích”, phá bức tường rào của trại giam, tìm cách đưa tù binh vừa giải cứu được ra ngoài… Theo kế hoạch đã được các chuyên gia Mỹ tính toán rất kỹ thì chỉ cần chiếc HH-3 khổng lồ đáp được xuống khoảng sân nhỏ của trại giam, không làm tốp lính bị thương, đã là thành công! Một khối thuốc nổ C4 cực mạnh đã được khóa chặt dưới sàn của máy bay (đề phòng đối phương tháo gỡ), với 2 ngòi nổ hẹn giờ, để Meadows phá tan chiếc máy bay đó sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Nghe nói: một sĩ quan cao cấp của Lục quân đã không đồng ý với kế hoạch này, chỉ vì… tiếc của. Tướng Blackburn tức lắm! Ông ta đòi gặp riêng viên sĩ quan nọ để “làm cho ra nhẽ”. Viên sĩ quan nọ đã thật thà khuyên Blackburn nên dùng loại trực thăng UH-1 của bộ binh, giá tiền chỉ có 350.000 đôla một chiếc, thay vì dùng loại HH-3 của không quân, giá tiền những gần 1.000.000 đôla mỗi chiếc. Blackburn đã suýt nổi khùng lên. Ông ta nói đại ý: Không thể dùng đôla để cò kè hơn thiệt với tính mạng hàng trăm tù binh phi công Mỹ đang bị giam ở Sơn Tây. Đến thời điểm đó, quân đội Mỹ đã mất không dưới 3.000 chiếc trực thăng các loại trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ giàu có lắm, nếu có mất thêm một chiếc trực thăng nữa thì cũng như rơi cái đinh rỉ mà thôi! Nhưng chỉ cần mất một tên lính, hơn nữa lại là một phi công, thì đó là cả một sự khủng khiếp! … Trở lại đêm thực tế ở Sơn Tây, mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng viên phi công Herb Kalen vẫn không tài nào điều khiển nổi chiếc “Quả táo số Hai” đáp xuống sân trại giam được như ý muốn. Vào những giây phút cuối cùng trước khi tiếp đất, càng của chiếc trực thăng đã vướng phải hàng dây thép chăng ngang sân (kiểu dây phơi quần áo), còn chiếc cánh quạt quá dài tới 62 bộ đã chém đứt ngang mấy thân cây to, băm nhỏ từng khúc, khiến cành lá của chúng văng ra tung tóe khắp nơi, rơi rụng ào ào… Một tiếng va chạm cực mạnh, ầm vang hơn cả bão lốc. Chiếc trực thăng đổ nhào trong sân trại tù binh khiến cho những tấm kính chắn gió vỡ vụn, ô cửa sổ méo mó. Động cơ máy bay gầm lên dữ dội và lồng lộn như thú dữ bị trọng thương. Chiếc cánh quạt sứt mẻ đã chém đứt thêm mấy đoạn cây lớn nữa, rồi mới chịu bất lực dừng hẳn vòng quay… Cú va chạm khủng khiếp đã làm cho một tên lính Mỹ bị văng ra khỏi máy bay đến mấy mét, một tên khác bị vỡ cổ chân. Đại úy Meadows ê ẩm cả người, nhưng anh ta cố vùng ngay dậy được và thoát ra khỏi chiếc máy bay hỏng. Meadows chạy cách xa khoảng hơn chục mét thì dừng lại và quỳ xuống. Anh ta hướng chiếc loa pin vào khu buồng giam và bắt đầu phát thanh, giọng anh ta hổn hển, gấp gáp, nhưng cố gắng bình tĩnh: “Chú ý! Chú chú ý! Chúng tôi là người Mỹ! Chúng tôi đến đây để cứu thoát các anh ra khỏi chỗ này! Để đảm bảo an toàn, yêu cầu tất cả các anh hãy nằm xuống nền nhà! Chúng tôi sẽ vào phòng giam của các anh trong sau vài phút nữa!”… Trong khi Meadows phát thanh nhắc lại nội dung trên nhiều lần, thì 13 người trong toán đột kích còn lại của anh ta với súng tiểu liên lăm lăm trong tay đã nhanh chóng tỏa ra tiếp cận các phòng giam và khu cổng trại chính. Họ xả súng bắn không tiếc đạn vào bất cứ thứ gì có vẻ khả nghi trên đường tiến quân. “Chú ý! Chú ý! Chúng tôi là người Mỹ! Chúng tôi đến đây để cứu thoát các anh ra khỏi chỗ này!