Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 8110" data-attributes="member: 7"><p>Một tối đầu tháng chín, tôi được nhà báo Xuân Ba (tác giả của thiên phóng sự nổi tiếng một thời “Hỏa Lò tò mò… ký“ in trên báo Tiền Phong) dẫn đến thăm nhà ông “Thổ công” của đất Hỏa Lò nhiều năm: Thượng tá Nguyễn Văn Hoắc, (nghe nói, ông Hoắc đã đeo lon thượng tá gần 6 năm nay!). Vị giám thị “xứng danh anh hùng” của Trại tạm giam Công an thành phố Hà Nội đang đợi chúng tôi, nhờ một cú “phôn” hẹn trước. Thật ra, cũng đã có vài lần tôi có dịp tiếp xúc làm việc với ông Hoắc, nhưng toàn là chỗ tập thể và đông người. Đây là lần đầu tiên tôi tìm đến “tư dinh” của Thượng tá Hoắc. Không hiểu sao, trong tưởng tượng của tôi, chắc chắn nó phải là một biệt thự rất oách nằm trên một đường phố lớn của thủ đô. Nhưng không, tôi đã nhầm và không ngờ trí tưởng tượng của mình lại kém đến thế! Anh Xuân Ba đã dẫn tôi đi vòng vèo bỏ qua hết các đường phố cổ của Hà Nội rồi… chui qua gầm cầu Long Biên và… leo lên bờ đê sông Hồng… Thì ra, nhà của ông Thượng tá giám thị ở mãi tận… “quân khu bãi sông”! Đã có hộ khẩu thường trú ở “ngoài đê” thì khiếp lắm! Các hộ dân ở đây, đến mùa mưa hàng năm cứ lo nhoi nhói. Mỗi khi đài báo có lũ về là đêm nằm thấp thỏm, ăn ngủ chẳng yên. Nhà ông Hoắc cũng vậy. Nơi gia đình ông định cư bây giờ, trước vốn là cái ao rau muống, lẫn với bèo tây và rác rưởi, bùn và nước tù đọng đen ngòm, sâu đến mấy mét; còn nếu xét về mặt ô nhiễm, mất vệ sinh thì phải cỡ… nhất nhì xóm bãi! Chật vật mãi, cuối cùng vợ chồng ông Hoắc cũng san lấp được cái vũng bùn ấy và dựng lên một ngôi nhà nhỏ ở tạm. Nghe bảo, có lần ông dẫn bạn thân về nhà mình chơi, nước lũ về trước lúc nào không biết đã dâng ngập hết lối vào, thế là họ đành phải kê ghế, ngồi chồm hỗm trên đống gạch ngoài cổng mà tiếp chuyện nhau… Đó là chuyện của mấy năm về trước. Rất mừng là sau đó vợ chồng ông Hoắc đã dồn sức tôn cao được cái nền nhà và xây lên tầng đàng hoàng, nên giờ đã có thể… “kê cao gối mà ngủ ngon” trong mùa mưa lũ.</p><p></p><p>Biết chúng tôi tìm đến nhà không ngoài chuyện về các tù binh phi công Mỹ. Thượng tá Hoắc nói ngay:</p><p></p><p>- Hồi ta giam giữ tù binh phi công Mỹ ở Hỏa Lò, tôi chưa về. Mãi tới năm chín mươi mới được trên điều động đến tiếp quản nơi đó, thì “khách sạn Hintơn Hà Nội” có còn vị khách nào đâu!</p><p></p><p>- Nhưng chính bác là người đã nhiều lần được tiếp các cựu tù binh phi công Mỹ đến thăm Hỏa Lò! - Xuân Ba khẳng định như đinh đóng cột.