Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 8113" data-attributes="member: 7"><p><strong>THUYẾT TRÌNH VÀ LẠI…THUYẾT TRÌNH</strong></p><p></p><p>Cần nhớ rằng, vào thời điểm này, Mỹ đang sa lầy trong chiến tranh Việt Nam. Số lính Mỹ bị chết trận trung bình là 500 mỗi tháng. Riêng tháng 5-1970, có tới 754 lính Mỹ bị chết ở chiến trường Nam Việt Nam. Và số quân dự trữ chiến lược ở các đơn vị trực tiếp tham chiến đã thiếu hụt tới mức báo động. Tổng thống Mỹ Nixon rất sợ thêm tai tiếng xấu trước dư luận trong nước và thế giới. Cho nên Lầu Năm Góc không dễ gì thông qua kế hoạch giải thoát tù binh phi công Mỹ của Blackburn và Mayer. </p><p></p><p>Cũng ngày 25-5-1970, Blackburn và Mayer đã xin được gặp tướng Earle G. Wheeler. Ông này là Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân từ năm 1964, trước khi xảy ra cái gọi là “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”. Wheeler là một trong những người ủng hộ SACSA mạnh nhất. Trong thời gian McNamara còn làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, chính ông này đã đệ trình giới thiệu nhiều kế hoạch hoạt động của SACSA rất thành công. Nghe thuyết trình xong, Wheeler đã thốt lên: “Lạy Chúa, phải có bao nhiêu tiếu đoàn mới làm được việc này!”. Tuy nhiên, Wheeler vẫn ủng hộ bằng cách giới thiệu Blackburn với đô đốc Thomas Moorer, người sẽ thay thế chức vụ của Được “bật đèn xanh”, Blackburn và Mayer đã lập tức đề nghị Cục Tình báo quân đội Mỹ (DIA) giúp đỡ bổ sung thêm tin tức tình báo và phác họa một kế hoạch hành động. Và chỉ một ngày sau, tức ngày 26-5-1970, DIA đã chính thức vào cuộc với sự ủng hộ tích cực của trung tướng Donald Bennett, Giám đốc cơ quan này.</p><p></p><p>Ngày 27-5-1970, Blackburn và Mayer lại đến gặp trung tướng John Vogt, Chỉ huy cơ quan Hỗn hợp tác chiến của lực lượng Không quân Mỹ. Ông này cũng đã thốt lên: “Lạy chúa, thế bao giờ anh báo cho Chính phủ biết công việc quan trọng này?”.</p><p></p><p>Ngày 1-6-1970, tướng John Vogt và tướng Bennett đã cùng nghe lại bản thuyết trình mới được bổ sung thông tin của Blackburn và Mayer. Bọn họ đã cùng cân nhắc bàn bạc rất kỹ từng phương án được nêu ra, với những tình huống rất cụ thể trong việc tập kích giải thoát tù binh Mỹ… Hôm sau, ngày 2-6- 1970, Blackburn và Mayer lại được tướng Wheeler tiếp và nghe lại bản thuyết trình lần nữa. Ông ta đã khẳng định ngay: “Tôi tin rằng không ai có thể từ chối đối với cuộc hành quân này?”.</p><p></p><p>Được phép của Wheeler, chiều ngày 5-6-1970, tại một phòng họp đặc biệt có tên là “TANK” Blackburn và Mayer đã thuyết trình kế hoạch của mình cho Hội đồng Tham mưu trưởng cùng nghe. Không một ai hỏi thêm câu nào. Các tướng Mỹ có mặt hôm đó đều đồng ý rằng SACSA cần thực hiện cho được kế hoạch này !</p><p></p><p>Chưa hết, những ngày sau, Blackburn và Mayer còn phải thuyết trình thêm cho các phụ tá tham mưu trưởng liên quân, để tranh thủ sự ủng hộ của họ. (Vì mỗi vị này đều nắm trong tay cả sư đoàn quân!). Nhờ đó, sau này SACSA mới có thể yêu cầu được tuyển chọn người, trang bị các loại vũ khí, phương tiện và rất nhiều các khoản tiền chi đặc biệt theo yêu cầu, để phục vụ cho cuộc tập kích Sơn Tây. Để thuận lợi hơn trong khi hành sự, Blackburn và Mayer còn tìm đến tổng hành dinh của CIA để gặp Phụ tá đặc biệt của Giám đốc về Đông Nam Á là George Carver cùng Phụ tá của ông ta. Công việc này cũng đã khiến cho họ tốn kém không ít thời gian.</p><p></p><p>Và cuối cùng, ngày 10-7-1970, tại Lầu Năm Góc đã có một cuộc họp đặc biệt với sự có mặt tham gia của rất nhiều tướng lĩnh cao cấp của Bộ Quốc phòng Mỹ: ĐÔ đốc Moorer, tân Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân; thống tướng Westmoreland, Tham mưu trưởng lục quân; thống tướng John Dale Ryan, Tư lệnh lực lượng Không quân; Đô đốc Elmo Zumwalt, Tư lệnh lực lượng Hải quân; tướng Leonard F. Chapman, Tư lệnh lực lượng Thủy quân lục chiến… Họ đã chăm chú lắng nghe thuyết trình về kế hoạch giải cứu tù binh phi công Mỹ, để cùng nhau hoàn chỉnh, trước khi đệ trình lên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Melvin Laird…</p><p></p><p>Một tuần sau, bản báo cáo kế hoạch khá hoàn chỉnh và chi tiết nói trên đã được đặt trên bàn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ. Phản ứng đầu tiên của ông này là sự lo ngại về độ chính xác của các tin tức tình báo. Ông ta tự hỏi: Liệu quân biệt kích Mỹ có thể tới được trại giam và ra khỏi nơi này không? Vì nếu kế hoạch thất bại, thì chẳng những tù binh Mỹ ở Việt Nam không giảm đi mà còn tăng lên!… Tuy nhiên, cuối cùng Melvin Laird vẫn ra lệnh tiếp tục triển khai kế hoạch. Ông ta không quên nhấn mạnh: đây là một cuộc hành quân quy mô và cũng rất mạo hiểm, nên phải tổ chức và chuẩn bị hết sức chu đáo. Và trước khi có hành động quyết định cuối cùng, nó phải được trình lên Tổng thống Nixon phê chuẩn.</p><p></p><p>Như vậy, dù ở cách chiến trường Việt Nam tới gần một vạn cây số, nhưng chỉ duy nhất Nhà Trắng mới có quyền quyết định về vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây.</p><p></p><p>NGƯỜI MỸ ĐÁNH GIÁ THẾ NÀO VỀ LỰC LƯỢNG BẢO VỆ CỦA TA HỒI ĐÓ Ở TRẠI TÙ BINH SƠN TÂY?</p><p></p><p>Sau rất nhiều cuộc thuyết trình, cuối cùng thì Lầu Năm Góc cũng đã “bật đèn xanh” cho SACSA và Nhóm nghiên cứu giải thoát tù binh phi công Mỹ tại Sơn Tây hành động.</p><p></p><p>Bấy giờ đã là cuối mùa hè năm 1970, thời gian không còn nhiều và tướng Blackburn cũng hiểu rằng muốn cho ông chủ của Nhà Trắng gật đầu không phải là chuyện đơn giản chút nào! Tổng thống Nixon đang rất sợ bị thêm tai tiếng xấu. Sau khi ông ta quyết định cho quân đội xâm lược Campuchia hồi cuối tháng 4-1970, nước Mỹ đã bị chia rẽ. Phong trào sinh viên biểu tình phản đối chiến tranh đã làm cho Nixon ăn ngủ không yên. Trong khi đó, cả nước Mỹ đang đòi hỏi vấn đề tù binh và những người bị mất tích trong chiến tranh phải được giải quyết.</p><p></p><p>Trong thâm tâm, Blackburn chỉ cầu mong để Nhà Trắng đồng ý cho ông ta thực hiện cuộc tập kích Sơn Tây này. Và chỉ cần một lần, một lần đưa quân xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam nữa thôi là đủ. Biệt kích là cái nghề đã ngấm vào máu của Blackburn từ khi còn trẻ. Khi đã có tuổi, ông ta vẫn còn cầm đầu một toán lính SOG với biểu tượng mũ nồi xanh có gắn phù hiệu hình sọ người và ngọn lửa đen… nhiều lần nhảy dù xuống vùng rừng biên giới Việt-Lào, hoặc vượt biên sang Campuchia. Trước khi có kế hoạch tập kích Sơn Tây, chính Blackburn chứ không phải ai khác đã có dự kiến thực hiện những âm mưu tội ác cực kỳ thâm độc: Dùng thuốc nổ phá huỷ đập thuỷ điện Thác Bà và đê sông Hồng vào đúng mùa lũ lụt; đồng thời, gây ra một cuộc phá hoại lớn ngay trong lòng thủ đô Hà Nội. Ông ta cho rằng có thể sử dụng những tội ác này như một món hàng để Chính phủ Mỹ mặc cả với Hà Nội trên bàn tròn ở hội nghị Paris.