Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 8112" data-attributes="member: 7"><p>Ông Lê Việt Tiến, nguyên Phó trưởng ty Công an Hà Tây nhớ lại: Mỗi tù binh phi công Mỹ ở trại “Hy Vọng“ của Sơn Tây hồi đó vẫn được hưởng mức ăn tới 7 đồng/ngày. (Đây thực sự là một cố gắng rất lớn của Chính phủ ta, nếu bạn đọc biết rằng một cán bộ của Ty Công an Hà Tây hồi đó ăn bếp tập thể chỉ với chế độ… 0,5 đồng/ngày; còn đồng chí Trưởng ty Công an tỉnh thì lĩnh lương tháng cộng tất tật các khoản cũng chỉ vẻn vẹn có… 115 đồng!). Tuy nhiên, dù đã cố gắng rất nhiều trong việc thực hiện chính sách nhân đạo đối với tù binh Mỹ, thì nơi đây vẫn là thiếu thốn đủ thứ tiện nghi sinh hoạt đối với họ. </p><p></p><p>Ước mơ lớn nhất của các tù binh ở trại “Hy Vọng“ là sớm được trở về đoàn tụ với gia đình. Họ tự hiểu rằng việc “vượt ngục trốn trại” ở đây chỉ là chuyện điên rồ và vô vọng!</p><p></p><p>Một lần, đại uý Richard Brenneman lợi dụng việc chôn cột bóng chuyền đã trèo lên cao để nhìn ra ngoài qua bức tường rào. Anh ta phát hiện ra vị trí của trại “Hy Vọng“ nằm biệt lập giữa cánh đồng, rất xa khu vực dân cư. Một số tù binh khác cũng nhân lúc bộ đội ta canh gác sơ hở đã trèo lên tường rào nhìn vội ra ngoài… Rồi họ đã cùng chắp nối lại những gì quan sát được. Họ đã hình dung ra nơi họ bị giam nằm giữa cánh đồng lúa, có đê điều bao quanh và rất gần một dòng sông; cách vài trăm mét về phía nam còn có cả một trạm biến thế điện, xa hơn nữa là một khu nhà có vẻ như bệnh xá, trường học hay một trại an dưỡng gì đó. Và ngoài tường rào phía tây của trại là một trạm bơm nhỏ…</p><p></p><p>Một tù binh bỗng nêu lên ý nghĩ: giá như có một lực lượng “giải thoát”? Đúng, chỉ có cách giải thoát là biện pháp tốt nhất! Nhưng làm cách nào để có được lực lượng đến giải thoát nơi đây? Các tù binh Mỹ đều biết rằng, hầu như tuần nào cũng có máy bay trinh sát bay qua vùng trời này để chụp ảnh, phát hiện các mục tiêu cần đánh phá trên miền Bắc Việt Nam. Vậy thì phải tìm cách báo hiệu cho các chuyên viên nghiên cứu ảnh biết nơi đây là trại giam tù binh Mỹ… Bởi vì nếu nhìn từ trên không xuống, với những dãy nhà nhỏ có tường bao quanh, Trại giam “Hy Vọng“ cũng chỉ giống như một trường học, một nhà kho, hay một nông trại dùng để nhốt gà vịt bình thường khác.</p><p></p><p>Hy vọng “có thể được giải thoát” đã lóe lên trong đầu mỗi tù binh, và họ đã bàn nhau tìm mọi cách để báo cho các máy bay trinh sát của quân đội Mỹ chụp ảnh được tín hiệu cấp cứu và lời khẩn cầu của họ. Lợi dụng những khi lao động đào giếng, đào rãnh và chuyển đất đá, các tù binh đã cố tình đổ đất mới tạo nên những hình ảnh khác thường. Thậm chí khi phơi quần áo sau lúc tắm giặt họ cũng nghĩ cách làm sao để tạo thành các chữ viết tắt như SOS (cấp cứu), K (hãy đến cứu chúng tôi), hay SAR (tìm và giải thoát), để các chuyên gia nghiên cứu ảnh chụp từ máy bay dễ nhận thấy nhất… Và tất cả những sự cố gắng nỗ lực đó đã không phải không có tác dụng!</p><p></p><p><strong>VÀ LẦU NĂM GÓC ĐÃ PHÁT HIỆN RA TRẠI TÙ BINH “HY VỌNG” Ở SƠN TÂY NHƯ THẾ NÀO ?</strong></p><p></p><p>Tháng 10-1966, sau hơn 2 năm tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta, lực lượng không quân Mỹ đã bị thiệt hại nặng nề. Phía Mỹ cho rằng họ đã có tới 264 phi công bị bắn rơi. Nhưng một điều rất đáng lo ngại là trong số 264 phi công đó, chỉ có một số người “may mắn” được phía Việt Nam bắt sống. Số còn lại được coi như đã mất tích trong lúc hành sự. </p><p></p><p>Trước sự thúc ép của dư luận, nhất là của gia đình các phi công, một cuộc họp bất thường đã được Bộ Quốc phòng Mỹ tổ chức với thành phần gồm một số chuyên viên tình báo và chuyên viên giải thoát tù binh của nhiều đơn vị hữu quan. Mục đích của cuộc họp là tìm ra được phương pháp hữu hiệu thu thập thông tin về tù binh phi công Mỹ bị bắt và bị mất tích trong lúc hành sự. Trước mắt, có hai việc cần phải tiến hành ngay: Thứ nhất, xác định danh sách những phi công sau khi bị bắn rơi đã bị bắt làm tù binh, để mối quan tâm lo lắng của gia đình họ được vơi đi phần nào. Thứ hai, xác định được vị trí của những trại tù binh phi công để đưa chúng ra ngoài mục tiêu ném bom bắn phá của quân đội Mỹ. Họ rất sợ vì dư thừa bom đạn, nên không khéo sẽ xảy ra chuyện “gậy ông lại đập lưng ông”!