</p><p></p><p>Cũng có đón tiếp, nhưng đâu phải nhiều lần! - ông Hoắc cải chính ngay - họ ngó nghiêng bên ngoài chụp ảnh thì nhiều, còn chính thức thì chỉ có hai lần thôi. Lần đầu, là một đoàn phóng viên và làm phim đến quay phim tài liệu. Anh Xuân Ba là người được chứng kiến, đã kể hết chuyện ở trên báo rồi. Còn lần thứ hai, người đến thăm chúng tôi là ông Giôn Máckên. - Ông Giôn Máckên nào? Có phải là “cậu ấm” (có bố đẻ và ông nội đều là đô đốc trong quân đội Mỹ) đã bị bắn rơi xuống hồ Trúc Bạch năm xưa? - Thì chính là ông ấy chứ còn ai nữa? Nghe giới thiệu, bây giờ ông Giôn Máckên đã đeo lon Trung tướng và là Thượng nghị sĩ Mỹ. To lắm! Cấp trên báo trước cho chúng tôi là ông ấy có nguyện vọng được vào thăm lại căn phòng giam cũ. Khổ quá tra sổ mới biết căn phòng đó đã được bố trí làm phòng làm việc của anh em cán bộ quản lý trại. Cực chẳng đã, chúng tôi đành phải chiều theo ý muốn của ông ấy bằng cách cùng nhau… khiêng hết cả giường tủ bàn ghế ra ngoài, để ông Giôn Máckên vào thăm và xác nhận đúng là căn phòng mình đã ngồi “bốc lịch” năm xưa. Hẳn là ông ấy đã hài lòng lắm, nên lúc chia tay cứ luôn mồm “Thanh-kiu-ve-ry-mát” chúng tôi mãi. Khà khà khà… - ông Hoắc cất tiếng cười vang, thoải mái.</p><p></p><p>Nhiều người không hiểu, cứ bảo Thượng tá Hoắc khó tính, khó gần, thậm chí là rất… “hắc xì dầu”. Họ đồn đại sai hết! Ngược lại, ông Hoắc là người rất xởi lởi và hay chuyện. Một điều lạ nữa là ông rất mê thơ, thích bình thơ và còn… thuộc nhiều thơ tình. Phàm là những người có tính ấy, thường rất thiện tâm, chẳng thể làm điều ác cho ai bao giờ!</p><p></p><p>- Thế còn cái vụ phi công Mỹ cứu nhau ở Sơn Tây lúc nửa đêm… Bác có biết gì không? - Xuân Ba gợi chuyện tiếp.</p><p></p><p>- Hồi đó tôi còn đang là lính đặc công đánh nhau ở chiến trường, làm sao biết được. Tốt nhất là các anh cứ tới… Sơn Tây mà hỏi!</p><p></p><p>Thị xã Sơn Tây cách Hà Nội khoảng 40 km về phía tây. Người Mỹ sẽ không bao giờ để ý và quan tâm đến cái thị xã hiền lành xinh đẹp này nếu như nơi đây không có một trại giam nhỏ. Đó là trại giam Xã Tắc nằm trên địa phận của xóm Cầu Cộng, thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây. Khởi đầu, nơi đây vốn là trại cải tạo và giam giữ thường phạm của Ty Công an Sơn Tây. Trại được xây dựng hết sức đơn giản, chỉ có mấy dãy nhà cấp bốn, lợp ngói đỏ, xung quanh có bức tường rào cao khoảng 3 mét bao bọc. Nằm giữa cánh đồng lúa, có đê điều bao quanh, mùa mưa Xã Tắc luôn bị đe dọa vì nước dâng lên sẽ ngập lụt. Hồi đó, nơi đây còn rất vắng vẻ, hầu như chưa có hộ dân nào ở. Từ thị xã Sơn Tây muốn vào Xã Tắc phải qua một chiếc cầu nhỏ bắc qua sông Tích. Đó là con đường độc đạo, khá hiểm yếu xét về mặt bố phòng quân sự. </p><p></p><p>Năm 1965, sau khi tái lập tỉnh mới, trại giam Xã Tắc do Công an Hà Tây quản lý. Một thời gian sau, trại này được giao cho Quân đội mượn và nó được sử dụng làm một nhiệm vụ rất đặc biệt: trông coi vài chục tù binh phi công Mỹ. Công việc này được giữ gìn hết sức bí mật. Đến mức, người dân xung quanh Xã Tắc và ở thị xã Sơn Tây hồi đó chỉ được thông báo đây là một cái “kho chứa hàng quân sự” quan trọng, được bộ đội ta canh giữ đêm ngày hết sức cẩn mật. Người ta thường đồn đại và đoán già đoán non rằng: trong Xã Tắc đang cất giữ một số “hàng ngoại” rất có giá trị. Nguyên tắc bảo vệ nơi đây được thực hiện nghiêm ngặt theo kiểu “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Đêm đêm, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy những chiếc xe ôtô quân sự được che đậy kín mít, lặng lẽ ra vào “kho” để giao nhận “hàng”.</p><p></p><p>Bây giờ thì cái “kho hàng quân sự” ấy và cả số “hàng ngoại” kia cũng không còn gì phải bí mật nữa. Mấy trăm tù binh phi công đã được Chính phủ Việt Nam trao trả hết cho phía Mỹ sau Hiệp định Paris năm 1973. Họ bị bắn rơi và bị ta bắt như thế nào? Họ được giam giữ ở những đâu? … Hẳn những cựu tù binh này chưa ai quên, những buồn vui, kỷ niệm không phai mờ khiến nhiều người trong số họ khi về nước đã kể chuyện, đã viết hồi ký, đã làm phim… Và những tù binh phi công Mỹ đã từng ở trại giam Sơn Tây năm 1970 cũng thế. Nhờ vậy người viết bài này đã có thêm rất nhiều tư liệu để hầu chuyện bạn đọc yêu quý.</p><p></p><p><strong>TÙ BINH PHI CÔNG MỸ ĐÃ BÁO VỀ LẦU NĂM GÓC NƠI GIAM GIỮ Ở SƠN TÂY BẰNG CÁCH NÀO?</strong></p><p></p><p>Cuối tháng 12-1968, thiếu tá không quân Elmo Baker cùng 11 tù binh phi công khác được di chuyển từ khách sạn “Vỡ tim“ đến một trại giam mới, trong một đêm tối trời. Cùng một chuyến xe ấy có cả đại úy Carrigan.</p><p></p><p>Thật khó đoán được họ đã đi xa bao nhiêu cây số, vì con đường toàn ổ voi, ổ gà xấu khủng khiếp. Ngược chiều với xe chở tù binh, thỉnh thoảng họ lại gặp một vài chiếc xe quân sự kéo pháo cao xạ, và có cả xe kéo tên lửa SAM đi về hướng thành phố…</p><p></p><p>Khi đã nằm im trong căn buồng giam vắng lặng, Baker đã nghĩ ra cách đánh moócxơ gõ vào tường để liên lạc với những tù binh ở phòng bên cạnh. Baker thông báo với những người bạn xung quanh rằng anh ta bị bắn rơi trong chuyến bay thứ 61, khi cùng phi đội đi ném bom Bắc Giang - một thị xã nhỏ cách Hà Nội khoảng 50 km. Baker tự giới thiệu mình năm nay 35 tuổi, quê ở bang Kennet, đã đỗ tiến sĩ về điện và là một cử nhân văn chương. Anh ta đã may mắn thoát ra khỏi chiếc “Thần sấm” F-105 khi nó bốc cháy và sắp nổ tung. Nhưng khi chiếc dù vừa giúp Baker tiếp đất thì bị bắt ngay… Anh ta bị thương rất nặng và đã được các bác sĩ Việt Nam cứu chữa ở Bệnh viện Bạch Mai suốt 30 ngày liền. Baker cũng không quên thông báo rằng trước khi được đưa đến đây, anh ta đã có thâm niên hai mươi bảy tháng nằm bốc lịch trong trại tù binh của Quân đội nhân dân Việt Nam…</p><p></p><p>Ở một buồng giam bên cạnh, một người bạn tù cũng đã dùng cách gõ moócxơ vào tường tự giới thiệu với Baker: “Tôi là thiếu tá không quân Irby Terrell, bị bắn rơi từ tháng 1-1968”. Baker mừng quá, hỏi luôn: “Đây là đâu?”