</p><p></p><p>Có thể nói Blackburn như một con cáo già đầy nham hiểm. Ông ta là một trong những tác giả chính của bản kế hoạch vụ tập kích Sơn Tây, nó được soạn thảo rất cụ thể và đầy đủ tới từng chi tiết nhỏ nhất.</p><p></p><p>Bằng cách tổng hợp phân tích từ nhiều nguồn tin tình báo, phía Mỹ cho rằng vào thời điểm xảy ra cuộc tập kích, chúng ta có khoảng 12.000 bộ đội đóng quân xung quanh khu vực trại giam tù binh phi công Mỹ ở thị xã Sơn Tây. (Chưa kể đến hàng vạn người trong lực lượng tự vệ và dân quân được trang bị vũ khí thô sơ). Đó là các đơn vị thuộc Trung đoàn 12 bộ binh, Trường Pháo binh Sơn Tây, một kho quân trang ở thị xã với khoảng 1.000 cán bộ chiến sĩ hậu cần. Ngoài ra, còn có khoảng 500 chiến sĩ với 50 xe tại một căn cứ phòng không ở phía tây nam thị xã… Tuy nhiên, phía Mỹ cũng đã tính toán rằng các đơn vị cơ động tác chiến của những lực lượng này, nếu muốn ứng cứu thì nhanh nhất cũng phải sau 30 phút trong điều kiện ban ngày bình thường họ mới đến được trại tù binh. (Và đêm khuya thì dĩ nhiên sự phản ứng sẽ còn chậm hơn nữa!). Đó là thời gian đủ để cho quân biệt kích Mỹ rút chạy an toàn, sau khi đột nhập vào trại giam. </p><p></p><p>Một điều làm cho phía Mỹ lo ngại là trại giam tù binh Sơn Tây nằm ở giữa hai sân bay Hòa Lạc và Phúc Yên. Đặc biệt là sân bay quân sự Phúc Yên chỉ cách Trại Sơn Tây khoảng 35 cây số. Những chiếc MIG lợi hại sẵn sàng cất cánh để không chiến, sẽ là mối đe dọa lớn và rất nguy hiểm cho đơn vị tập kích. Ngoài ra, các chuyên gia quân sự Mỹ cũng đã nghiên cứu rất kỹ hệ thống phòng không của miền Bắc nước ta hồi đó. Họ tính toán tới khả năng hoạt động của tên lửa SAM, các trận địa súng cao xạ, súng bộ binh bắn máy bay tầm thấp… đặc biệt là khả năng kiểm soát, phát hiện mục tiêu của hệ thống rađa… Từ đó, họ chọn đường bay và cách bay như thế nào để những chiếc trực thăng chậm chạp, nặng nề có thể lẩn tránh được sự trừng phạt của lực lượng phòng không Việt Nam.</p><p></p><p>Theo các chuyên viên của DIA thì trại tù binh phi công Mỹ ở Sơn Tây hồi đó gồm hai khu vực riêng biệt: Một số ngôi nhà cấp bốn cũ được sử dụng làm khu hành chính; một số khác vừa được xây cất và mở rộng, có tường rào cao và dây thép gai bao quanh. Các tù binh Mỹ tập trung ở bốn dãy nhà của khu này. Toàn trại chỉ duy nhất có một đường điện thoại và một đường dây tải điện lưới. Cũng theo DIA ước tính thì có khoảng gần 50 bộ đội Việt Nam làm nhiệm vụ bảo vệ trại giam; nhà của họ nằm ở bên ngoài bức tường rào phía đông. Cả trại tù binh có ba chòi canh, hai chiếc nằm sát tường rào, chiếc còn lại đặt gần cổng chính phía đông…</p><p></p><p>Các chuyên gia Mỹ đã phân tích và tính toán rất kỹ địa hình, địa vật trong trại tù binh cùng khu vực xung quanh. Trong kế hoạch giải cứu họ đã dự tính: sau khi cho một số trực thăng bay quần đảo bên trên tiêu diệt hết mấy chòi canh và các ổ đề kháng nếu có; sẽ dùng một chiếc trực thăng loại lớn cùng khoảng chục tên biệt kích đổ bộ xuống sân chơi thể thao nhỏ trong trại giam. (Thực tế sau này, khi chiếc trực thăng khổng lồ HH-53 chưa tiếp đất thì cánh quạt đã bị va vào cây khiến cho máy bay bị lật nhào, buộc quân Mỹ phải đặt chất nổ phá hỏng, trước khi rút chạy). Nếu cuộc đổ bộ xuống sân trại trót lọt, tốp biệt kích này sẽ xông vào khu giam giữ để bảo vệ tù binh và nổ súng trước khi những chiến sĩ canh gác của ta kịp phản ứng… Một số trực thăng khác sẽ đỗ xuống khu đất trống ở bên ngoài bức tường rào phía nam. Họ sẽ chia quân đi phá sập cầu sông Tích, cắt đứt con đường duy nhất mà lực lượng tiếp viện từ thị xã có thể vào; một toán khác sẽ phá trạm biến thế, cắt điện lưới và đường điện thoại liên lạc toàn bộ khu vực; toán quân còn lại sẽ dùng thuốc nổ phá tường rào trại giam để phối hợp với toán quân đã đổ bộ vào bên trong đưa tù binh ra ngoài, kể cả những người bị thương… Nếu tốp trực thăng đỗ bên ngoài tường rào trại giam bị chặn đánh, không đáp xuống được, hoặc đã xuống mà không cất cánh được nữa; thì số tù binh vừa được cứu thoát sẽ được đưa ra xa hơn nữa, thoát khỏi vòng vây đối phương và tốp trực thăng làm nhiệm vụ bay quần đảo yểm hộ bên trên sẽ đáp xuống địa điểm thứ hai để đón họ… Tất cả những hành động kể trên, quân biệt kích Mỹ chỉ được phép thực hiện trong thời gian… 26 phút; nghĩa là trước khi lực lượng bộ đội ta ở thị xã Sơn Tây có thể vào tới khu vực trại giam, thì quân biệt kích Mỹ cùng các tù binh vừa được cứu thoát đã… xa chạy cao bay!</p><p></p><p>VÀ HỌ ĐÃ TRIỂN KHAI BẢN KẾ HOẠCH TUYỆT MẬT ẤY RA SAO?</p><p></p><p>Ngày 1-8-1970, thiếu tướng J. Manor, Tư lệnh lực lượng hành quân đặc biệt tại căn cứ không quân Eglin thuộc bang Florida, bất ngờ nhận được cú điện thoại đặc biệt gọi từ Lầu Năm Góc, yêu cầu phải lập tức về Oasinhtơn ngay mà không được cấp trên cho biết lý do. Nhưng vốn là một viên sĩ quan già dặn, từng trải ở tuổi 49, với 345 phi vụ trót lọt từ Chiến tranh thế giới thứ II đến chiến trường Việt Nam… ông ta đã quá quen với kiểu quân lệnh cần phải phục tùng tuyệt đối như thế.</p><p></p><p>Cùng thời gian đó, đại tá bộ binh D. Simons, 52 tuổi, nguyên đại đội trưởng biệt động quân từ thời kháng Nhật tại Philippines, đang ở căn cứ Bragg cũng đột ngột được lệnh phải về ngay Oasinhtơn để trình diện và nhận nhiệm vụ mới.</p><p></p><p>Manor và Simons đã làm quen với nhau trên chặng đường cùng bay về Oasinhtơn. Hai người không hề biết rằng họ đã được chọn làm nhân vật chính của Bộ chỉ huy hành quân tập kích vào Sơn Tây, gây chấn động nước Mỹ sau gần 4 tháng nữa. Cùng được chọn vào Bộ chỉ huy cuộc hành quân này còn có trung tá quân y Joe Cataldo. Đó là một nhân vật khá kỳ quặc. Ông ta đã đột ngột xuất hiện tại văn phòng của Simons và tự giới thiệu: “Tôi là Cataldo, một bác sĩ mà đại tá đang cần”. Simons đã hỏi lại: “Anh có biết tại sao chúng tôi đang cần một bác sĩ không?”. Cataldo nói “Để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt và nguy hiểm gì đó”.</p><p></p><p>Tướng Manor đã được Lầu Năm Góc chỉ định làm tư lệnh chỉ huy cuộc hành quân tập kích nói trên. Đại tá Simons làm phó tư lệnh, trực tiếp huấn luyện toán biệt kích đổ bộ và cầm đầu toán quân này bay đến Sơn Tây để giải cứu các tù binh. Trung tá Cataldo đặc trách về công tác huấn luyện tự cứu cho đơn vị đổ bộ và lo chuẩn bị mọi phương tiện vật chất để chạy chữa cho tù binh trên đường trở về.