</p><p></p><p>Kể từ đó, những cuộc họp có nội dung như trên đã được thường xuyên tổ chức hàng tuần tại Trung tâm không quân của Lầu Năm Góc. Chủ tọa các phiên họp này do CIA (Cục Tình báo Trung ương Mỹ) và DIA (Cục Tình báo Bộ Quốc phòng Mỹ) phối hợp, tham gia còn có đại diện các cơ quan khác như Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, FBI (Cơ quan Điều tra Liên bang), Cơ quan Mật vụ và cả đại diện của Bưu điện Liên bang Mỹ…</p><p></p><p>Đồng thời với những cuộc họp được thường xuyên tổ chức đó là một chiến dịch săn lùng, kiếm tìm ráo riết của các lực lượng tình báo và kỹ thuật Mỹ, được huy động với hết khả năng và điều kiện cho phép. Và trong cuộc chạy đua này, một đơn vị tình báo hoạt động trên mặt đất của không quân Mỹ mang bí số 1127 đã về đích đầu tiên.</p><p></p><p>Trụ sở của đơn vị 1127 nằm tại căn cứ Belvoir, thuộc tiểu bang Virginia, cách Nhà Trắng chỉ khoảng 20 cây số và được bảo vệ hết sức cẩn mật. Làm việc cho 1127 là những chuyên gia sừng sỏ, dày dạn kinh nghiệm trong số các nhân viên tình báo nhà nghề Mỹ. Họ có nhiệm vụ khai thác tin tức từ các binh sĩ của Liên Xô (cũ) cùng các nước Đông Âu đào ngũ và cả các tù binh bị quân Mỹ bắt được trong chiến tranh Việt Nam…</p><p></p><p>Trong đơn vị 1127, có một bộ phận làm nhiệm vụ chuyên nghiên cứu việc giải thoát các tù binh, trong đó có tù binh phi công Mỹ bị đối phương bắn rơi. Kể cả việc soạn thảo kế hoạch đột kích giúp tù binh Mỹ thoát khỏi trại tù… Tại đơn vị 1127, trong khoảng thời gian từ năm 1966 - 1970, các chuyên gia đã xử lý, phân tích hàng núi tài liệu tình báo, được thu thập bằng rất nhiều nguồn, từ khắp nơi trên thế giới gửi về.</p><p></p><p>Vào khoảng cuối năm 1968, qua sàng lọc các nguồn tin, các chuyên gia Mỹ cho rằng có một trại tù binh phi công được giam trong một căn cứ có tường kín bao quanh, cách Hà Nội vài chục cây số về phía tây. Tuy nhiên, mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng họ vẫn không xác định được chính xác vị trí cụ thể của trại tù binh ấy.</p><p></p><p>Ngày 9-5-1970, một chuyên viên kỹ thuật tình báo tên là Nôru Cơlinhbeo, một tay già dặn trong nghề, đã có nhiều năm làm việc tại Lào, vốn nổi tiếng là người kiên nhẫn tìm tòi… bằng việc tổng hợp suy đoán từ các tin tức tình báo cộng với việc phân tích các bức không ảnh do máy bay trinh sát chụp được, ông ta đã quả quyết khám phá ra điều nóng hổi mà cả cơ quan tình báo Mỹ đang mong chờ: Có ít nhất hai trại giam tù binh phi công Mỹ tại phía tây Hà Nội. Một trong hai trại đó nằm ở thị xã Sơn Tây, cách Hà Nội khoảng 40 cây số! </p><p></p><p>Cũng cần phải nói thêm rằng trước đó, Cơlinhbeo đã báo cáo những dấu hiệu nghi vấn này cho đại tá George J. Iles, người đặc trách bộ phận “Vượt ngục và trốn thoát” của đơn vị 1127. Đại tá Iles cũng đã kiên trì dày công tìm tòi, đồng thời so sánh các bức không ảnh chụp vùng thị xã Sơn Tây. Và ông ta cũng đi đến kết luận giống hệt và gần như cùng một thời điểm với Cơlinhbeo.</p><p></p><p>Vậy là người Mỹ đã có cớ để ăn mừng thành công bước đầu! Họ lập tức huy động các chuyên gia giỏi nhất tập trung nghiên cứu vùng Sơn Tây. Sau khi phân tích, so sánh rất nhiều các bức không ảnh cũ và mới do máy bay trinh sát chụp được, họ đều có kết luận giống nhau: Các dấu hiệu của trại giam tù binh phi công rất rõ. Trong nhiều bức không ảnh, các chuyên gia đã chẳng khó khăn gì, đọc được rất rõ các ký hiệu cầu cứu giải thoát SOS, K và SAR… do các tù binh phi công tạo nên. Các bức ảnh chụp kiểu phơi quần áo, cách đổ đất đá với những hình thù kỳ lạ đều chứa đựng những thông tin cần thiết. Chắp nối và tổng hợp lại, các chuyên gia tình báo quân sự Mỹ đã có cả một sơ đồ thực sự để nhận biết và có kế hoạch giải thoát cho tù binh. Để chắc chắn hơn, họ đã sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ tình báo nhằm xác minh độ chính xác của trại tù binh Sơn Tây. Ví dụ, qua các thông tin mà một số đoàn khách quốc tế được phép vào Việt Nam vì mục đích hòa bình tiết lộ, qua lời kể của một số tù binh phi công được phía Việt Nam trao trả sớm, qua thư từ mà các tù binh phi công vẫn gửi về cho gia đình họ và thậm chí thông qua cả một số sĩ quan của quân đội ngụy Sài Gòn có quê gốc ở vùng Sơn Tây nhớ lại, vẽ thành sơ đồ… </p><p></p><p>Vấn đề còn lại chỉ là tìm cách thuyết trình, báo cáo để Lầu Năm Góc có kế hoạch quyết định cho số phận của các phi công Mỹ đang được giam giữ ở trại “Hy Vọng“ thị xã Sơn Tây!</p><p></p><p>Đây là kết quả sau nhiều ngày làm việc của Nhóm công tác theo dõi và xét duyệt vấn đề tù binh, thuộc thành phần đặc biệt của Bộ Tham mưu. Để có buổi thuyết trình với sự có mặt của rất nhiều tướng lĩnh chóp bu của Lầu Năm Góc, nhóm công tác đã phải lần lượt tìm cách “mở khóa từng cửa” một. Trước hết, họ liên lạc qua điện thoại để xin được thuyết trình bản kế hoạch của mình cho trung tướng Rốtky, Phụ tá tham mưu trưởng Không quân. Rất may là ông này đã sốt sắng ủng hộ và cả quyết rằng: kế hoạch giải thoát cho tù binh nhất định sẽ được thi hành! Và ông ta giao cho thiếu tướng James Allen, Phó giám đốc kế hoạch-chính sách của phòng 4D-1062 lo việc này.</p><p></p><p>Tuy nhiên, không phải là đã hết những ý kiến nghi ngờ. Thậm chí đã xảy ra những cuộc tranh luận quyết liệt giữa các chuyên gia phân tích tình báo của không quân Mỹ và giữa các thành viên của nhóm IPWIC (Ủy ban tình báo tù binh liên cơ quan) do DIA cầm đầu. Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao phía Việt Nam không giam giữ tù binh ngay tại Hà Nội cho dễ quản lý? Tại sao họ lại đưa các tù binh phi công lên mãi Sơn Tây, ở một nơi hẻo lánh như vậy? Phải chăng đây chỉ là sự vô tình hay một cái bẫy cố ý? vân vân… Song, dù có cãi nhau hăng thế nào thì người ta vẫn không thể phủ nhận một điều: Tù binh phi công Mỹ đang được giam giữ tại thị xã Sơn Tây là có thật? Và việc xác định, tìm kiếm đã thành công? Vấn đề còn lại là … </p><p></p><p><strong>AI SẼ GIẢI THOÁT CHO TÙ BINH PHI CÔNG MỸ VÀ BẰNG CÁCH NÀO?</strong></p><p></p><p>Để có đáp án cho câu hỏi trên, thiếu tướng James Allen đã liên lạc với SACSA. Đây là một đơn vị chuyên làm nhiệm vụ Chống phiến loạn và hoạt động đặc biệt. Tổng hành dinh của nó khá đồ sộ và nằm ngay dưới văn phòng của Chủ tịch Hội đồng tham mưu hỗn hợp. Phụ tá đặc biệt của SACSA là thiếu tướng Donald Blackburn. Ông này có một tiểu sử binh nghiệp khá đặc biệt: Sinh trưởng tại bang Florida. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, Blackburn có công tổ chức và chỉ huy một đơn vị du kích Philippines chiến đấu chống lại quân đội phát xít Nhật cho đến ngày thắng lợi. Trở về nước, ông ta đeo lon đại tá khi mới 29 tuổi. Là một sĩ quan có uy tín và từng trải trong quân đội Mỹ, năm 1957 Blackburn đã từng được cử sang Nam Việt Nam làm cố vấn cao cấp cho một viên tướng ngụy Sài Gòn. Năm 1960, Blackburn được Tổng thống Mỹ Kennedy giao nhiệm tổ chức một nhóm quân sự tại Lào. Và chính tại đây, Blackburn đã lần đâu tiên gặp Simons, người sau này đã được ông ta tiến cử với Lầu Năm Góc để chọn làm Chỉ huy cuộc tập kích cứu phi công Mỹ tại Sơn Tây.</p><p></p><p>Dưới quyền chỉ huy của Phụ tá đặc biệt SACSA, thiếu tướng Donald Blackburn còn có một nhân vật khá đặc biệt là đại tá Mayer, chuyên viên điện tín bí mật, đồng thời cầm đầu một bộ phận hoạt động đặc nhiệm của SACSA. </p><p></p><p>Ngày 25-5-1970, tướng Allen đã có cuộc bàn bạc với tướng Blackburn và đại tá Mayer. Sau khi thông báo cho nhau kết quả làm việc của nhóm nghiên cứu thuộc đơn vị 1127, Allen đã nhận thấy Blackburn rất xúc động. Hình như số phận đã chờ đợi để gắn bó con người này vào công việc đó. Allen hỏi Blackburn rất cụ thể: </p><p></p><p>- Liệu có thể cử một toán điệp viên đến vùng Sơn Tây trước được không? Bọn họ sẽ có nhiệm vụ xác minh các kết quả làm việc của 1127 trên địa bàn thực tế, sau đó có thể làm việc “lót ổ” trước…</p><p></p><p>Blackburn suy nghĩ rồi đáp:</p><p></p><p>- Làm như vậy rất nguy hiểm. Theo tôi biết, hầu hết các điệp viên ta có trên Bắc Việt trước đây đều thuộc DIA chỉ huy. CIA cũng có một số cơ sở và căn cứ, nhưng chỉ hoạt động hạn chế trong vòng 20 cây số ở vùng biên giới Lào-Việt. Chính Tổng thống Johnson đã quy định như thế! Sứ mệnh giải thoát tù binh là do SACSA đảm nhiệm.