… Chúng tôi sẽ vào các phòng giam sau vài phút nữa…”. Giọng Meadows vẫn vang vọng khắp khu trại giam, lẫn trong tiếng súng nổ và tiếng cánh quạt trực thăng phành phạch. Nhưng tuyệt nhiên không có sự hồi âm lại của phía các tù binh. Các phòng giam vẫn hoàn toàn im lặng một cách đáng ngờ! Meadows xem đồng hồ: cuộc tập kích đã diễn ra được gần 3 phút. Vào giờ này, theo kế hoạch lẽ ra toán quân của Simons đã xuất hiện. Nhưng không hiểu họ biến đi đâu cả? Bỗng xuất hiện một quầng sáng chói mắt, kèm theo một tiếng nổ lớn. Meadows thấy bờ tường rào phía nam đã bị bục một mảng lớn. Trong khói bụi khét lẹt, một toán biệt kích Mỹ hùng hổ nhảy vào. Nhưng đó lại là toán quân của trung tá Elliot Sydnor… Thì ra chiếc trực thăng mang ngụy danh “Quả táo số Một” chở toán quân của Simons gồm 22 người, đã đổ bộ nhầm xuống một địa điểm cách mục tiêu khoảng 400 mét về phía nam. Nơi này, theo các chuyên gia DIA đã đánh dấu trong bản đồ bay là “Trường trung học”. (Thực ra, nơi đây nguyên là Trường Đảng của tỉnh Sơn Tây, sau ngày tỉnh Hà Tây được thành lập, trường được cải tạo thành nơi an dưỡng cho cán bộ). Trước khi cuộc tập kích xảy ra, Simons đã nhắc nhở các phi công rất kỹ: từ trên cao nhìn xuống nó rất giống mục tiêu, nên phải hết sức cẩn thận. Nhưng thật mỉa mai là chính viên phi công kỳ cựu Warner Britton chở toán của Simons lại bị mắc lừa! Simons đã nhận ra điều này sau khi chiếc trực thăng đã thả toán đổ bộ xuống bên ngoài bức tường rào và bay lên cao. Ông ta ngạc nhiên vì chờ mãi mà không nghe tiếng Dick Meadows phát thanh kêu gọi tù binh nằm xuống tránh đạn, cũng không nghe tiếng súng nổ phía trong. Để chắc chắn, Simons lệnh cho toán lính phá vỡ bức tường rào và xông vào… Tại đây trước khi rút ra ngoài, những tên lính biệt kích Mỹ đã gây ra một tội ác man rợ: Chúng xả súng bắn chết 5 cán bộ an dưỡng khi họ đang ngủ… Và chỉ trong 5 phút, chúng đã đốt phá cơ sở này thành một bó đuốc lớn! Khi chiếc trực thăng “Quả táo số Một” quay lại đón toán của Simons đến đúng vị trí của mục tiêu, thì cuộc tập kích đã diễn ra được 8 phút. Simons lập tức liên lạc bằng bộ đàm với Dick Meadows và Elliot Sydnor, lệnh cho các toán trở lại Phương án Một. (Trước đó, vì phát hiện ra Simons đổ bộ sai vị trí, Elliot Sydnor đã quyết định cho toán quân của mình chia làm đôi để thế chỗ và thông báo qua bộ đàm xin thực hiện Phương án Hai). Theo đúng kế hoạch, sau khi thiết lập xong Sở chỉ huy nhẹ, Simons vội cho một tốp lính đi phá sập cầu Sông Tích bằng thuốc nổ. Trong khi đó, toán lính của Sydnor cũng đã phá sụp trạm biến thế cùng các cột điện gần đó, cắt hết điện lưới cung cấp cho trại tù binh và các khu vực xung quanh. Và mặc dù không có trong dự định trước, nhưng tốp lính này đã dùng chất nổ phá tan luôn cả trạm bơm nước của thủy lợi gần đó (Đây thực sự là hành động của những tên lính xâm lược đã quen nghề ăn cướp và phá hoại !). Chưa hết! Trên đường tiến quân, một tên lính của toán Simons đã đạp cửa xông vào