Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Tây
Sự ra đời của triết học cận đại
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="uocmo_kchodoi" data-source="post: 178315" data-attributes="member: 165510"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: #ff0000">NGUỒN GỐC CỦA TRIẾT HỌC CẬN DẠI</span></strong></p><p></p><p style="text-align: center"><span style="color: #5900b3"><strong> Phần 4:</strong> <strong>Những trào lưu chính của triết học hiện đại</strong></span></p><p><strong></strong></p><p><strong>A. CÁC TRƯỜNG PHÁI</strong></p><p></p><p>Thời kỳ triết học hiện đại mà chúng ta bàn ở đây khởi sự từ thế chiến I đến ngày nay đã chứng kiến sự ra đời của hai trường phái mới. Một là <em>Tân thực chứng</em> (néo-positivisme): đó là một bành trướng khác của lập trường chủ thực chứng. Và một nữa là triết học về hiện hữu (Philosophie de l’existence): đó là một cái gì hoàn toàn mới mặc dù trên quan điểm thời gian nó đã có trong sự lưu hành của triết học nhân sinh và chứa đựng cả hai yếu tố hiện tượng học và siêu hình học. Tất cả những trường phái đã có mặt bây giờ đều có những tư tưởng gia ngoại hạng của chúng, họ phát triển các chủ đề căn bản của mình bằng kiểu cách đại quy mô. Điều này đúng cho siêu hình học nói riêng; nó có thể tự hào về những tên tuổi như Alexander, Whitehead, Hartmann và thêm những nhà chủ-Thomas. Hiện tượng học cũng không kém, do Scheler. Và <em>Triết học về nhân sinh </em>cũng thế, kể cả giai đoạn cuối của Bergson và toàn thể tư tưởng của Klages; đó là chỉ kể hai nhân vật.</p><p></p><p>Những hệ thống quan trọng nhất của thời đại chúng ta có thể được chia làm hai lối, về nội dung và về phương pháp. Về nội dung học thuyết, ta có thể sắp chúng trong sáu nhóm. Chúng ta có hai nhóm đầu, vẫn tiếp tục trong tinh thần thế kỷ XIX: duy nghiệm hay triết học về vật chất, là tiếp nối thực chứng luận, và duy tâm luận, cả hai mang những hình thức Kant và Hegel. Tiếp đến hai lập trường gây sự đoạn tuyệt với thế kỷ này: triết học về nhân sinh và triết học về yếu tính hay hiện tượng học. Sau hết, có hai nhóm tạo nên sự đóng góp độc đáo nhất của thời đại chúng ta: triết học hiện sinh về siêu hình học, về thể tính kiểu mới.</p><p></p><p>Sự phân loại này dĩ nhiên hơi độc đoán. Những sai biệt sâu xa giữa các nền triết học cùng chung dưới một đầu đề là điều không thể quên được. Như thế, chúng ta đã áp dụng sự phân loại chung “triết học về vật chất” cho những học thuyết rất là khác nhau như của Russell, những nhà tân thực chứng, và ngay cả chủ-Marx. Cũng vậy, chương triết học về nhân sinh đã phải kể đến những tư tưởng gia rất đa biệt như Dewey và Klages. Sau hết, ta cần phải nhấn mạnh rằng những tư tưởng gia biệt lập đứng ngoài các nhóm này và làm trung gian cho chúng – tỉ dụ, các đại biểu của trường phái Baden, có những điểm tiếp xúc với cả chủ lịch sử (historicisme) thuộc nhóm triết học về nhân sinh, và cả hiện tượng học của Scheler tự nó vốn gần với chủ nghĩa hiện sinh (existentialisme). Mọi sự phân loại trong lịch sử tư tưởng triết học đều là một nhu cầu không thể tránh để có một cái nhìn khá bao quát. Ta không nên cố che đậy những dị biệt sâu xa giữa mỗi nhóm cũng như điểm trùng hợp của chúng. Tuy nhiên, với sự thận trọng này, chúng tôi có thể tuyên bố rằng sự phân chia thành sáu nhóm của chúng tôi đã nêu rõ sáu lập trường chính của thời đại chúng ta: duy nghiệm, duy tâm, triết học nhân sinh, hiện tượng học, chủ hiện sinh và siêu hình học.