</p><p></p><p>Allen đã cắt ngang lời Blackburn:</p><p></p><p>- Vậy nếu ta sử dụng một căn cứ của CIA tại Bắc Lào rồi dùng trực thăng đưa một toán nhỏ lực lượng đặc nhiệm đến Sơn Tây?</p><p></p><p>- Sử dụng trực thăng cùng đội đặc nhiệm ư? Một ý kiến hay đấy - Blackburn tán thành.</p><p></p><p>- Có nguồn tin khẳng định rằng một nhóm tù binh ở trại Sơn Tây thỉnh thoảng vẫn xuất hiện ở Ba Vì để làm việc gì đó.</p><p></p><p>Nếu toán điệp viên được “lót ổ” trước phát hiện ra họ và điện cho trực thăng đến thì cuộc hành quân phải được thực hiện rất nhanh và nắm chắc phần thắng. Rồi những người được giải thoát sẽ nhanh chóng được đưa đến một căn cứ của chúng ta tại Thái Lan, để trở về trong vòng tay của gia đình họ…</p><p></p><p>- Nhưng chắc gì toán điệp viên kia đến được Sơn Tây yên ổn. Rất có thể bọn họ sẽ bị lực lượng an ninh Việt Nam tóm cổ trước khi kịp hành động theo kế hoạch… Chúng ta đã từng trả giá đắt cho hành động này với những bài học cay đắng, chẳng nhẽ ngài quên rồi sao?</p><p></p><p>Tuy Blackburn không nhắc lại nhưng Allen thừa hiểu ông ta muốn nói đến điều gì. Kể từ năm 1968, sau khi Tổng thống Johnson buộc phải tuyên bố đình chỉ các hoạt động của Không quân và Hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam, giới quân sự Mỹ đã không có quyền muốn làm gì thì làm như trước đó, kể cả việc phát động những cuộc hành quân đặc biệt hay đưa điệp viên xâm nhập. Thậm chí, công việc tiếp tế cho các toán điệp viên (CAS) đang hoạt động ở Bắc Việt Nam cũng bị Tổng thống Mỹ cấm. Có tới mấy chục điệp viên người Việt đã được tuyển dụng, huấn luyện kỹ càng trước khi tung ra miền Bắc hoạt động… đều bị người Mỹ bỏ rơi một cách nhẹ nhàng. Các toán CAS này đã sử dụng nhiều biện pháp liên lạc để cầu cứu các quan thầy một cách tuyệt vọng. Họ chỉ cầm cự được thêm một thời gian ngắn, rồi kẻ bị bắt, người ra đầu thú, một số rất ít tìm cách vượt biên trốn được sang vùng rừng núi phía bắc Lào… Và cũng kể từ đó, hầu như không có nguồn tin nào nhắc đến số phận bi thảm của họ nữa!</p><p></p><p>- Tôi giả thiết rằng khi toán điệp viên của ta được phái đến Sơn Tây bị lực lượng an ninh Bắc Việt bắt - Blackburn nói tiếp - Thì chuyện giải thoát cho các tù binh sau đó sẽ càng khó khăn gấp bội. Còn việc đưa được đội đặc nhiệm bằng những chiếc trực thăng đến Sơn Tây cũng đâu phải dễ! Cứ cho rằng chúng sẽ bay thật thấp, luồn lách qua những thung lũng của dãy núi Ba Vì để tránh sự phát hiện của lực lượng phòng không Bắc Việt. Và yếu tố bí mật bất ngờ sẽ khiến cho quân Bắc Việt ở Sơn Tây không kịp phản ứng… Thì vẫn còn những tay súng bảo vệ trại giam. Họ sẽ chiến đấu với một tinh thần dũng cảm khó lường. Và thương vong của lực lượng đặc nhiệm Mỹ là không thể tránh khỏi, thậm chí có thể bị tiêu diệt gọn nếu lực lượng này ít và yếu. Vì thế, chúng ta phải có một lực lượng đủ mạnh, được tuyển chọn chu đáo, tập luyện kỹ càng, được trang bị đầy đủ và thiện chiến nhất! </p><p></p><p>- Nếu vậy, việc giải thoát cho nhóm tù binh kia sẽ chậm và e rằng mất thời cơ?</p><p></p><p>Thế tại sao chúng ta chỉ muốn giải thoát cho một nhóm mà không quan tâm đến cả trại, nếu điều kiện cho phép? - Blackburn trả lời tướng Allen bằng một câu hỏi. Sau đó ông ta bày lên bàn một loạt bức ảnh mà nhóm 1127 đã dày công chuẩn bị - Tôi cho rằng trại “Hy Vọng“ ở thị xã Sơn Tây ở một vị trí khá hẻo lánh và được coi như có nhiều sơ hở nhất. Chúng ta có thể tiến hành một trận tập kích bất ngờ vào trại Sơn Tây và bốc tất cả đi bằng trực thăng!