. Phòng bên kia cho biết: “Đây là trại giam Hy Vọng, thị xã Sơn Tây” . “Tại sao lại gọi là trại Hy Vọng?”. “Đó là cái tên do những tù binh ở đây tự đặt trong ngày lễ Tạ ơn chúa năm 1968”. Lại hỏi tiếp: “Ở đây có đông tù binh không?”. Trả lời: “Khoảng vài chục người”…</p><p></p><p>Bằng cách gõ vào tường như thế, dù có hơi chậm một chút nhưng Baker đã trao đổi được khá nhiều thông tin cần thiết với những người bạn tù xung quanh. Cuộc trò chuyện của họ chỉ chấm dứt khi có cán bộ của trại tù binh đi kiểm tra bên ngoài và thay gác…</p><p></p><p>Buổi sáng hôm sau, Baker rất ngạc nhiên khi anh ta được tự do ra sân làm vệ sinh, tắm giặt. Thì ra các tù binh ở đây vẫn có điều kiện tiếp xúc với nhau. Ban ngày, họ thường được giao cho làm những việc lặt vặt ngoài sân trại như đập gạch, đào rãnh, chuyển vật liệu xây dựng… Chiều tối, họ được tự do đánh bóng chuyền, bóng rổ và chơi thể thao trong sân trại. Không khí ở đây có vẻ thoáng đãng, dễ thở hơn khách sạn “Vỡ tim“ Hà Nội nhiều. Chí ít là những tù binh mới đến đều có cảm nhận như thế!</p><p></p><p>Số tù binh phi công Mỹ được đưa Về Sơn Tây ngày càng nhiều hơn. Trại “Hy Vọng“ đang được nới rộng ra bằng cách xây thêm một số bức tường chắn bao quanh, khu nhà bếp, nhà ăn và bể nước để tắm giặt. Và các tù binh cũng được tham gia xây dựng, góp phần tạo nên những ngôi nhà cho chính mình.</p><p></p><p>Baker cùng một số người khác được giao cho mỗi người một ống sắt nhỏ để đập gạch vỡ, phục vụ cho việc xây dựng. Từ những âm thanh bắt buộc, buồn tẻ và đơn điệu, Baker đã nảy ra sáng kiến lợi dụng việc đập gạch để biến nó thành tiếng moócxơ thông báo tin tức và trò chuyện với những tù binh khác. Ví dụ, anh ta thông báo việc một nhóm tù binh 20 người mới được chuyển từ khách sạn “Vỡ tim“ Hà Nội đến đêm qua. Baker cũng không quên báo cho các tù binh khác biết rằng: cách thông tin với nhau bằng tín hiệu moócxơ rất hay, vì những người bộ đội bảo vệ trại giam hoàn toàn không để ý đến, hoặc không biết!</p><p></p><p>Công việc lao động của các tù binh phi công Mỹ ở trại “Hy Vọng“ tuy không có gì vất vả, nhưng cũng chẳng lấy gì làm thú vị, nhất là đối với những người hùng chỉ quen lướt mây cưỡi gió trên trời cao. </p><p></p><p>Lại một mùa đông nữa đến với trại “Hy Vọng“ ở Sơn Tây. Trời cứ mưa rét dai dẳng, khiến cho không khí ẩm ướt rất khó chịu. Nước sông Tích vẫn còn dâng cao sát tường rào của trại, cơ hồ như sắp lụt đến nơi. Với các tù binh phi công, mùa đông nơi đây thật khắc nghiệt và gay gắt. Chiến tranh đã tàn phá đất nước Việt Nam mấy chục năm, nên đời sống của bộ đội và nhân dân ta cũng còn bao khó khăn cơ cực. Mặc chưa đủ ấm, ăn chưa đủ no; bữa cơm thường nhật của các gia đình đều phải dùng thức độn nhiều