một trong ba ngôi nhà dân hiếm hoi của cả vùng, bởi nhà này còn thắp điện sáng. Một người mẹ và ba đứa con nhỏ đang ngủ ngon. Bỗng nghe tiếng súng, bốn mẹ con sợ quá vội chui xuống gầm giường. Tên lính Mỹ soi đèn pin và phát hiện ra họ. Hắn đã dã man bóp cò súng, bắn trọn một băng tiểu liên vào người phụ nữ và ba đứa trẻ. Bà Nguyễn Thị An, 48 tuổi và cháu gái Lê Thu Hương 12 tuổi chết ngay tại chỗ. Cháu gái Lê Thu Nga, 15 tuổi và cháu trai Lê Việt Tuấn, 9 tuổi, bị thương rất nặng bởi trúng nhiều vết đạn… Cùng lúc đó, sau khi gọi loa phát thanh, Dick Meadows đã chỉ huy toán lính phá khóa đột nhập vào từng buồng giam. Hầu hết các phòng đều trống không… Nhưng trong một căn buồng nhỏ, toán biệt kích Mỹ đã phát hiện ra 6 người đàn ông đang cởi trần nằm ngủ. Họ chính là những người lính có nhiệm vụ trông coi trại giam sau khi tù binh Mỹ đã chuyển đi nơi khác, và đều thuộc diện quân số thu dung (những người đang ốm yếu, bệnh tật, an dưỡng từ nhiều nơi được điều về… nghĩa là không phải quân số tham gia công tác, chiến đấu, nên thường không được trang bị vũ khí). Và toán lính của Meadows đã xả súng bắn chết tất cả 6 người đàn ông không hề có vũ trang này! Thượng sĩ Jemmer là người đầu tiên được lệnh lục soát các phòng giam. Anh ta hết sức kinh ngạc, bởi phòng nào cũng trống không! Tuyệt nhiên không thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ có tù binh Mỹ đang ở. Trung úy Petrie, trưởng toán hành động đứng bên ngoài cảnh giới sốt ruột hỏi vọng vào: - Có tìm thấy ai không? Có gặp người nào không? Jemmer đáp gọn lỏn: - Chẳng thấy mống nào hết ! Petrie không tin, anh ta vội lao vào, trực tiếp cầm đèn pin soi từng phòng một. Nhưng sự thật vẫn là những căn phòng hoàn toàn trống rỗng! Một số phòng các cửa sổ bị mở toang, nền nhà đầy bụi bặm và không khí nồng nặc mùi ẩm mốc. Thật khó mà xác định được chúng đã bị bỏ hoang bao lâu. Có thể đã vài tuần, nhưng cũng có thể chỉ mới vài ngày… Sau một hồi lục soát và tìm kiếm vô vọng, đại úy Meadows đành báo cáo qua bộ đàm: - Trại giam trống rỗng! Không tìm thấy một tù binh Mỹ nào cả! “Không tìm thấy một tù binh nào cả!”, “Không tìm thấy một tù binh nào cả!”… Câu nói ấy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần và truyền từ người này tới người khác, sau cùng nó đã đến tai Simons như một cú sét, khiến cho ông ta không khỏi giật mình choáng váng. - Các anh đã kiểm tra thật kỹ chưa? - Simons không tin hốt hoảng hỏi lại. Giọng ông ta nghe lạc hẳn đi. - Thì tôi đang ở trong một phòng giam đây! - Meadows bực mình gào lên trong máy. Đồng hồ đã chỉ sang phút thứ 18 kể từ khi bắt đầu cuộc tập kích. Simons lệnh cho mấy tên lính đem theo máy ảnh vào các buồng giam để chụp ảnh. Và đích thân ông ta đã vào tận nơi để kiểm tra lần cuối cùng, với một tâm trạng đầy thất vọng và chán chường. Một bức điện không có trong dự kiến đã được viên sĩ quan truyền tin của Simons gửi cho tướng Manor ở Bộ chỉ huy cuộc hành quân tại Đà Nẵng: “Không có một tù binh nào cả”, trước khi đại tá Simons hạ lệnh cho tất cả toán tập tập kích rút lui và lên máy bay. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
Top