</p><p></p><p>Việc tuyển lựa nhân viên tham gia vào cuộc hành quân đã được bộ ba Manor, Simons và Cataldo tiến hành tuyển chọn rất kỹ lưỡng. Họ được kiểm tra lý lịch, trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe, kinh nghiệm chiến đấu và các yếu tố tâm lý khác… Điều đặc biệt là tất cả số nhân viên này đều được tuyển chọn trên cơ sở tự nguyện. Họ không được phép hỏi và hoàn toàn không biết mình sẽ làm gì. Nhưng chắc chắn đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và nguy hiểm! Các cấp chỉ huy chỉ thông báo cho họ một điều duy nhất là: nếu vấn đề bí mật không được đảm bảo thì họ sẽ bị thất bại và không ai còn cơ hội trở về nữa. Gia đình của các binh sĩ cũng chỉ được biết một cách mơ hồ và chung chung là người thân của họ sắp phải thi hành một nhiệm vụ đặc biệt và phải xa nhà từ 3 đến 6 tháng…</p><p></p><p>Riêng Manor trực tiếp tuyển chọn các phi công tham gia cuộc hành quân. Ngoài kinh nghiệm già dặn và con mắt tinh đời của một tay nhà nghề lão luyện, ông ta còn có trong tay một mật lệnh khá đắc dụng. Đó là lá thư tay của tướng John D. Ryan, tham mưu trưởng lực lượng Không quân Mỹ. Nội dung lá thư này gửi tới tất cả các vị chỉ huy thuộc quyền, chỉ thị cho họ phải tạo mọi điều kiện tốt nhất ủng hộ cho yêu cầu Manor và cũng… không được hỏi han gì cả! Những viên phi công được chọn vào phi hành đoàn trực thăng của cuộc hành quân đều đã có ít nhất hàng ngàn giờ bay chiến đấu cùng hàng trăm cuộc tiếp cứu các phi công bị bắn rơi tại vùng Đông Nam Á. Đó là những cuộc tiếp cứu với những tài nghệ lái trực thăng đã trở thành huyền thoại trong lịch sử chiến tranh của quân đội Mỹ. Có thể điểm danh vài gương mặt sáng giá nhất: Trung tá Warner Britton, viên phi công trực thăng cừ khôi số 1 chuyên huấn luyện bay giải cứu của căn cứ không quân Eglin; trung tá John Allison, tay lái huấn luyện bay ngoại hạng của loại trực thăng HH-53; trung tá Herbert E. Zehnder, người đã từng lập kỷ lục lái loại trực thăng HH-3 bay đường dài một mạch từ New York đến Paris vào năm 1967; thiếu tá Frederic M. Donohue, người đã thực hiện thành công hơn 6.000 giờ bay trực thăng và được chọn là sĩ quan huấn luyện bay trong chương trình Apollo…</p><p></p><p>Và kết quả là đã có tới 15 sĩ quan từ cấp úy đến cấp tá cùng 85 hạ sĩ quan và binh sĩ trong một đơn vị “mũ nồi xanh” (biệt động quân) đã được chọn để chuẩn bị cho cuộc hành quân Tập kích trại tù binh ở Sơn Tây.</p><p></p><p>Vào trung tuần tháng 8-1970, một thông điệp đặc biệt của Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp quân đội Mỹ do Mayer soạn thảo và tướng Moore ký, đã được gửi đi cho nhiều chỉ huy các đơn vị thuộc quyền. Nội dung bức thông điệp này thông báo có một “Toán hành động cấp thời”, đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Manor và đại tá Simons đang thực thi một nhiệm vụ đặc biệt. Chiến dịch tuyệt mật này được ngụy danh bằng cái tên khá thơ mộng: “Bờ biển Ngà”. Thoạt nghe, nhiều người sẽ nhầm tưởng địa danh trong chiến dịch là ở Trung Đông hoặc Châu Phi. Không một ai ngờ rằng mục tiêu mà chiến dịch “Bờ biển Ngà“ sẽ nhằm vào lại chính là thị xã Sơn Tây nhỏ bé xa xôi ở tận bên kia Thái Bình Dương!</p><p></p><p>Hồi đó kế hoạch cụ thể của chiến dịch “Bờ biển Ngà“ nói trên ngay tại Oasinhtơn cũng chỉ một vài nhân vật chóp bu như Tổng thống Nixon, Cố vấn An ninh quốc gia Kissinger và mấy bộ trưởng Bộ quan trọng được biết. Còn bộ máy Ngụy quyền ở miền Nam nước ta từ Nguyễn Văn Thiệu cho đến các tướng tá cao cấp nhất của ông ta, không một người nào được phép biết về kế hoạch của vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây, kể từ khi nó hình thành cho tới lúc kết thúc. Thậm chí, các tư lệnh chiến thuật của quân đội Mỹ ở chiến trường Đông Nam Á cũng chỉ được thông báo về kế hoạch của chiến dịch “Bờ biển Ngà“ vào thời gian xét thấy thuận tiện nhất. Và mỗi người cũng chỉ biết trong giới hạn phần kế hoạch có liên quan đến chức trách của họ mà thôi. Tất cả số nhân viên và phi đoàn bay được tuyển chọn tham gia cuộc hành quân tập kích trại tù binh Sơn Tây đều được đưa đến huấn luyện về thể chất tại căn cứ Fort Bragg thuộc tiểu bang Carolina Bắc. </p><p></p><p>Tiếp đó, họ được chuyển về căn cứ Eglin để huấn luyện phối hợp với phi đoàn bay. Đó là một vùng đất rộng khoảng 465.000 hécta, nằm ở phía bắc của bang Florida. Đây cũng là nơi tập dượt của Trung tâm huấn luyện cấp cứu và tìm lại bằng máy bay của quân đội Mỹ (USAF). Hầu hết các phi công lái máy bay trực thăng và máy bay C-130 giải cứu hoặc tiếp tế nổi tiếng của lực lượng không quân Hoa Kỳ đều đã từng được huấn luyện tại nơi này.</p><p></p><p>Vậy còn “Toán hành động hỗn họp cấp thời” của chiến dịch “Bờ biển Ngà” đã được tập luyện ra sao?</p><p></p><p>NGUỜI MỸ ĐÃ XÂY DỰNG THÊM MỘT TRẠI TÙ BINH SƠN TÂY TẠI BANG FLORIDA?</p><p></p><p>Cho đến thời điểm này thì “Hồ sơ mục tiêu Sơn Tây” đã được chất đầy các ngăn tủ của Bộ chỉ huy hành quân của cuộc tập kích. Trong đó, có rất nhiều các bức không ảnh được phóng cỡ lớn, chụp tất cả các vùng đất từ biên giới Việt-Lào đến thị xã Sơn Tây. Đặc biệt là địa hình khu vực trại giam tù binh và xung quanh. Những tấm ảnh đó đều được các chuyên gia chia thành ô vuông như bản đồ. Mỗi ô trên ảnh tương ứng với 100 m2 trên thực địa. Các bức ảnh này đều rõ ràng và chi tiết tới mức người ta có thể phân biệt được từng dãy tường gạch, từng khu nhà ở, từng rãnh nước và từng ngọn cây có trong khu trại tù binh.</p><p></p><p>Ngoài ảnh ra, tướng Blackburn và Mayer còn cho dựng cả sa bàn khu vực trại giam, đồng thời phóng và vẽ tấm bản đồ về mục tiêu cực lớn. Nó được in sao cẩn thận nhưng chỉ có vài bản.</p><p></p><p>Nhưng như thế mà dường như vẫn chưa làm cho người Mỹ yên tâm. Simons cho rằng không thể huấn luyện cả trăm quân tập kích một vùng đất xa lạ và nguy hiểm chỉ với loại “sa bàn đồ chơi” và “Bản đồ thực tập”. Ông ta đề nghị cho dựng một mô hình trại giam Sơn Tây với tỷ lệ 1/1, nghĩa là giống y chang như thật, để phục vụ cho tập luyện.</p><p></p><p>Đầu tiên, Cục Tình báo quân đội Mỹ đã phản đối đề nghị này, vì sợ làm như vậy vô tình mục tiêu cuộc tập kích sẽ bị bại lộ bởi những kẻ tò mò và đặc biệt là bởi các thiết bị săn tìm đặt trên vệ tinh tình báo kỹ thuật của Liên Xô phát hiện được. Sự lo ngại này không phải là vô căn cứ. Người Mỹ biết rất rõ loại vệ tinh Cosmos 355 của Liên Xô hồi ấy đã được trang bị loại máy ảnh rất hiện đại, cho phép chụp được những bức không ảnh phân biệt rõ cả sự thay đổi của cửa sổ trong một ngôi nhà, nếu đó là mục tiêu. Vệ tinh này thường xuyên bay quan sát trên vùng trời của căn cứ không quân Eglin 2 lần trong một ngày, với độ cao khoảng 130 km… Nhưng trước sự thúc bách của nhiệm vụ, Simons vẫn kiên quyết bảo lưu đề nghị của mình là phải xây dựng một mô hình trại tù binh như thật!</p><p></p><p>Cuối cùng, các chuyên gia CIA Mỹ đã tìm được một lối thoát: Họ sử dụng các loại vật liệu xây dựng nhẹ để tạo nên một mô hình trại giam tù binh Sơn Tây. Mô hình này được gọi là Barbara. Nó có thể nhanh chóng được tháo rời ra một cách dễ dàng và cất giấu đi. Đó là các tấm vải bạt chuyên dụng và cọc gỗ cỡ 2x4, dài 6 bộ (mỗi bộ bằng 0,3048 mét). Với loại chất liệu này người ta rất dễ dựng thành các bức tường rào, nhà cấp bốn và thậm chí cả những ô cửa sổ, cửa chính được cắt khéo léo rồi sơn phết với màu sắc như thật. Để có một mô hình hoàn chỉnh, các chuyên gia đã phải sử dụng tới 710 chiếc cọc gỗ và 1.500 yard vải bạt (mỗi yard bằng 0,914 mét). Cột cờ và những chiếc cột điện ở trại tù binh cũng đã được các chuyên gia dựng lên trong mô hình với kích cỡ đúng như thực tế, để các phi công làm quen. Thậm chí, người ta còn kỳ công tới mức cho chuyển cả một số cây to (được đào cả gốc lên), về trồng tại nơi dựng mô hình của trại tù binh !… Nghe nói, riêng công trình này, các chuyên viên CIA đã phải làm mất mấy tháng trời và tiêu tốn tới 60.000 đôla!</p><p></p><p>Thời gian đầu, mô hình trại tù binh Sơn Tây nói trên chỉ ban đêm người ta mới cho dựng lên để binh sĩ luyện tập, còn ban ngày được tháo rời ra, ngụy trang kỹ để tránh sự phát hiện của vệ tinh Liên Xô.</p><p></p><p>Về sau, người ta có tập cả ban ngày, nhưng rất hạn chế và cũng chỉ giới hạn trong 4 tiếng đồng hồ, (thời gian vệ tinh tình báo kỹ thuật Cosmos 355 của Liên Xô không chụp ảnh được). Tướng Manor nói: “Tuy là kiến trúc tạm thời, nhưng mô hình này cũng đủ để cho những người lính có một cảm nghĩ xác thực là họ sẽ thấy những điều gì và họ biết rằng mình sẽ phải hành động ra sao, khi tới một mục tiêu có địa hình tương tự thế này”.</p><p></p><p>VÀ HỌ ĐÃ CHO QUÂN BIỆT KÍCH TẬP LUYỆN NHƯ THẾ NÀO ?</p><p></p><p>Ngày 20-8-1970, cuộc tập luyện của không quân Mỹ và “Toán hành động hỗn hợp cấp thời” bắt đầu. Trước đó, những người trong đơn vị này đã được cấp trên ưu tiên tăng khẩu phần ăn theo nhu cầu; đồng thời tập trung rèn luyện để nâng cao thể chất tới mức tốt nhất. Hằng ngày, Simons đã bắt tất cả 103 quân tình nguyện đều phải ôn lại những bài thể dục cơ bản của lính Mỹ, rồi đeo balô cùng vũ khí trang bị chạy bộ mấy cây số đường dài. Các bài tập càng ngày càng nặng hơn, khó thêm và thời gian tập cũng tăng dần… Ngoài ra, họ còn phải học thêm về cách định hướng máy bay trực thăng, cách truyền tin, liên lạc, đột kích, cách phá các loại khóa và cửa, cách vượt ngục… và xen lẫn kết thúc cuối ngày là tập điền kinh. Simons muốn tất cả những binh lính trong đơn vị biệt kích của ông ta đều phải “vừa có sức tuyệt vời, lại vừa thiện chiến không thể chê vào đâu được”!</p><p></p><p>Việc tập luyện cho các phi công trong đoàn bay mới là khó khăn và phức tạp nhất. Mặc dù tất cả bọn họ đều là những tay lái siêu hạng, nhưng yêu cầu của nhiệm vụ lần này khá đặc biệt. Để tránh bị rađa phát hiện và sự trừng trị của lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam, Manor đã yêu cầu các phi công phải bay thấp sát ngọn cây và ngoằn ngoèo dưới thung lũng các dãy núi trong nhiều giờ liền. Hơn nữa, họ toàn tập bay ban đêm, dưới ánh trăng mờ và không được sử dụng vô tuyến điện liên lạc. Nghĩa là bay trong im lặng với đội hình sát nhau. Chỉ cần một sai sót nhỏ là máy bay có thể va vào nhau, húc vào núi, hoặc rơi xuống nơi lởm chởm đất đá của vùng bắc tiểu bang Georga.</p><p></p><p>Lái trực thăng bay thấp đã khó, điều khiển loại máy bay C-130 bay thấp còn khó hơn nhiều. Trong kế hoạch của chiến dịch “Bờ biển Ngà”, Manor và Simons sử dụng tới 3 chiếc C-130 tham gia vào cuộc tập kích. Một chiếc là loại giải cứu HC-130 sẽ làm nhiệm vụ tiếp nhiên liệu cho trực thăng trên không phận của Lào. Hai chiếc C-130 còn lại được trang bị loại khí cụ bay đặc biệt và hệ thống hồng ngoại dò tìm hiện đại bậc nhất thời đó. Một chiếc sẽ làm nhiệm vụ dẫn đường 6 chiếc trực thăng đến Trại tù binh Sơn Tây rồi thả pháo sáng và pháo khói để hỗ trợ cho đơn vị biệt kích hành động. Chiếc kia sẽ hướng dẫn một số máy bay phản lực oanh tạc và yểm hộ xung quanh… Các chuyên gia đã tính toán rằng: tốc độ thường khi bay thấp của một chiếc C-130 là 250 hải lý; nhưng để phục vụ cho việc tập kích Sơn Tây, các phi công đã phải ép tập bay với tốc độ 105 hải lý, gần như mất hết tốc lực, nên càng cực kỳ nguy hiểm!</p><p></p><p>Vậy mà, các toán phi hành đoàn của Manor đã phải tập luyện tới trên 1.000 giờ bay “căng thẳng đến thót tim”, với 368 phi vụ trong những điều kiện cực kỳ khắt khe kể trên.</p><p></p><p>Ngày 28-9-1970, “Toán hành động hỗn hợp cấp thời” bắt đầu phối hợp giữa bộ binh và không quân luyện tập tấn công. Đúng như Simons đã hài hước ví đó là sự “quần nhau với mô hình trại tù binh Sơn Tây”. Mỗi ngày họ thực hiện 3 cuộc đổ bộ bằng trực thăng và đêm đến lại thêm 3 cuộc như thế… Simons đã cho người của ông ta luyện tập nhiều đến mức những lính Mỹ trong đơn vị biệt kích này đều thuộc lòng cấu tạo của mục tiêu cần tấn công. Nếu như có bịt mắt lại, họ vẫn có thể bắn trúng đích theo lệnh chỉ huy.</p><p></p><p>Đêm ngày 6-10-1970, tướng Manor và đại tá Simons đã tổ chức buổi tổng diễn tập cuối cùng có bắn đạn thật trước sự chứng kiến của Blackburn và Mayer. Các máy bay trực thăng và C-130 đã bay một đoạn đường dài tượng trưng từ một căn cứ xuất phát tại Thái Lan, vượt qua biên giới Lào đến Sơn Tây. Trong cơn lốc gió cuốn ầm ầm của cánh quạt những chiếc trực thăng, pháo sáng thả trắng trời đêm và tiếng súng nổ inh tai, quân biệt kích đã bất ngờ đổ bộ vào các phòng giam tù binh trước khi nhanh chóng tiêu diệt hết các mục tiêu… khiến cho Blackburn và Mayer rất hài lòng.</p><p></p><p>Cũng trong thời gian này trung tá Cataldo rất bận rộn, vất vả với việc chuẩn bị vũ khí, trang bị và hậu cần cho cuộc tập kích: Đó là những khẩu súng trung liên M-60, bắn đạn 7,62 ly; súng chống tăng loại 66 ly cỡ nhẹ ; những khẩu CAR-15 rất nhỏ, nhẹ, báng gấp; súng phóng lựu đạn M.79; một số mìn sát thương và những túi chất nổ có sức công phá cực mạnh; những ống kính ngắm đặc biệt, giúp người sử dụng nó có thể nhìn rõ mục tiêu trong đêm tối… Ngoài túi thuốc quân y của lính biệt kích Mỹ, Cataldo còn chuẩn bị thêm cả một số chăn đệm đặc biệt, một số dép bata đế mềm, 100 bộ đồ ngủ và áo choàng, một lô thức ăn nhẹ nhưng dinh dưỡng cao… tất cả những thứ ấy là để sẵn cho tù binh sử dụng trên đường dài bay về Mỹ.