hơn gạo; nhưng vẫn cùng nhau thắt lưng buộc bụng và gồng mình, dồn sức cho chiến trường đánh giặc…</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 8110, member: 7"] Một tối đầu tháng chín, tôi được nhà báo Xuân Ba (tác giả của thiên phóng sự nổi tiếng một thời “Hỏa Lò tò mò… ký“ in trên báo Tiền Phong) dẫn đến thăm nhà ông “Thổ công” của đất Hỏa Lò nhiều năm: Thượng tá Nguyễn Văn Hoắc, (nghe nói, ông Hoắc đã đeo lon thượng tá gần 6 năm nay!). Vị giám thị “xứng danh anh hùng” của Trại tạm giam Công an thành phố Hà Nội đang đợi chúng tôi, nhờ một cú “phôn” hẹn trước. Thật ra, cũng đã có vài lần tôi có dịp tiếp xúc làm việc với ông Hoắc, nhưng toàn là chỗ tập thể và đông người. Đây là lần đầu tiên tôi tìm đến “tư dinh” của Thượng tá Hoắc. Không hiểu sao, trong tưởng tượng của tôi, chắc chắn nó phải là một biệt thự rất oách nằm trên một đường phố lớn của thủ đô. Nhưng không, tôi đã nhầm và không ngờ trí tưởng tượng của mình lại kém đến thế! Anh Xuân Ba đã dẫn tôi đi vòng vèo bỏ qua hết các đường phố cổ của Hà Nội rồi… chui qua gầm cầu Long Biên và… leo lên bờ đê sông Hồng… Thì ra, nhà của ông Thượng tá giám thị ở mãi tận… “quân khu bãi sông”! Đã có hộ khẩu thường trú ở “ngoài đê” thì khiếp lắm! Các hộ dân ở đây, đến mùa mưa hàng năm cứ lo nhoi nhói. Mỗi khi đài báo có lũ về là đêm nằm thấp thỏm, ăn ngủ chẳng yên. Nhà ông Hoắc cũng vậy. Nơi gia đình ông định cư bây giờ, trước vốn là cái ao rau muống, lẫn với bèo tây và rác rưởi, bùn và nước tù đọng đen ngòm, sâu đến mấy mét; còn nếu xét về mặt ô nhiễm, mất vệ sinh thì phải cỡ… nhất nhì xóm bãi! Chật vật mãi, cuối cùng vợ chồng ông Hoắc cũng san lấp được cái vũng bùn ấy và dựng lên một ngôi nhà nhỏ ở tạm. Nghe bảo, có lần ông dẫn bạn thân về nhà mình chơi, nước lũ về trước lúc nào không biết đã dâng ngập hết lối vào, thế là họ đành phải kê ghế, ngồi chồm hỗm trên đống gạch ngoài cổng mà tiếp chuyện nhau… Đó là chuyện của mấy năm về trước. Rất mừng là sau đó vợ chồng ông Hoắc đã dồn sức tôn cao được cái nền nhà và xây lên tầng đàng hoàng, nên giờ đã có thể… “kê cao gối mà ngủ ngon” trong mùa mưa lũ. Biết chúng tôi tìm đến nhà không ngoài chuyện về các tù binh phi công Mỹ. Thượng tá Hoắc nói ngay: - Hồi ta giam giữ tù binh phi công Mỹ ở Hỏa Lò, tôi chưa về. Mãi tới năm chín mươi mới được trên điều động đến tiếp quản nơi đó, thì “khách sạn Hintơn Hà Nội” có còn vị khách nào đâu! - Nhưng chính bác là người đã nhiều lần được tiếp các cựu tù binh phi công Mỹ đến thăm Hỏa Lò! - Xuân Ba khẳng định như đinh đóng cột. Cũng có đón tiếp, nhưng đâu phải nhiều lần! - ông Hoắc cải chính ngay - họ ngó nghiêng bên ngoài chụp ảnh thì nhiều, còn chính thức thì chỉ có hai lần thôi. Lần đầu, là một đoàn phóng viên và làm phim đến quay phim tài liệu. Anh Xuân Ba là