</p><p></p><p>Allen dường như đã bị những ý tưởng táo bạo của Blackburn chinh phục. Ông ta ngồi im lặng, hồi lâu mới buông một tiếng “OK”. Tuy nhiên, khó khăn đang chồng chất chờ đợi ở phía trước. Có rất nhiều vấn đề cần giải quyết, nhưng đều cực kỳ nan giải! Mà việc trước mắt là phải làm cho Lầu Năm Góc tin và ủng hộ cho kế hoạch của họ.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 8112, member: 7"] Ông Lê Việt Tiến, nguyên Phó trưởng ty Công an Hà Tây nhớ lại: Mỗi tù binh phi công Mỹ ở trại “Hy Vọng“ của Sơn Tây hồi đó vẫn được hưởng mức ăn tới 7 đồng/ngày. (Đây thực sự là một cố gắng rất lớn của Chính phủ ta, nếu bạn đọc biết rằng một cán bộ của Ty Công an Hà Tây hồi đó ăn bếp tập thể chỉ với chế độ… 0,5 đồng/ngày; còn đồng chí Trưởng ty Công an tỉnh thì lĩnh lương tháng cộng tất tật các khoản cũng chỉ vẻn vẹn có… 115 đồng!). Tuy nhiên, dù đã cố gắng rất nhiều trong việc thực hiện chính sách nhân đạo đối với tù binh Mỹ, thì nơi đây vẫn là thiếu thốn đủ thứ tiện nghi sinh hoạt đối với họ. Ước mơ lớn nhất của các tù binh ở trại “Hy Vọng“ là sớm được trở về đoàn tụ với gia đình. Họ tự hiểu rằng việc “vượt ngục trốn trại” ở đây chỉ là chuyện điên rồ và vô vọng! Một lần, đại uý Richard Brenneman lợi dụng việc chôn cột bóng chuyền đã trèo lên cao để nhìn ra ngoài qua bức tường rào. Anh ta phát hiện ra vị trí của trại “Hy Vọng“ nằm biệt lập giữa cánh đồng, rất xa khu vực dân cư. Một số tù binh khác cũng nhân lúc bộ đội ta canh gác sơ hở đã trèo lên tường rào nhìn vội ra ngoài… Rồi họ đã cùng chắp nối lại những gì quan sát được. Họ đã hình dung ra nơi họ bị giam nằm giữa cánh đồng lúa, có đê điều bao quanh và rất gần một dòng sông; cách vài trăm mét về phía nam còn có cả một trạm biến thế điện, xa hơn nữa là một khu nhà có vẻ như bệnh xá, trường học hay một trại an dưỡng gì đó. Và ngoài tường rào phía tây của trại là một trạm bơm nhỏ… Một tù binh bỗng nêu lên ý nghĩ: giá như có một lực lượng “giải thoát”? Đúng, chỉ có cách giải thoát là biện pháp tốt nhất! Nhưng làm cách nào để có được lực lượng đến giải thoát nơi đây? Các tù binh Mỹ đều biết rằng, hầu như tuần nào cũng có máy bay trinh sát bay qua vùng trời này để chụp ảnh, phát hiện các mục tiêu cần đánh phá trên miền Bắc Việt Nam. Vậy thì phải tìm cách báo hiệu cho các chuyên viên nghiên cứu ảnh biết nơi đây là trại giam tù binh Mỹ… Bởi vì nếu nhìn từ trên không xuống, với những dãy nhà nhỏ có tường bao quanh, Trại giam “Hy Vọng“ cũng chỉ giống như một trường học, một nhà kho, hay một nông trại dùng để nhốt gà vịt bình thường khác. Hy vọng “có thể được giải thoát” đã lóe lên trong đầu mỗi tù binh, và họ đã bàn nhau tìm mọi cách để báo cho các máy bay trinh sát của quân đội Mỹ chụp ảnh được tín hiệu cấp cứu và lời khẩn cầu của họ. Lợi dụng những khi lao động đào giếng, đào rãnh và chuyển đất đá, các tù binh đã cố tình đổ đất mới tạo nên những hình ảnh khác thường. Thậm chí khi phơi quần áo sau lúc tắm giặt họ cũng nghĩ cách làm sao để tạo thành các chữ viết tắt như SOS (cấp cứu), K (hãy đến cứu chúng tôi), hay SAR (tìm và giải thoát), để các chuyên gia nghiên cứu ảnh chụp từ máy bay dễ nhận thấy nhất… Và tất cả những sự cố gắng nỗ lực đó đã không phải không có tác dụng! [B]VÀ LẦU NĂM GÓC ĐÃ PHÁT HIỆN RA TRẠI TÙ BINH “HY VỌNG” Ở SƠN TÂY NHƯ THẾ NÀO ?[/B] Tháng 10-1966, sau hơn 2 năm tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta, lực lượng không quân Mỹ đã bị thiệt hại nặng nề. Phía Mỹ cho rằng họ đã có tới 264 phi công bị bắn rơi. Nhưng một điều rất đáng lo ngại là trong số 264 phi công đó, chỉ có một số người “may mắn” được phía Việt Nam bắt sống. Số còn lại được coi như đã mất tích trong lúc hành sự. Trước sự thúc ép của dư luận, nhất là của gia đình các phi công, một cuộc họp bất thường đã được Bộ Quốc phòng Mỹ tổ chức với thành phần gồm một số chuyên viên tình báo và chuyên viên giải thoát tù binh của nhiều đơn vị hữu quan. Mục đích của cuộc họp là tìm ra được phương pháp hữu hiệu thu thập thông tin về tù binh phi công Mỹ bị bắt và bị mất tích trong lúc hành sự. Trước mắt, có hai việc cần phải tiến hành ngay: Thứ nhất, xác định