</p><p></p><p>Tự nó, sự phân loại các trường phái theo <em>phương pháp</em> không hẳn là tuyệt đối. Tuy vậy, đó hình như là một phương cách được nhiều người thừa nhận hơn, như người ta đã thấy rõ ở kỳ Hội nghị quốc tế về triết học lần thứ X vào năm 1948. Vì rằng, trong cùng một trường phái triết học sự phân rẽ thường khởi lên do áp dụng những phương pháp khác nhau, như là một đằng là phân tích theo luận lý toán học (analyse mathématicologique), và đằng khác là phương sách hiện tượng học. Trong khi có nhiều triết gia không đồng ý với nhau là áp dụng cả hai phương pháp này hay không cả hai, thì ngày nay vẫn còn nhiều người hình như chia rẽ nhau theo các đường lối này. Phương pháp hiện tượng học, đã tiến bộ và có biến chuyển theo thời gian, được ứng dụng không những chỉ bởi các nhà hiện tượng học mà gần như cả những triết gia hiện sinh và cả một số những nhà siêu hình học. Các siêu hình học gia khác đã cùng liên kết với những thủ lĩnh của luận lý toán học, đáng kể nhất là Whitehead. Điều đáng chú ý là luận lý toán học đã có thể dẫn các thủ lĩnh của những trường phái đa biệt nhất và rất trái ngược đến chỗ hiểu biết lẫn nhau: chủ-Platon, chủ-Aristote, chủ duy danh, chủ Kant, và kể cả một số ít chủ thực dụng (pragmatisme), trong khi sự tách biệt giữa những người theo phương pháp này và những người hoạt động với những phương pháp hiện tượng học hình như thường rộng lớn đến nỗi không thể có sự hiểu biết chung nào nữa.</p><p></p><p><strong>B. CÁC ẢNH HƯỞNG</strong></p><p></p><p>Chúng ta đã nghiên cứu (1-3) những nguồn gốc của triết học hiện đại. Trước khi đi vào chi tiết, chúng ta chỉ cần thêm một vài nét.</p><p></p><p>Trước hết cần ghi nhận rằng những hoàn cảnh lịch sử mang lại sự đoạn tuyệt với tư tưởng của thế kỷ trước vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng trong thời đại này. Cũng vậy, vật lý học tiếp tục phát triển đồng thời xa dần nền tảng chủ cơ giới thuở xưa của nó. Ảo tưởng về sự tiến bộ bằng kỹ thuật (vẫn đang ngự trị ở Mỹ và Nga) đã chịu đựng những đảo lộn mới ở Âu châu. Quần chúng cũng như các triết gia lúc này có vẻ vừa được cứu chữa, với một giá rất đắt. Chúng chỉ phân biệt rõ những biến cố đã đưa đến những đau đớn khủng khiếp ấy, tất sẽ thấy rõ đặt mối quan tâm của con người trên những vấn đề cấp thiết như thế vị con người, mục đích và số phận con người, sự ưu tư, sự chết và những giao tế của nó với đồng loại. Một cuộc tái sinh của tôn giáo hình như đang hoạt động ráo riết. Sau hết, một thứ bất nhất, và bất định bao trùm đang bám chặt mọi người, những người cảm nhận thâm thiết tình cảnh khủng hoảng ngấm ngầm này và hơn bao giờ hết sẵn sàng quay về triết học với hy vọng rằng nó sẽ mang lại cho họ một giải đáp với những vấn đề đang thao thức về cuộc sống bi thảm của mình. Tất cả những điều đó cắt nghĩa tại sao chủ nghĩa hiện sinh đặt điều được nền tảng nhanh chóng như thế, tại sao siêu hình học trở thành một thế lực như thế. Nó cũng cắt nghĩa cái cao độ của sinh hoạt triết lý đương thời.