người được chứng kiến, đã kể hết chuyện ở trên báo rồi. Còn lần thứ hai, người đến thăm chúng tôi là ông Giôn Máckên. - Ông Giôn Máckên nào? Có phải là “cậu ấm” (có bố đẻ và ông nội đều là đô đốc trong quân đội Mỹ) đã bị bắn rơi xuống hồ Trúc Bạch năm xưa? - Thì chính là ông ấy chứ còn ai nữa? Nghe giới thiệu, bây giờ ông Giôn Máckên đã đeo lon Trung tướng và là Thượng nghị sĩ Mỹ. To lắm! Cấp trên báo trước cho chúng tôi là ông ấy có nguyện vọng được vào thăm lại căn phòng giam cũ. Khổ quá tra sổ mới biết căn phòng đó đã được bố trí làm phòng làm việc của anh em cán bộ quản lý trại. Cực chẳng đã, chúng tôi đành phải chiều theo ý muốn của ông ấy bằng cách cùng nhau… khiêng hết cả giường tủ bàn ghế ra ngoài, để ông Giôn Máckên vào thăm và xác nhận đúng là căn phòng mình đã ngồi “bốc lịch” năm xưa. Hẳn là ông ấy đã hài lòng lắm, nên lúc chia tay cứ luôn mồm “Thanh-kiu-ve-ry-mát” chúng tôi mãi. Khà khà khà… - ông Hoắc cất tiếng cười vang, thoải mái. Nhiều người không hiểu, cứ bảo Thượng tá Hoắc khó tính, khó gần, thậm chí là rất… “hắc xì dầu”. Họ đồn đại sai hết! Ngược lại, ông Hoắc là người rất xởi lởi và hay chuyện. Một điều lạ nữa là ông rất mê thơ, thích bình thơ và còn… thuộc nhiều thơ tình. Phàm là những người có tính ấy, thường rất thiện tâm, chẳng thể làm điều ác cho ai bao giờ! - Thế còn cái vụ phi công Mỹ cứu nhau ở Sơn Tây lúc nửa đêm… Bác có biết gì không? - Xuân Ba gợi chuyện tiếp. - Hồi đó tôi còn đang là lính đặc công đánh nhau ở chiến trường, làm sao biết được. Tốt nhất là các anh cứ tới… Sơn Tây mà hỏi! Thị xã Sơn Tây cách Hà Nội khoảng 40 km về phía tây. Người Mỹ sẽ không bao giờ để ý và quan tâm đến cái thị xã hiền lành xinh đẹp này nếu như nơi đây không có một trại giam nhỏ. Đó là trại giam Xã Tắc nằm trên địa phận của xóm Cầu Cộng, thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây. Khởi đầu, nơi đây vốn là trại cải tạo và giam giữ thường phạm của Ty Công an Sơn Tây. Trại được xây dựng hết sức đơn giản, chỉ có mấy dãy nhà cấp bốn, lợp ngói đỏ, xung quanh có bức tường rào cao khoảng 3 mét bao bọc. Nằm giữa cánh đồng lúa, có đê điều bao quanh, mùa mưa Xã Tắc luôn bị đe dọa vì nước dâng lên sẽ ngập lụt. Hồi đó, nơi đây còn rất vắng vẻ, hầu như chưa có hộ dân nào ở. Từ thị xã Sơn Tây muốn vào Xã Tắc phải qua một chiếc cầu nhỏ bắc qua sông Tích. Đó là con đường độc đạo, khá hiểm yếu xét về mặt bố phòng quân sự. Năm 1965, sau khi tái lập tỉnh mới, trại giam Xã Tắc do Công an Hà Tây quản lý. Một thời gian sau, trại này được giao cho Quân đội mượn và nó được sử dụng làm một nhiệm vụ rất đặc biệt: trông coi vài chục tù binh phi công Mỹ. Công việc này được giữ gìn hết sức bí mật. Đến mức, người dân xung quanh Xã Tắc và ở thị xã Sơn Tây hồi đó chỉ được thông báo đây là một cái “kho chứa