</p><p></p><p>Như vậy, Chiến dịch “Bờ biển Ngà” đã bước vào giai đoạn cuối cùng.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 8113, member: 7"] [B]THUYẾT TRÌNH VÀ LẠI…THUYẾT TRÌNH[/B] Cần nhớ rằng, vào thời điểm này, Mỹ đang sa lầy trong chiến tranh Việt Nam. Số lính Mỹ bị chết trận trung bình là 500 mỗi tháng. Riêng tháng 5-1970, có tới 754 lính Mỹ bị chết ở chiến trường Nam Việt Nam. Và số quân dự trữ chiến lược ở các đơn vị trực tiếp tham chiến đã thiếu hụt tới mức báo động. Tổng thống Mỹ Nixon rất sợ thêm tai tiếng xấu trước dư luận trong nước và thế giới. Cho nên Lầu Năm Góc không dễ gì thông qua kế hoạch giải thoát tù binh phi công Mỹ của Blackburn và Mayer. Cũng ngày 25-5-1970, Blackburn và Mayer đã xin được gặp tướng Earle G. Wheeler. Ông này là Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân từ năm 1964, trước khi xảy ra cái gọi là “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”. Wheeler là một trong những người ủng hộ SACSA mạnh nhất. Trong thời gian McNamara còn làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, chính ông này đã đệ trình giới thiệu nhiều kế hoạch hoạt động của SACSA rất thành công. Nghe thuyết trình xong, Wheeler đã thốt lên: “Lạy Chúa, phải có bao nhiêu tiếu đoàn mới làm được việc này!”. Tuy nhiên, Wheeler vẫn ủng hộ bằng cách giới thiệu Blackburn với đô đốc Thomas Moorer, người sẽ thay thế chức vụ của Được “bật đèn xanh”, Blackburn và Mayer đã lập tức đề nghị Cục Tình báo quân đội Mỹ (DIA) giúp đỡ bổ sung thêm tin tức tình báo và phác họa một kế hoạch hành động. Và chỉ một ngày sau, tức ngày 26-5-1970, DIA đã chính thức vào cuộc với sự ủng hộ tích cực của trung tướng Donald Bennett, Giám đốc cơ quan này. Ngày 27-5-1970, Blackburn và Mayer lại đến gặp trung tướng John Vogt, Chỉ huy cơ quan Hỗn hợp tác chiến của lực lượng Không quân Mỹ. Ông này cũng đã thốt lên: “Lạy chúa, thế bao giờ anh báo cho Chính phủ biết công việc quan trọng này?”. Ngày 1-6-1970, tướng John Vogt và tướng Bennett đã cùng nghe lại bản thuyết trình mới được bổ sung thông tin của Blackburn và Mayer. Bọn họ đã cùng cân nhắc bàn bạc rất kỹ từng phương án được nêu ra, với những tình huống rất cụ thể trong việc tập kích giải thoát tù binh Mỹ… Hôm sau, ngày 2-6- 1970, Blackburn và Mayer lại được tướng Wheeler tiếp và nghe lại bản thuyết trình lần nữa. Ông ta đã khẳng định ngay: “Tôi tin rằng không ai có thể từ chối đối với cuộc hành quân này?”. Được phép của Wheeler, chiều ngày 5-6-1970, tại một phòng họp đặc biệt có tên là “TANK” Blackburn và Mayer đã thuyết trình kế hoạch của mình cho Hội đồng Tham mưu trưởng cùng nghe. Không một ai hỏi thêm câu nào. Các tướng Mỹ có mặt hôm đó đều đồng ý rằng SACSA cần thực hiện cho được kế hoạch này ! Chưa hết, những ngày sau, Blackburn và Mayer còn phải thuyết trình thêm cho các phụ tá tham mưu trưởng liên quân, để tranh thủ sự ủng hộ của họ. (Vì mỗi vị này đều nắm trong tay cả sư đoàn quân!). Nhờ đó, sau này SACSA mới có thể yêu cầu được tuyển chọn người, trang bị các loại vũ khí, phương tiện và rất nhiều các khoản tiền chi đặc biệt theo yêu cầu, để phục vụ cho cuộc tập kích Sơn Tây. Để thuận lợi hơn trong khi hành sự, Blackburn và Mayer còn tìm đến tổng hành dinh của CIA để gặp Phụ tá đặc biệt của Giám đốc về Đông Nam Á là George Carver cùng Phụ tá của ông ta. Công việc này cũng đã khiến cho họ tốn kém không ít thời gian. Và cuối cùng, ngày 10-7-1970, tại Lầu Năm Góc đã có một cuộc họp đặc biệt với sự có mặt tham gia của rất nhiều tướng lĩnh cao cấp của Bộ Quốc phòng Mỹ: ĐÔ đốc Moorer, tân Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân; thống tướng Westmoreland, Tham mưu trưởng lục quân; thống tướng John Dale Ryan, Tư lệnh lực lượng Không quân; Đô đốc Elmo Zumwalt, Tư lệnh lực lượng Hải quân; tướng Leonard F. Chapman, Tư lệnh lực lượng Thủy quân lục chiến… Họ đã chăm chú lắng nghe thuyết trình về kế hoạch giải cứu tù binh phi công Mỹ, để cùng nhau hoàn chỉnh, trước khi đệ trình lên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Melvin Laird… Một tuần sau, bản báo cáo kế hoạch khá hoàn chỉnh và chi tiết nói trên đã được đặt trên bàn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ. Phản ứng đầu tiên của ông này là sự lo ngại về độ chính xác của các tin tức tình báo. Ông ta tự hỏi: Liệu quân biệt kích Mỹ có thể tới được trại giam và ra khỏi nơi này không? Vì nếu kế hoạch thất bại, thì chẳng những tù binh Mỹ ở Việt Nam không giảm đi mà còn tăng lên!… Tuy nhiên, cuối cùng Melvin Laird vẫn ra lệnh tiếp tục triển khai kế hoạch. Ông ta không quên nhấn mạnh: đây là một cuộc hành quân quy mô và cũng rất mạo hiểm, nên phải tổ chức và chuẩn bị hết sức chu đáo. Và trước khi có hành động quyết định cuối cùng, nó phải được trình lên Tổng thống Nixon phê chuẩn. Như vậy, dù ở cách chiến trường Việt Nam tới gần một vạn cây số, nhưng chỉ duy nhất Nhà Trắng mới có quyền quyết định về vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây. NGƯỜI MỸ ĐÁNH GIÁ THẾ NÀO VỀ LỰC LƯỢNG BẢO VỆ CỦA TA HỒI ĐÓ Ở TRẠI TÙ BINH SƠN TÂY? Sau rất nhiều cuộc thuyết trình, cuối cùng thì Lầu Năm Góc cũng đã “bật đèn xanh” cho SACSA và Nhóm nghiên cứu giải thoát tù binh phi công Mỹ tại Sơn Tây hành động. Bấy giờ đã là cuối mùa hè năm 1970, thời gian không còn nhiều và tướng Blackburn cũng hiểu rằng muốn cho ông chủ của Nhà Trắng gật đầu không phải là chuyện đơn giản chút nào! Tổng thống Nixon đang rất sợ bị thêm tai tiếng xấu. Sau khi ông ta quyết định cho quân đội xâm lược Campuchia hồi cuối tháng 4-1970, nước Mỹ đã bị chia rẽ. Phong trào sinh viên biểu tình phản đối chiến tranh đã làm cho Nixon ăn ngủ không yên. Trong khi đó, cả nước Mỹ đang đòi hỏi vấn đề tù binh và những người bị mất tích trong chiến tranh phải được giải quyết. Trong thâm tâm, Blackburn chỉ cầu mong để Nhà Trắng đồng ý cho ông ta thực hiện cuộc tập kích Sơn Tây này. Và chỉ cần một lần, một lần đưa quân xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam nữa thôi là đủ. Biệt kích là cái nghề đã ngấm vào máu của Blackburn từ khi còn trẻ. Khi đã có tuổi, ông ta vẫn còn cầm đầu một toán lính SOG với biểu tượng mũ nồi xanh có gắn phù hiệu hình sọ người và ngọn lửa đen… nhiều lần nhảy dù xuống vùng rừng biên giới Việt-Lào, hoặc vượt biên sang