</p><p></p><p>Những ảnh hưởng từ các tư tưởng gia thuở xưa đang gây thế lực trên những nền triết học này. Theo Bertrand Russell, người được kể vào số các triết gia về vật chất, những hậu duệ của thế kỷ XIX, thì ảnh hưởng của Thomas Aquinas bây giờ lớn hơn cả Kant và Hegel. Điều đó có lẽ đúng cho tất cả các triết gia trong thời đại chúng ta. Khi triết học đi lên những mức độ cao hơn, nó lên theo hình xoắn ốc. Ngày nay, nó gần với tư tưởng Hy Lạp và Kinh viện hơn với bất cứ tư tưởng nào của trăm năm qua, tùy theo những vấn đề căn bản của nó: Platon tái sinh ở Whitehead; Aristote ở Driesch, Hartmann và các nhà chủ Thomas; Plotin trong một vài nhà chủ hiện sinh; Thomas d’Aquin ở trường phái mang tên ông; các nhà chủ kinh viện thời sau ở hiện tượng học và tân thực chứng; Leibniz ở Russell.</p><p></p><p>Tuy nhiên, khi câu hỏi nêu lên xem ai là người đang gây ảnh hưởng mạnh nhất trên triết học hiện đại, thì chúng ta không ngần ngại nêu tên hai người thuộc thời đại này; đó là, như đã nói, Bergson và Husserl. Dĩ nhiên họ không phải là độc nhất nhưng triết học nhân sinh và hiện tượng học đang giữ những vai trò quyết định mọi nơi, không một trường phái nào có thế lực đặc biệt đối mặt với chúng.</p><p></p><p>Vắn tắt, những gì mà một quan sát viên theo dõi có thể thấy được kể từ 1900 trở lại bấy giờ đã thể hiện đầy đủ, triết học thế kỷ XIX nhường chỗ cho một khái niệm mới về thực tại khởi lên từ đầu thế kỷ XX và càng giống với tư tưởng của những thời quá khứ hơn mà không thể quay lùi lại.</p><p></p><p>C. TẦM QUAN TRỌNG TƯƠNG ĐỐI CỦA CÁC HỆ THỐNG</p><p></p><p>Để đánh giá tầm quan trọng của các trường phái và các hệ thống ta cần phải nhận xét hai quan điểm hoàn toàn khác nhau. Trên đại thể, những hệ thống nào có ảnh hưởng lớn nhất trong đa số quần chúng thì không ảnh hưởng đến các triết gia trong cùng mức độ như vậy, và điều này có hai lý do. Một đằng quần chúng thì chậm hiểu; như vậy một triết học đã nảy nở năm mươi năm hay trăm năm vì trước những trung tâm chuyên biệt bấy giờ mới có cơ hội thuận tiện để trở thành phổ biến bất kể đến tầm quan trọng nào mà chính các triết gia ấy ràng buộc với nó. Đằng khác, khác với các triết gia, quần chúng dễ bị lôi cuốn hơn bởi những quyến rũ nào gần cả hai mặt vừa giản dị và vừa quảng bá. Một nền triết học mà càng có cơ hội thuận tiện bành trướng thì nó càng hạ thấp xuống và càng được các phong trào trang bị bằng những bộ máy tuyên truyền hữu hiệu ủng hộ thêm, do đó, thông thường các triết gia ít bị những yếu tố như thế tác động.</p><p></p><p>Sự tổng quan của chúng ta chỉ bàn đến triết học theo nghĩa hẹp của chữ này, chứ không bàn theo nhận thức phổ thông. Tuy nhiên, ta cũng nên đặt câu hỏi là ngày nay phổ thông nhất là thứ triết học nào, thì ta có thể nêu lên một tiêu đề cho cả hai nền triết học riêng biệt. Thứ nhất <em>triết học về vật chất</em>, thứ giản dị nhất, không cần phải là triết gia mới dễ hiểu; thêm nữa, sự phiên chuyển sang chủ-Marxist của nó đang được tuyên truyền với tất cả thế lực của Đảng Cộng sản khắp thế giới cũng như qua sự bảo trì của một số thức giả - các “tài tử” của triết học giống như quần chúng, đã khuất phục trước sự cám dỗ của một học thuyết được đơn giản. Thứ hai, quảng đại quần chúng nhất là <em>triết học về hiện hữu</em>, đặc biệt trong những nước ảnh hưởng văn hóa Latin.