hàng quân sự” quan trọng, được bộ đội ta canh giữ đêm ngày hết sức cẩn mật. Người ta thường đồn đại và đoán già đoán non rằng: trong Xã Tắc đang cất giữ một số “hàng ngoại” rất có giá trị. Nguyên tắc bảo vệ nơi đây được thực hiện nghiêm ngặt theo kiểu “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Đêm đêm, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy những chiếc xe ôtô quân sự được che đậy kín mít, lặng lẽ ra vào “kho” để giao nhận “hàng”. Bây giờ thì cái “kho hàng quân sự” ấy và cả số “hàng ngoại” kia cũng không còn gì phải bí mật nữa. Mấy trăm tù binh phi công đã được Chính phủ Việt Nam trao trả hết cho phía Mỹ sau Hiệp định Paris năm 1973. Họ bị bắn rơi và bị ta bắt như thế nào? Họ được giam giữ ở những đâu? … Hẳn những cựu tù binh này chưa ai quên, những buồn vui, kỷ niệm không phai mờ khiến nhiều người trong số họ khi về nước đã kể chuyện, đã viết hồi ký, đã làm phim… Và những tù binh phi công Mỹ đã từng ở trại giam Sơn Tây năm 1970 cũng thế. Nhờ vậy người viết bài này đã có thêm rất nhiều tư liệu để hầu chuyện bạn đọc yêu quý. [B]TÙ BINH PHI CÔNG MỸ ĐÃ BÁO VỀ LẦU NĂM GÓC NƠI GIAM GIỮ Ở SƠN TÂY BẰNG CÁCH NÀO?[/B] Cuối tháng 12-1968, thiếu tá không quân Elmo Baker cùng 11 tù binh phi công khác được di chuyển từ khách sạn “Vỡ tim“ đến một trại giam mới, trong một đêm tối trời. Cùng một chuyến xe ấy có cả đại úy Carrigan. Thật khó đoán được họ đã đi xa bao nhiêu cây số, vì con đường toàn ổ voi, ổ gà xấu khủng khiếp. Ngược chiều với xe chở tù binh, thỉnh thoảng họ lại gặp một vài chiếc xe quân sự kéo pháo cao xạ, và có cả xe kéo tên lửa SAM đi về hướng thành phố… Khi đã nằm im trong căn buồng giam vắng lặng, Baker đã nghĩ ra cách đánh moócxơ gõ vào tường để liên lạc với những tù binh ở phòng bên cạnh. Baker thông báo với những người bạn xung quanh rằng anh ta bị bắn rơi trong chuyến bay thứ 61, khi cùng phi đội đi ném bom Bắc Giang - một thị xã nhỏ cách Hà Nội khoảng 50 km. Baker tự giới thiệu mình năm nay 35 tuổi, quê ở bang Kennet, đã đỗ tiến sĩ về điện và là một cử nhân văn chương. Anh ta đã may mắn thoát ra khỏi chiếc “Thần sấm” F-105 khi nó bốc cháy và sắp nổ tung. Nhưng khi chiếc dù vừa giúp Baker tiếp đất thì bị bắt ngay… Anh ta bị thương rất nặng và đã được các bác sĩ Việt Nam cứu chữa ở Bệnh viện Bạch Mai suốt 30 ngày liền. Baker cũng không quên thông báo rằng trước khi được đưa đến đây, anh ta đã có thâm niên hai mươi bảy tháng nằm bốc lịch trong trại tù binh của Quân đội nhân dân Việt Nam… Ở một buồng giam bên cạnh, một người bạn tù cũng đã dùng cách gõ moócxơ vào tường tự giới thiệu với Baker: “Tôi là thiếu tá không quân Irby Terrell, bị bắn rơi từ tháng 1-1968”. Baker mừng quá, hỏi luôn: “Đây là đâu?”. Phòng bên kia cho biết: “Đây là trại giam Hy Vọng, thị xã Sơn Tây” . “Tại sao lại gọi là trại Hy Vọng?”