danh sách những phi công sau khi bị bắn rơi đã bị bắt làm tù binh, để mối quan tâm lo lắng của gia đình họ được vơi đi phần nào. Thứ hai, xác định được vị trí của những trại tù binh phi công để đưa chúng ra ngoài mục tiêu ném bom bắn phá của quân đội Mỹ. Họ rất sợ vì dư thừa bom đạn, nên không khéo sẽ xảy ra chuyện “gậy ông lại đập lưng ông”! Kể từ đó, những cuộc họp có nội dung như trên đã được thường xuyên tổ chức hàng tuần tại Trung tâm không quân của Lầu Năm Góc. Chủ tọa các phiên họp này do CIA (Cục Tình báo Trung ương Mỹ) và DIA (Cục Tình báo Bộ Quốc phòng Mỹ) phối hợp, tham gia còn có đại diện các cơ quan khác như Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, FBI (Cơ quan Điều tra Liên bang), Cơ quan Mật vụ và cả đại diện của Bưu điện Liên bang Mỹ… Đồng thời với những cuộc họp được thường xuyên tổ chức đó là một chiến dịch săn lùng, kiếm tìm ráo riết của các lực lượng tình báo và kỹ thuật Mỹ, được huy động với hết khả năng và điều kiện cho phép. Và trong cuộc chạy đua này, một đơn vị tình báo hoạt động trên mặt đất của không quân Mỹ mang bí số 1127 đã về đích đầu tiên. Trụ sở của đơn vị 1127 nằm tại căn cứ Belvoir, thuộc tiểu bang Virginia, cách Nhà Trắng chỉ khoảng 20 cây số và được bảo vệ hết sức cẩn mật. Làm việc cho 1127 là những chuyên gia sừng sỏ, dày dạn kinh nghiệm trong số các nhân viên tình báo nhà nghề Mỹ. Họ có nhiệm vụ khai thác tin tức từ các binh sĩ của Liên Xô (cũ) cùng các nước Đông Âu đào ngũ và cả các tù binh bị quân Mỹ bắt được trong chiến tranh Việt Nam… Trong đơn vị 1127, có một bộ phận làm nhiệm vụ chuyên nghiên cứu việc giải thoát các tù binh, trong đó có tù binh phi công Mỹ bị đối phương bắn rơi. Kể cả việc soạn thảo kế hoạch đột kích giúp tù binh Mỹ thoát khỏi trại tù… Tại đơn vị 1127, trong khoảng thời gian từ năm 1966 - 1970, các chuyên gia đã xử lý, phân tích hàng núi tài liệu tình báo, được thu thập bằng rất nhiều nguồn, từ khắp nơi trên thế giới gửi về. Vào khoảng cuối năm 1968, qua sàng lọc các nguồn tin, các chuyên gia Mỹ cho rằng có một trại tù binh phi công được giam trong một căn cứ có tường kín bao quanh, cách Hà Nội vài chục cây số về phía tây. Tuy nhiên, mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng họ vẫn không xác định được chính xác vị trí cụ thể của trại tù binh ấy. Ngày 9-5-1970, một chuyên viên kỹ thuật tình báo tên là Nôru Cơlinhbeo, một tay già dặn trong nghề, đã có nhiều năm làm việc tại Lào, vốn nổi tiếng là người kiên nhẫn tìm tòi… bằng việc tổng hợp suy đoán từ các tin tức tình báo cộng với việc phân tích các bức không ảnh do máy bay trinh sát chụp được, ông ta đã quả quyết khám phá ra điều nóng hổi mà cả cơ quan tình báo Mỹ đang mong chờ: Có ít nhất hai trại giam tù binh phi công Mỹ tại phía tây Hà Nội. Một trong hai trại đó nằm ở thị xã Sơn Tây, cách Hà Nội khoảng 40 cây số! Cũng cần phải nói thêm rằng trước đó, Cơlinhbeo đã báo cáo những dấu hiệu nghi vấn này cho đại tá George J. Iles, người đặc trách bộ phận “Vượt ngục và trốn thoát” của đơn vị 1127. Đại tá Iles cũng đã kiên trì dày công tìm tòi, đồng thời so sánh các bức không ảnh chụp vùng thị xã Sơn Tây. Và ông ta cũng đi đến kết luận giống hệt và gần như cùng một thời điểm với Cơlinhbeo. Vậy là người Mỹ đã có cớ để ăn mừng thành công bước đầu! Họ lập tức huy động các chuyên gia giỏi nhất tập trung nghiên cứu vùng Sơn Tây. Sau khi phân tích, so sánh rất nhiều các bức không ảnh cũ và mới do máy bay trinh sát chụp được, họ đều có kết luận giống nhau: Các dấu hiệu của trại giam tù binh phi công rất rõ. Trong nhiều bức không ảnh, các chuyên gia đã chẳng khó khăn gì, đọc được rất rõ các ký hiệu cầu cứu giải thoát SOS, K và SAR… do các tù binh phi công tạo nên. Các bức ảnh chụp kiểu phơi quần áo, cách đổ đất đá với những hình thù kỳ lạ đều chứa đựng những thông tin cần thiết. Chắp nối và tổng hợp lại, các chuyên gia tình báo quân sự Mỹ đã có cả một sơ đồ thực sự để nhận biết và có kế hoạch giải thoát cho tù binh. Để chắc chắn hơn, họ đã sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ tình báo nhằm xác minh độ chính xác của trại tù binh Sơn Tây. Ví dụ, qua các thông tin mà một số đoàn khách quốc tế được phép vào Việt Nam vì mục đích hòa bình tiết lộ, qua lời kể của một số tù binh phi công được phía Việt Nam trao trả sớm, qua thư từ mà các tù binh phi công vẫn gửi về cho gia đình họ và thậm chí thông qua cả một số sĩ quan của quân đội ngụy Sài Gòn có quê gốc ở vùng Sơn Tây nhớ lại, vẽ thành sơ đồ… Vấn đề còn lại chỉ là tìm cách thuyết trình, báo cáo để Lầu Năm Góc có kế hoạch quyết định cho số phận của các phi công Mỹ đang được giam giữ ở trại “Hy Vọng“ thị xã Sơn Tây! Đây là kết quả sau nhiều ngày làm việc của Nhóm công tác theo dõi và xét duyệt vấn đề tù binh, thuộc thành phần đặc biệt của Bộ Tham mưu. Để có buổi thuyết trình với sự có mặt của rất nhiều tướng lĩnh chóp bu của Lầu Năm Góc, nhóm công tác đã phải lần lượt tìm cách “mở khóa từng cửa” một. Trước hết, họ liên lạc qua điện thoại để xin được thuyết trình bản kế hoạch của mình cho trung tướng Rốtky, Phụ tá tham mưu trưởng Không quân. Rất may là ông này đã sốt sắng ủng hộ và cả quyết rằng: kế hoạch giải thoát cho tù binh nhất định sẽ được thi hành! Và ông ta giao cho thiếu tướng James Allen, Phó giám đốc kế hoạch-chính sách của phòng 4D-1062 lo việc này. Tuy nhiên, không phải là đã hết những ý kiến nghi ngờ. Thậm chí đã xảy ra những cuộc tranh luận quyết liệt giữa các chuyên gia phân tích tình báo của không quân Mỹ và giữa các thành viên của nhóm IPWIC (Ủy ban tình báo tù binh liên cơ quan) do DIA cầm đầu. Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao phía Việt Nam không giam giữ tù binh ngay tại Hà Nội cho dễ quản lý? Tại sao họ lại đưa các tù binh phi công lên mãi Sơn Tây, ở một nơi hẻo lánh như vậy? Phải chăng đây chỉ là sự vô tình hay một cái bẫy cố ý? vân vân… Song, dù có cãi nhau hăng thế nào thì người ta vẫn không thể phủ nhận một điều: Tù binh phi công Mỹ đang được giam giữ tại thị xã Sơn Tây là có thật? Và việc xác định, tìm kiếm đã thành công? Vấn đề còn lại là … [B]AI SẼ GIẢI THOÁT CHO TÙ BINH PHI CÔNG MỸ VÀ BẰNG CÁCH NÀO?[/B] Để có đáp án cho câu hỏi trên, thiếu tướng James Allen đã liên lạc với SACSA. Đây là một đơn vị chuyên làm nhiệm vụ Chống phiến loạn và hoạt động đặc biệt. Tổng hành dinh của nó khá đồ sộ và nằm ngay dưới văn phòng của Chủ tịch Hội đồng tham mưu hỗn hợp. Phụ tá đặc biệt của SACSA là thiếu tướng Donald Blackburn. Ông này có một tiểu sử binh nghiệp khá đặc biệt: Sinh trưởng tại bang Florida. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, Blackburn có công tổ chức và chỉ huy một đơn vị du kích Philippines chiến đấu chống lại quân đội phát xít Nhật cho đến ngày thắng lợi. Trở về nước, ông ta đeo lon đại tá khi mới 29 tuổi. Là một sĩ quan có uy tín và từng trải trong quân đội Mỹ, năm 1957 Blackburn đã từng được cử sang Nam Việt Nam làm cố vấn cao cấp cho một viên tướng ngụy Sài Gòn. Năm 1960, Blackburn được Tổng thống Mỹ Kennedy giao nhiệm tổ chức một nhóm quân sự tại Lào. Và chính tại đây, Blackburn đã lần đâu tiên gặp Simons, người sau này đã được ông ta tiến cử với Lầu Năm Góc để chọn làm Chỉ huy cuộc tập kích cứu phi công Mỹ tại Sơn Tây. Dưới quyền chỉ huy của Phụ tá đặc biệt SACSA, thiếu tướng Donald Blackburn còn có một nhân vật khá đặc biệt là đại tá Mayer, chuyên viên điện tín bí mật, đồng thời cầm đầu một bộ phận hoạt động đặc nhiệm của SACSA. Ngày 25-5-1970, tướng Allen đã có cuộc bàn bạc với tướng Blackburn và đại tá Mayer. Sau khi thông báo cho nhau kết quả làm việc của nhóm nghiên cứu thuộc đơn vị 1127, Allen đã nhận thấy Blackburn rất xúc động. Hình như số phận đã chờ đợi để gắn bó con người này vào công việc đó. Allen hỏi Blackburn rất cụ thể: - Liệu có thể cử một toán điệp viên đến vùng Sơn Tây trước được không? Bọn họ sẽ có nhiệm vụ xác minh các kết quả làm việc của 1127 trên địa bàn thực tế, sau đó có thể làm việc “lót ổ” trước… Blackburn suy nghĩ rồi đáp: - Làm như vậy rất nguy hiểm. Theo tôi biết, hầu hết các điệp viên ta có trên Bắc Việt trước đây đều thuộc DIA chỉ huy. CIA cũng có một số cơ sở và căn cứ, nhưng chỉ hoạt động hạn chế trong vòng 20 cây số ở vùng biên giới Lào-Việt. Chính Tổng thống Johnson đã quy định như thế! Sứ mệnh giải thoát tù binh là do SACSA đảm nhiệm. Allen đã cắt ngang lời Blackburn: - Vậy nếu ta sử dụng một căn cứ của CIA tại Bắc Lào rồi dùng trực thăng đưa một toán nhỏ lực lượng đặc nhiệm đến Sơn Tây? - Sử dụng trực thăng cùng đội đặc nhiệm ư? Một ý kiến hay đấy - Blackburn tán thành. - Có nguồn tin khẳng định rằng một nhóm tù binh ở trại Sơn Tây thỉnh thoảng vẫn xuất hiện ở Ba Vì để làm việc gì đó. Nếu toán điệp viên được “lót ổ” trước phát hiện ra họ và điện cho trực thăng đến thì cuộc hành quân phải được thực hiện rất nhanh và nắm chắc phần thắng. Rồi những người được giải thoát sẽ nhanh chóng được đưa đến một căn cứ của chúng ta tại Thái Lan, để trở về trong vòng tay của gia đình họ… - Nhưng chắc gì toán điệp viên kia đến được Sơn Tây yên ổn. Rất có thể bọn họ sẽ bị lực lượng an ninh Việt Nam tóm cổ trước khi kịp hành động theo kế hoạch… Chúng ta đã từng trả giá đắt cho hành động này với những bài học cay đắng, chẳng nhẽ ngài quên rồi sao? Tuy Blackburn không nhắc lại nhưng Allen thừa hiểu ông ta muốn nói đến điều gì. Kể từ năm 1968, sau khi Tổng thống Johnson buộc phải tuyên bố đình chỉ các hoạt động của Không quân và Hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam, giới quân sự Mỹ đã không có quyền muốn làm gì thì làm như trước đó, kể cả việc phát động những cuộc hành quân đặc biệt hay đưa điệp viên xâm nhập. Thậm chí, công việc tiếp tế cho các toán điệp viên (CAS) đang hoạt động ở Bắc Việt Nam cũng bị Tổng thống Mỹ cấm. Có tới mấy chục điệp viên người Việt đã được tuyển dụng, huấn luyện kỹ càng trước khi tung ra miền Bắc hoạt động… đều bị người Mỹ bỏ rơi một cách nhẹ nhàng. Các toán CAS này đã sử dụng nhiều biện pháp liên lạc để cầu cứu các quan thầy một cách tuyệt vọng. Họ chỉ cầm cự được thêm một thời gian ngắn, rồi kẻ bị bắt, người ra đầu thú, một số rất ít tìm cách vượt biên trốn được sang vùng rừng núi phía bắc Lào… Và cũng kể từ đó, hầu như không có nguồn tin nào nhắc đến số phận bi thảm của họ nữa! - Tôi giả thiết rằng khi toán điệp viên của ta được phái đến Sơn Tây bị lực lượng an ninh Bắc Việt bắt - Blackburn nói tiếp - Thì chuyện giải thoát cho các tù binh sau đó sẽ càng khó khăn gấp bội. Còn việc đưa được đội đặc nhiệm bằng những chiếc trực thăng đến Sơn Tây cũng đâu phải dễ! Cứ cho rằng chúng sẽ bay thật thấp, luồn lách qua những thung lũng của dãy núi Ba Vì để tránh sự phát hiện của lực lượng phòng không Bắc Việt. Và yếu tố bí mật bất ngờ sẽ khiến cho quân Bắc Việt ở Sơn Tây không kịp phản ứng… Thì vẫn còn những tay súng bảo vệ trại giam. Họ sẽ chiến đấu với một tinh thần dũng cảm khó lường. Và thương vong của lực lượng đặc nhiệm Mỹ là không thể tránh khỏi, thậm chí có thể bị tiêu diệt gọn nếu lực lượng này ít và yếu. Vì thế, chúng ta phải có một lực lượng đủ mạnh, được tuyển chọn chu đáo, tập luyện kỹ càng, được trang bị đầy đủ và thiện chiến nhất! - Nếu vậy, việc giải thoát cho nhóm tù binh kia sẽ chậm và e rằng mất thời cơ? Thế tại sao chúng ta chỉ muốn giải thoát cho một nhóm mà không quan tâm đến cả trại, nếu điều kiện cho phép? - Blackburn trả lời tướng Allen bằng một câu hỏi. Sau đó ông ta bày lên bàn một loạt bức ảnh mà nhóm 1127 đã dày công chuẩn bị - Tôi cho rằng trại “Hy Vọng“ ở thị xã Sơn Tây ở một vị trí khá hẻo lánh và được coi như có nhiều sơ hở nhất. Chúng ta có thể tiến hành một trận tập kích bất ngờ vào trại Sơn Tây và bốc tất cả đi bằng trực thăng! Allen dường như đã bị những ý tưởng táo bạo của Blackburn chinh phục. Ông ta ngồi im lặng, hồi lâu mới buông một tiếng “OK”. Tuy nhiên, khó khăn đang chồng chất chờ đợi ở phía trước. Có rất nhiều vấn đề cần giải quyết, nhưng đều cực kỳ nan giải! Mà việc trước mắt là phải làm cho Lầu Năm Góc tin và ủng hộ cho kế hoạch của họ. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
Top