Campuchia. Trước khi có kế hoạch tập kích Sơn Tây, chính Blackburn chứ không phải ai khác đã có dự kiến thực hiện những âm mưu tội ác cực kỳ thâm độc: Dùng thuốc nổ phá huỷ đập thuỷ điện Thác Bà và đê sông Hồng vào đúng mùa lũ lụt; đồng thời, gây ra một cuộc phá hoại lớn ngay trong lòng thủ đô Hà Nội. Ông ta cho rằng có thể sử dụng những tội ác này như một món hàng để Chính phủ Mỹ mặc cả với Hà Nội trên bàn tròn ở hội nghị Paris. Có thể nói Blackburn như một con cáo già đầy nham hiểm. Ông ta là một trong những tác giả chính của bản kế hoạch vụ tập kích Sơn Tây, nó được soạn thảo rất cụ thể và đầy đủ tới từng chi tiết nhỏ nhất. Bằng cách tổng hợp phân tích từ nhiều nguồn tin tình báo, phía Mỹ cho rằng vào thời điểm xảy ra cuộc tập kích, chúng ta có khoảng 12.000 bộ đội đóng quân xung quanh khu vực trại giam tù binh phi công Mỹ ở thị xã Sơn Tây. (Chưa kể đến hàng vạn người trong lực lượng tự vệ và dân quân được trang bị vũ khí thô sơ). Đó là các đơn vị thuộc Trung đoàn 12 bộ binh, Trường Pháo binh Sơn Tây, một kho quân trang ở thị xã với khoảng 1.000 cán bộ chiến sĩ hậu cần. Ngoài ra, còn có khoảng 500 chiến sĩ với 50 xe tại một căn cứ phòng không ở phía tây nam thị xã… Tuy nhiên, phía Mỹ cũng đã tính toán rằng các đơn vị cơ động tác chiến của những lực lượng này, nếu muốn ứng cứu thì nhanh nhất cũng phải sau 30 phút trong điều kiện ban ngày bình thường họ mới đến được trại tù binh. (Và đêm khuya thì dĩ nhiên sự phản ứng sẽ còn chậm hơn nữa!). Đó là thời gian đủ để cho quân biệt kích Mỹ rút chạy an toàn, sau khi đột nhập vào trại giam. Một điều làm cho phía Mỹ lo ngại là trại giam tù binh Sơn Tây nằm ở giữa hai sân bay Hòa Lạc và Phúc Yên. Đặc biệt là sân bay quân sự Phúc Yên chỉ cách Trại Sơn Tây khoảng 35 cây số. Những chiếc MIG lợi hại sẵn sàng cất cánh để không chiến, sẽ là mối đe dọa lớn và rất nguy hiểm cho đơn vị tập kích. Ngoài ra, các chuyên gia quân sự Mỹ cũng đã nghiên cứu rất kỹ hệ thống phòng không của miền Bắc nước ta hồi đó. Họ tính toán tới khả năng hoạt động của tên lửa SAM, các trận địa súng cao xạ, súng bộ binh bắn máy bay tầm thấp… đặc biệt là khả năng kiểm soát, phát hiện mục tiêu của hệ thống rađa… Từ đó, họ chọn đường bay và cách bay như thế nào để những chiếc trực thăng chậm chạp, nặng nề có thể lẩn tránh được sự trừng phạt của lực lượng phòng không Việt Nam. Theo các chuyên viên của DIA thì trại tù binh phi công Mỹ ở Sơn Tây hồi đó gồm hai khu vực riêng biệt: Một số ngôi nhà cấp bốn cũ được sử dụng làm khu hành chính; một số khác vừa được xây cất và mở rộng, có tường rào cao và dây thép gai bao quanh. Các tù binh Mỹ tập trung ở bốn dãy nhà của khu này. Toàn trại chỉ duy nhất có một đường điện thoại và một đường dây tải điện lưới. Cũng theo DIA ước tính thì có khoảng gần 50 bộ đội Việt Nam làm nhiệm vụ bảo vệ trại giam; nhà của họ nằm ở bên ngoài bức tường rào phía đông. Cả trại tù binh có ba chòi canh, hai chiếc nằm sát tường rào, chiếc còn lại đặt gần cổng chính phía đông… Các chuyên gia Mỹ đã phân tích và tính toán rất kỹ địa hình, địa vật trong trại tù binh cùng khu vực xung quanh. Trong kế hoạch giải cứu họ đã dự tính: sau khi cho một số trực thăng bay quần đảo bên trên tiêu diệt hết mấy chòi canh và các ổ đề kháng nếu có; sẽ dùng một chiếc trực thăng loại lớn cùng khoảng chục tên biệt kích đổ bộ xuống sân chơi thể thao nhỏ trong trại giam. (Thực tế sau này, khi chiếc trực thăng khổng lồ HH-53 chưa tiếp đất thì cánh quạt đã bị va vào cây khiến cho máy bay bị lật nhào, buộc quân Mỹ phải đặt chất nổ phá hỏng, trước khi rút chạy). Nếu cuộc đổ bộ xuống sân trại trót lọt, tốp biệt kích này sẽ xông vào khu giam giữ để bảo vệ tù binh và nổ súng trước khi những chiến sĩ canh gác của ta kịp phản ứng… Một số trực thăng khác sẽ đỗ xuống khu đất trống ở bên ngoài bức tường rào phía nam. Họ sẽ chia quân đi phá sập cầu sông Tích, cắt đứt con đường duy nhất mà lực lượng tiếp viện từ thị xã có thể vào; một toán khác sẽ phá trạm biến thế, cắt điện lưới và đường điện thoại liên lạc toàn bộ khu vực; toán quân còn lại sẽ dùng thuốc nổ phá tường rào trại giam để phối hợp với toán quân đã đổ bộ vào bên trong đưa tù binh ra ngoài, kể cả những người bị thương… Nếu tốp trực thăng đỗ bên ngoài tường rào trại giam bị chặn đánh, không đáp xuống được, hoặc đã xuống mà không cất cánh được nữa; thì số tù binh vừa được cứu thoát sẽ được đưa ra xa hơn nữa, thoát khỏi vòng vây đối phương và tốp trực thăng làm nhiệm vụ bay quần đảo yểm hộ bên trên sẽ đáp xuống địa điểm thứ hai để đón họ… Tất cả những hành động kể trên, quân biệt kích Mỹ chỉ được phép thực hiện trong thời gian… 26 phút; nghĩa là trước khi lực lượng bộ đội ta ở thị xã Sơn Tây có thể vào tới khu vực trại giam, thì quân biệt kích Mỹ cùng các tù binh vừa được cứu thoát đã… xa chạy cao bay! VÀ HỌ ĐÃ TRIỂN KHAI BẢN KẾ HOẠCH TUYỆT MẬT ẤY RA SAO? Ngày 1-8-1970, thiếu tướng J. Manor, Tư lệnh lực lượng hành quân đặc biệt tại căn cứ không quân Eglin thuộc bang Florida, bất ngờ nhận được cú điện thoại đặc biệt gọi từ Lầu Năm Góc, yêu cầu phải lập tức về Oasinhtơn ngay mà không được cấp trên cho biết lý do. Nhưng vốn là một viên sĩ quan già dặn, từng trải ở tuổi 49, với 345 phi vụ trót lọt từ Chiến tranh thế giới thứ II đến chiến trường Việt Nam… ông ta đã quá quen với kiểu quân lệnh cần phải phục tùng tuyệt đối như thế. Cùng thời gian đó, đại tá bộ binh D. Simons, 52 tuổi, nguyên đại đội trưởng biệt động quân từ thời kháng Nhật tại Philippines, đang ở căn cứ Bragg cũng đột ngột được lệnh phải về ngay Oasinhtơn để trình diện và nhận nhiệm vụ mới. Manor và Simons đã làm quen với nhau trên chặng đường cùng bay về Oasinhtơn. Hai người không hề biết rằng họ đã được chọn làm nhân vật chính của Bộ chỉ huy hành quân tập kích vào Sơn Tây, gây chấn động nước Mỹ sau gần 4 tháng nữa. Cùng được chọn vào Bộ chỉ huy cuộc hành quân này còn có trung tá quân y Joe Cataldo. Đó là một nhân vật khá kỳ quặc. Ông ta đã đột ngột xuất hiện tại văn phòng của Simons và tự giới thiệu: “Tôi là Cataldo, một bác sĩ mà đại tá đang cần”. Simons đã hỏi lại: “Anh có biết tại sao chúng tôi đang cần một bác sĩ không?”