. “Đó là cái tên do những tù binh ở đây tự đặt trong ngày lễ Tạ ơn chúa năm 1968”. Lại hỏi tiếp: “Ở đây có đông tù binh không?”. Trả lời: “Khoảng vài chục người”… Bằng cách gõ vào tường như thế, dù có hơi chậm một chút nhưng Baker đã trao đổi được khá nhiều thông tin cần thiết với những người bạn tù xung quanh. Cuộc trò chuyện của họ chỉ chấm dứt khi có cán bộ của trại tù binh đi kiểm tra bên ngoài và thay gác… Buổi sáng hôm sau, Baker rất ngạc nhiên khi anh ta được tự do ra sân làm vệ sinh, tắm giặt. Thì ra các tù binh ở đây vẫn có điều kiện tiếp xúc với nhau. Ban ngày, họ thường được giao cho làm những việc lặt vặt ngoài sân trại như đập gạch, đào rãnh, chuyển vật liệu xây dựng… Chiều tối, họ được tự do đánh bóng chuyền, bóng rổ và chơi thể thao trong sân trại. Không khí ở đây có vẻ thoáng đãng, dễ thở hơn khách sạn “Vỡ tim“ Hà Nội nhiều. Chí ít là những tù binh mới đến đều có cảm nhận như thế! Số tù binh phi công Mỹ được đưa Về Sơn Tây ngày càng nhiều hơn. Trại “Hy Vọng“ đang được nới rộng ra bằng cách xây thêm một số bức tường chắn bao quanh, khu nhà bếp, nhà ăn và bể nước để tắm giặt. Và các tù binh cũng được tham gia xây dựng, góp phần tạo nên những ngôi nhà cho chính mình. Baker cùng một số người khác được giao cho mỗi người một ống sắt nhỏ để đập gạch vỡ, phục vụ cho việc xây dựng. Từ những âm thanh bắt buộc, buồn tẻ và đơn điệu, Baker đã nảy ra sáng kiến lợi dụng việc đập gạch để biến nó thành tiếng moócxơ thông báo tin tức và trò chuyện với những tù binh khác. Ví dụ, anh ta thông báo việc một nhóm tù binh 20 người mới được chuyển từ khách sạn “Vỡ tim“ Hà Nội đến đêm qua. Baker cũng không quên báo cho các tù binh khác biết rằng: cách thông tin với nhau bằng tín hiệu moócxơ rất hay, vì những người bộ đội bảo vệ trại giam hoàn toàn không để ý đến, hoặc không biết! Công việc lao động của các tù binh phi công Mỹ ở trại “Hy Vọng“ tuy không có gì vất vả, nhưng cũng chẳng lấy gì làm thú vị, nhất là đối với những người hùng chỉ quen lướt mây cưỡi gió trên trời cao. Lại một mùa đông nữa đến với trại “Hy Vọng“ ở Sơn Tây. Trời cứ mưa rét dai dẳng, khiến cho không khí ẩm ướt rất khó chịu. Nước sông Tích vẫn còn dâng cao sát tường rào của trại, cơ hồ như sắp lụt đến nơi. Với các tù binh phi công, mùa đông nơi đây thật khắc nghiệt và gay gắt. Chiến tranh đã tàn phá đất nước Việt Nam mấy chục năm, nên đời sống của bộ đội và nhân dân ta cũng còn bao khó khăn cơ cực. Mặc chưa đủ ấm, ăn chưa đủ no; bữa cơm thường nhật của các gia đình đều phải dùng thức độn nhiều hơn gạo; nhưng vẫn cùng nhau thắt lưng buộc bụng và gồng mình, dồn sức cho chiến trường đánh giặc… [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Sự Thật Về Vụ Tập Kích Cứu Phi Công Mỹ Tại Sơn Tây
Top