. Cataldo nói “Để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt và nguy hiểm gì đó”. Tướng Manor đã được Lầu Năm Góc chỉ định làm tư lệnh chỉ huy cuộc hành quân tập kích nói trên. Đại tá Simons làm phó tư lệnh, trực tiếp huấn luyện toán biệt kích đổ bộ và cầm đầu toán quân này bay đến Sơn Tây để giải cứu các tù binh. Trung tá Cataldo đặc trách về công tác huấn luyện tự cứu cho đơn vị đổ bộ và lo chuẩn bị mọi phương tiện vật chất để chạy chữa cho tù binh trên đường trở về. Việc tuyển lựa nhân viên tham gia vào cuộc hành quân đã được bộ ba Manor, Simons và Cataldo tiến hành tuyển chọn rất kỹ lưỡng. Họ được kiểm tra lý lịch, trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe, kinh nghiệm chiến đấu và các yếu tố tâm lý khác… Điều đặc biệt là tất cả số nhân viên này đều được tuyển chọn trên cơ sở tự nguyện. Họ không được phép hỏi và hoàn toàn không biết mình sẽ làm gì. Nhưng chắc chắn đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và nguy hiểm! Các cấp chỉ huy chỉ thông báo cho họ một điều duy nhất là: nếu vấn đề bí mật không được đảm bảo thì họ sẽ bị thất bại và không ai còn cơ hội trở về nữa. Gia đình của các binh sĩ cũng chỉ được biết một cách mơ hồ và chung chung là người thân của họ sắp phải thi hành một nhiệm vụ đặc biệt và phải xa nhà từ 3 đến 6 tháng… Riêng Manor trực tiếp tuyển chọn các phi công tham gia cuộc hành quân. Ngoài kinh nghiệm già dặn và con mắt tinh đời của một tay nhà nghề lão luyện, ông ta còn có trong tay một mật lệnh khá đắc dụng. Đó là lá thư tay của tướng John D. Ryan, tham mưu trưởng lực lượng Không quân Mỹ. Nội dung lá thư này gửi tới tất cả các vị chỉ huy thuộc quyền, chỉ thị cho họ phải tạo mọi điều kiện tốt nhất ủng hộ cho yêu cầu Manor và cũng… không được hỏi han gì cả! Những viên phi công được chọn vào phi hành đoàn trực thăng của cuộc hành quân đều đã có ít nhất hàng ngàn giờ bay chiến đấu cùng hàng trăm cuộc tiếp cứu các phi công bị bắn rơi tại vùng Đông Nam Á. Đó là những cuộc tiếp cứu với những tài nghệ lái trực thăng đã trở thành huyền thoại trong lịch sử chiến tranh của quân đội Mỹ. Có thể điểm danh vài gương mặt sáng giá nhất: Trung tá Warner Britton, viên phi công trực thăng cừ khôi số 1 chuyên huấn luyện bay giải cứu của căn cứ không quân Eglin; trung tá John Allison, tay lái huấn luyện bay ngoại hạng của loại trực thăng HH-53; trung tá Herbert E. Zehnder, người đã từng lập kỷ lục lái loại trực thăng HH-3 bay đường dài một mạch từ New York đến Paris vào năm 1967; thiếu tá Frederic M. Donohue, người đã thực hiện thành công hơn 6.000 giờ bay trực thăng và được chọn là sĩ quan huấn luyện bay trong chương trình Apollo… Và kết quả là đã có tới 15 sĩ quan từ cấp úy đến cấp tá cùng 85 hạ sĩ quan và binh sĩ trong một đơn vị “mũ nồi xanh” (biệt động quân) đã được chọn để chuẩn bị cho cuộc hành quân Tập kích trại tù binh ở Sơn Tây. Vào trung tuần tháng 8-1970, một thông điệp đặc biệt của Bộ Tổng tham mưu hỗn hợp quân đội Mỹ do Mayer soạn thảo và tướng Moore ký, đã được gửi đi cho nhiều chỉ huy các đơn vị thuộc quyền. Nội dung bức thông điệp này thông báo có một “Toán hành động cấp thời”, đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Manor và đại tá Simons đang thực thi một nhiệm vụ đặc biệt. Chiến dịch tuyệt mật này được ngụy danh bằng cái tên khá thơ mộng: “Bờ biển Ngà”. Thoạt nghe, nhiều người sẽ nhầm tưởng địa danh trong chiến dịch là ở Trung Đông hoặc Châu Phi. Không một ai ngờ rằng mục tiêu mà chiến dịch “Bờ biển Ngà“ sẽ nhằm vào lại chính là thị xã Sơn Tây nhỏ bé xa xôi ở tận bên kia Thái Bình Dương! Hồi đó kế hoạch cụ thể của chiến dịch “Bờ biển Ngà“ nói trên ngay tại Oasinhtơn cũng chỉ một vài nhân vật chóp bu như Tổng thống Nixon, Cố vấn An ninh quốc gia Kissinger và mấy bộ trưởng Bộ quan trọng được biết. Còn bộ máy Ngụy quyền ở miền Nam nước ta từ Nguyễn Văn Thiệu cho đến các tướng tá cao cấp nhất của ông ta, không một người nào được phép biết về kế hoạch của vụ tập kích cứu phi công Mỹ ở Sơn Tây, kể từ khi nó hình thành cho tới lúc kết thúc. Thậm chí, các tư lệnh chiến thuật của quân đội Mỹ ở chiến trường Đông Nam Á cũng chỉ được thông báo về kế hoạch của chiến dịch “Bờ biển Ngà“ vào thời gian xét thấy thuận tiện nhất. Và mỗi người cũng chỉ biết trong giới hạn phần kế hoạch có liên quan đến chức trách của họ mà thôi. Tất cả số nhân viên và phi đoàn bay được tuyển chọn tham gia cuộc hành quân tập kích trại tù binh Sơn Tây đều được đưa đến huấn luyện về thể chất tại căn cứ Fort Bragg thuộc tiểu bang Carolina Bắc. Tiếp đó, họ được chuyển về căn cứ Eglin để huấn luyện phối hợp với phi đoàn bay. Đó là một vùng đất rộng khoảng 465.000 hécta, nằm ở phía bắc của bang Florida. Đây cũng là nơi tập dượt của Trung tâm huấn luyện cấp cứu và tìm lại bằng máy bay của quân đội Mỹ (USAF). Hầu hết các phi công lái máy bay trực thăng và máy bay C-130 giải cứu hoặc tiếp tế nổi tiếng của lực lượng không quân Hoa Kỳ đều đã từng được huấn luyện tại nơi này. Vậy còn “Toán hành động hỗn họp cấp thời” của chiến dịch “Bờ biển Ngà” đã được tập luyện ra sao? NGUỜI MỸ ĐÃ XÂY DỰNG THÊM MỘT TRẠI TÙ BINH SƠN TÂY TẠI BANG FLORIDA? Cho đến thời điểm này thì “Hồ sơ mục tiêu Sơn Tây” đã được chất đầy các ngăn tủ của Bộ chỉ huy hành quân của cuộc tập kích. Trong đó, có rất nhiều các bức không ảnh được phóng cỡ lớn, chụp tất cả các vùng đất từ biên giới Việt-Lào đến thị xã Sơn Tây. Đặc biệt là địa hình khu vực trại giam tù binh và xung quanh. Những tấm ảnh đó đều được các chuyên gia chia thành ô vuông như bản đồ. Mỗi ô trên ảnh tương ứng với 100 m2 trên thực địa. Các bức ảnh này đều rõ ràng và chi tiết tới mức người ta có thể phân biệt được từng dãy tường gạch, từng khu nhà ở, từng rãnh nước và từng ngọn cây có trong khu trại tù binh. Ngoài ảnh ra, tướng Blackburn và Mayer còn cho dựng cả sa bàn khu vực trại giam, đồng thời phóng và vẽ tấm bản đồ về mục tiêu cực lớn. Nó được in sao cẩn thận nhưng chỉ có vài bản. Nhưng như thế mà dường như vẫn chưa làm cho người Mỹ yên tâm. Simons cho rằng không thể huấn luyện cả trăm quân tập kích một vùng đất xa lạ và nguy hiểm chỉ với loại “sa bàn đồ chơi” và “Bản đồ thực tập”. Ông ta đề nghị cho dựng một mô hình trại giam Sơn Tây với tỷ lệ 1/1, nghĩa là giống y chang như thật, để phục vụ cho tập luyện. Đầu tiên, Cục Tình báo quân đội Mỹ đã phản đối đề nghị này, vì sợ làm như vậy vô tình mục tiêu cuộc tập kích sẽ bị bại lộ bởi những kẻ tò mò và đặc biệt là bởi các thiết bị săn tìm đặt trên vệ tinh tình báo kỹ thuật của Liên Xô phát hiện được. Sự lo ngại này không phải là vô căn cứ. Người Mỹ biết rất rõ loại vệ tinh Cosmos 355 của Liên Xô hồi ấy đã được trang bị loại máy ảnh rất hiện đại, cho phép chụp được những bức không ảnh phân biệt rõ cả sự thay đổi của cửa sổ trong một ngôi nhà, nếu đó là mục tiêu. Vệ tinh này thường xuyên bay quan sát trên vùng trời của căn cứ không quân Eglin 2 lần trong một ngày, với độ cao khoảng 130 km… Nhưng trước sự thúc bách của nhiệm vụ, Simons vẫn kiên quyết bảo lưu đề nghị của mình là phải xây dựng một mô hình trại tù binh như thật! Cuối cùng, các chuyên gia CIA Mỹ đã tìm được một lối thoát: Họ sử dụng các loại vật liệu xây dựng nhẹ để tạo nên một mô hình trại giam tù binh Sơn Tây. Mô hình này được gọi là Barbara. Nó có thể nhanh chóng được tháo rời ra một cách dễ dàng và cất giấu đi. Đó là các tấm vải bạt chuyên dụng và cọc gỗ cỡ 2x4, dài 6 bộ (mỗi bộ bằng 0,3048 mét). Với loại chất liệu này người ta rất dễ dựng thành các bức tường rào, nhà cấp bốn và thậm chí cả những ô cửa sổ, cửa chính được cắt khéo léo rồi sơn phết với màu sắc như thật. Để có một mô hình hoàn chỉnh, các chuyên gia đã phải sử dụng tới 710 chiếc cọc gỗ và 1.500 yard vải bạt (mỗi yard bằng 0,914 mét). Cột cờ và những chiếc cột điện ở trại tù binh cũng đã được các chuyên gia dựng lên trong mô hình với kích cỡ đúng như thực tế, để các phi công làm quen. Thậm chí, người ta còn kỳ công tới mức cho chuyển cả một số cây to (được đào cả gốc lên), về trồng tại nơi dựng mô hình của trại tù binh !… Nghe nói, riêng công trình này, các chuyên viên CIA đã phải làm mất mấy tháng trời và tiêu tốn tới 60.000 đôla! Thời gian đầu, mô hình trại tù binh Sơn Tây nói trên chỉ ban đêm người ta mới cho dựng lên để binh sĩ luyện tập, còn ban ngày được tháo rời ra, ngụy trang kỹ để tránh sự phát hiện của vệ tinh Liên Xô. Về sau, người ta có tập cả ban ngày, nhưng rất hạn chế và cũng chỉ giới hạn trong 4 tiếng đồng hồ, (thời gian vệ tinh tình báo kỹ thuật Cosmos 355 của Liên Xô không chụp ảnh được). Tướng Manor nói: “Tuy là kiến trúc tạm thời, nhưng mô hình này cũng đủ để cho những người lính có một cảm nghĩ xác thực là họ sẽ thấy những điều gì và họ biết rằng mình sẽ phải hành động ra sao, khi tới một mục tiêu có địa hình tương tự thế này”. VÀ HỌ ĐÃ CHO QUÂN BIỆT KÍCH TẬP LUYỆN NHƯ THẾ NÀO ? Ngày 20-8-1970, cuộc tập luyện của không quân Mỹ và “Toán hành động hỗn hợp cấp thời” bắt đầu. Trước đó, những người trong đơn vị này đã được cấp trên ưu tiên tăng khẩu phần ăn theo nhu cầu; đồng thời tập trung rèn luyện để nâng cao thể chất tới mức tốt nhất. Hằng ngày, Simons đã bắt tất cả 103 quân tình nguyện đều phải ôn lại những bài thể dục cơ bản của lính Mỹ, rồi đeo balô cùng vũ khí trang bị chạy bộ mấy cây số đường dài. Các bài tập càng ngày càng nặng hơn, khó thêm và thời gian tập cũng tăng dần… Ngoài ra, họ còn phải học thêm về cách định hướng máy bay trực thăng, cách truyền tin, liên lạc, đột kích, cách phá các loại khóa và cửa, cách vượt ngục… và xen lẫn kết thúc cuối ngày là tập điền kinh. Simons muốn tất cả những binh lính trong đơn vị biệt kích của ông ta đều phải “vừa có sức tuyệt vời, lại vừa thiện chiến không thể chê vào đâu được”! Việc tập luyện cho các phi công trong đoàn bay mới là khó khăn và phức tạp nhất. Mặc dù tất cả bọn họ đều là những tay lái siêu hạng, nhưng yêu cầu của nhiệm vụ lần này khá đặc biệt. Để tránh bị rađa phát hiện và sự trừng trị của lực lượng phòng không miền Bắc Việt Nam, Manor đã yêu cầu các phi công phải bay thấp sát ngọn cây và ngoằn ngoèo dưới thung lũng các dãy núi trong nhiều giờ liền. Hơn nữa, họ toàn tập bay ban đêm, dưới ánh trăng mờ và không được sử dụng vô tuyến điện liên lạc. Nghĩa là bay trong im lặng với đội hình sát nhau. Chỉ cần một sai sót nhỏ là máy bay có thể va vào nhau, húc vào núi, hoặc rơi xuống nơi lởm chởm đất đá của vùng bắc tiểu bang Georga. Lái trực thăng bay thấp đã khó, điều khiển loại máy bay C-130 bay thấp còn khó hơn nhiều. Trong kế hoạch của chiến dịch “Bờ biển Ngà”, Manor và Simons sử dụng tới 3 chiếc C-130 tham gia vào cuộc tập kích. Một chiếc là loại giải cứu HC-130 sẽ làm nhiệm vụ tiếp nhiên liệu cho trực thăng trên không phận của Lào. Hai chiếc C-130 còn lại được trang bị loại khí cụ bay đặc biệt và hệ thống hồng ngoại dò tìm hiện đại bậc nhất thời đó. Một chiếc sẽ làm nhiệm vụ dẫn đường 6 chiếc trực thăng đến Trại tù binh Sơn Tây rồi thả pháo sáng và pháo khói để hỗ trợ cho đơn vị biệt kích hành động. Chiếc kia sẽ hướng dẫn một số máy bay phản lực oanh tạc và yểm hộ xung quanh… Các chuyên gia đã tính toán rằng: tốc độ thường khi bay thấp của một chiếc C-130 là 250 hải lý; nhưng để phục vụ cho việc tập kích Sơn Tây, các phi công đã phải ép tập bay với tốc độ 105 hải lý, gần như mất hết tốc lực, nên càng cực kỳ nguy hiểm! Vậy mà, các toán phi hành đoàn của Manor đã phải tập luyện tới trên 1.000 giờ bay “căng thẳng đến thót tim”, với 368 phi vụ trong những điều kiện cực kỳ khắt khe kể trên. Ngày 28-9-1970, “Toán hành động hỗn hợp cấp thời” bắt đầu phối hợp giữa bộ binh và không quân luyện tập tấn công. Đúng như Simons đã hài hước ví đó là sự “quần nhau với mô hình trại tù binh Sơn Tây”. Mỗi ngày họ thực hiện 3 cuộc đổ bộ bằng trực thăng và đêm đến lại thêm 3 cuộc như thế… Simons đã cho người của ông ta luyện tập nhiều đến mức những lính Mỹ trong đơn vị biệt kích này đều thuộc lòng cấu tạo của mục tiêu cần tấn công. Nếu như có bịt mắt lại, họ vẫn có thể bắn trúng đích theo lệnh chỉ huy. Đêm ngày 6-10-1970, tướng Manor và đại tá Simons đã tổ chức buổi tổng diễn tập cuối cùng có bắn đạn thật trước sự chứng kiến của Blackburn và Mayer. Các máy bay trực thăng và C-130 đã bay một đoạn đường dài tượng trưng từ một căn cứ xuất phát tại Thái Lan, vượt qua biên giới Lào đến Sơn Tây. Trong cơn lốc gió cuốn ầm ầm của cánh quạt những chiếc trực thăng, pháo sáng thả trắng trời đêm và tiếng súng nổ inh tai, quân biệt kích đã bất ngờ đổ bộ vào các phòng giam tù binh trước khi nhanh chóng tiêu diệt hết các mục tiêu… khiến cho Blackburn và Mayer rất hài lòng. Cũng trong thời gian này trung tá Cataldo rất bận rộn, vất vả với việc chuẩn bị vũ khí, trang bị và hậu cần cho cuộc tập kích: Đó là những khẩu súng trung liên M-60, bắn đạn 7,62 ly; súng chống tăng loại 66 ly cỡ nhẹ ; những khẩu CAR-15 rất nhỏ, nhẹ, báng gấp; súng phóng lựu đạn M.79; một số mìn sát thương và những túi chất nổ có sức công phá cực mạnh; những ống kính ngắm đặc biệt, giúp người sử dụng nó có thể nhìn rõ mục tiêu trong đêm tối… Ngoài túi thuốc quân y của lính biệt kích Mỹ, Cataldo còn chuẩn bị thêm cả một số chăn đệm đặc biệt, một số dép bata đế mềm, 100 bộ đồ ngủ và áo choàng, một lô thức ăn nhẹ nhưng dinh dưỡng cao… tất cả những thứ ấy là để sẵn cho tù binh sử dụng trên đường dài bay về Mỹ. Như vậy, Chiến dịch “Bờ biển Ngà” đã bước vào giai đoạn cuối cùng. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
Top