</p><p></p><p>Trước tiên, điều ấy hình như lạ lùng, bởi vì triết học về hiện hữu là một học thuyết hoàn toàn tân kỳ và, thêm nữa một thứ triết học tế nhị rất có kỹ thuật. Những điều lạ lùng này sẽ được giải thích ngay nếu chúng ta chú ý tới hình thức giản dị và dễ hiểu mà người ta khoác lên cho nó để giới thiệu với quần chúng: bằng văn chương kịch nghệ, và những sáng tác bình dân. Không triết gia nào trừ những triết gia hiện sinh ưa dùng kiểu tuyên truyền này. Lại nữa, khía cạnh ngoại lý và triệt để chủ quan của triết học về hiện hữu thường hấp dẫn những người phi triết học. Chủ quan luận đã là một học thuyết quen thuộc của những thế kỷ qua, và chủ ngoại lý đã được một vài phong trào triết học thế kỷ XIX gieo rắc, chúng tràn ngập vào tiền bán thế kỷ XIX qua dòng sông triết học nhân sinh như đã nói ở trên. Như thế ta có thể so sánh sự thành công của triết học về hiện hữu với sự thành công của phái khắc kỷ trong những thế kỷ đầu Tây lịch. Triết học khắc kỷ rõ ràng cũng là chuyên biệt, nhưng đã có thể chinh phục được một khu vực văn hóa rộng lớn bằng cách tung ra một vài ý tưởng đơn giản về đạo đức mà lịch sử đã sửa soạn nền tảng cho từ một thời gian dài.</p><p></p><p>So sánh với hai phong trào này các trường phái cũ khá nhiều nhưng ít môn đồ trong quảng đại quần chúng. Siêu hình học nhiều lắm là ngang hàng với chúng, đặc biệt trong ngành chủ Thomas (Thomiste) có một truyền thống có thế lực ở sau nó và được giáo hội Thiên chúa bảo vệ. Triết học nhân sinh và hiện tượng học ít được biết đến; đặc biệt là hiện tượng học. Duy tâm luận có vẻ đang chịu một thất bại lớn.</p><p></p><p>Ở ngay các tư tưởng gia, những ảnh hưởng của các trường phái được sắp xếp trong một trật tự khác nhau. Ngay cả ở đây duy tâm cũng chắc chắn chiếm địa vị thấp, trái lại, triết học nhân sinh và hiện tượng luận hẳn là gần chóp đỉnh hơn, dù chỉ bằng một đường lối gián tiếp qua sự chiếu rọi lên một số các trường phái. Về phía khác địa vị hàng đầu trong hai trường phái triết học đã khởi lên trong thời đại chúng ta này có vẻ dành cho siêu hình học hơn là triết học về hiện hữu. Sau hết, triết học về vật chất ở trong một vị trí kỳ lạ vì trong một vài sắc thái – tỉ dụ, trong chủ Spencer hay duy vật biện chưng – nó hoàn toàn hay gần như vắng mặt ở các trường đại học; nhưng những công trình của Russell và tân thực chứng, liên kết với một phản ứng từ cuộc khủng hoảng ở khoa học, đã đạt được một sự tái sinh tạm thời trong một vài trung tâm trí thức. Giữa năm 1930-1939 hình như rằng tân thực dụng đã có cơ hội chiếm được địa vị của một trường phái lãnh đạo, dù bấy giờ có những phong trào khác đang che trùm lên lục địa và chỉ ở Anh là nó khả dĩ giữ được vị trí rất thế lực. Ngay cả ở Anh (cũng như ở Nam Mỹ) ảnh hưởng của nó trong triết học hiện đang mất dần.</p><p></p><p>Để tóm tắt, ta có thể nêu lên tầm quan trọng tương đối của các hệ thống ấy như sau: trên chóp là siêu hình học và triết học về hiện hữu, kế đó là triết học nhân sinh và hiện tượng học (gián tiếp qua các phong trào như đã nói); phía sau xa là đến triết học về vật chất. Duy tâm luận đứng ở hạng chót.<a href="https://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/nhap-mon-triet-hoc/nguon-goc-cua-triet-hoc-can-dai_444.html#_ftn2" target="_blank">[2]</a></p><p></p><p><strong>D. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUÁT</strong></p><p></p><p>Ta không thể nêu lên bất cứ một đặc điểm tổng quát nào của tất cả những dòng tư tưởng hiện đại. Lý do duy nhấ là vì một số đi theo lập trường thế kỷ XIX hay, nói cách khác, “cận đại” (1600-1900), trong khi số còn lại đang có công thiết lập điều mà so với chúng là mới mẻ từ căn để. Tuy nhiên ta có thể đề cập những sắc thái chung trong phần lớn các triết gia, dù không phải là tất cả. Tỉ dụ, Whitehead hình như có lý khi ông minh xác rằng sự “kỳ phân” (bifurcation) kiểu mẫu của thời cận đại vũ trụ cơ giới và chủ thể tư duy bây giờ bị bỏ rơi. Như chúng ta thấy, chủ quan luận và cơ giới luận cuối cùng đã gánh chịu một thất bại nặng. Trên toàn thể, có một khuynh hướng hiển nhiên hướng đến một khái niệm hữu cơ hơn và khác biệt hơn về thực tại, song song với sự công khai thừa nhận một trình tự kiến thiết của thực tại cà những cấp độ tồn tại khác nhau của nó. Ngày nay tư tưởng có một số những đặc điểm khác, dù không thấm nhuần nó, giúp chúng ta đánh dấu những nét chính của nó. Sau đây là một số đặc điểm.</p><p></p><p>a) <em>Lập trường chống chủ thực chứng</em> (antipositiviste) – Sắc thái căn bản này có thể thấy khắp nơi trừ triết học về vật chất và các triết học của một duy tâm luận. Tuy nhiên, ở phương diện này, các nhà hiện tượng học, các triết gia về nhân sinh, các triết gia về hiện hữu đi xa hơn các nhà siêu hình học. Siêu hình học thỏa thuận dành cho khoa học thiên nhiên một địa vị khá giới hạn coi như một nguồn mạch của nhận thức triết học, trong khi các vị trước, trên đại thể, không chấp nhận giá trị nào như vậy.</p><p></p><p>b) <em>Phân tích</em> – Hoàn toàn đối lập với thế kỷ XIX, các triết gia ngày nay tiếp tục sự phân tích và thường với những phương pháp mới và rất chính xác.</p><p></p><p>c) <em>Duy thực </em>– Các nhà siêu hình học, một số triết gia nhân sinh, các triết gia về vật chất, cũng như một vài triết gia về hiện hữu đều là những nhà chủ duy thực, và chỉ những người chủ duy tâm mới tấn công chống lại quan điểm này. Hình thức biểu trưng nhất là hình thức duy thực trực tiếp; nó gán cho con người khả năng nắm được thể tính một cách trực tiếp. Trên đại thể, sự phân biệt của Kant giữa những vật-tự-nhỉ (chose-en-soi) và những giả tượng (apparence) bị ném lui ngay từ đầu.</p><p></p><p>d) <em>Đa nguyên luận</em> – Các triết gia hiện đại thường là chủ đa nguyên chống lại nhất nguyên luận duy tâm và duy vật của thế kỷ XIX. Ngay cả ở đây cũng có một vài ngoại lệ, cả Alexander, ở những nhà siêu hình học và Croce, giữa những nhà duy tâm luận đều là chủ nhất nguyên, đó là một tỉ dụ. Nhưng họ chỉ là thiểu số và ảnh hưởng dĩ nhiên đang suy giảm.</p><p></p><p>e) <em>Chủ hiện thực</em> (actualisme) – Hầu hết tất cả các triết gia của thời đại này đều là chủ hiện thực. Mối bận tâm của họ là biến hành (devenir), một biến hành mà dần dần họ đồng nhất họ với dòng lịch sử, cũng như lịch sử đã trở thành hướng đạo của những phong trào chủ ngoại lý thay thế sinh vật học vốn đã giữ vai trò này ngay từ khởi đầu thế kỷ XX. Chủ hiện thực trong triết học ngày nay từ chối hiện hữu của những bản thể, chỉ có những người chủ Thomas và một vài người tân duy thực ở Anh là những ngoại lệ đối với quy luật này.Một số triết gia đi xa hơn trong chủ hiện thực của họ đến chỗ từ bỏ quan niệm về những hình thể lý tưởng bất động. Điều này đúng cho các triết gia về vật chất, các triết gia nhân sinh, nhiều nhà duy tâm luận, và tất cả các triết gia về hiện hữu. Nhưng những khuynh hướng sau này bị các trường phái khác tấn công mãnh liệt, nhất là những người Tân chủ Kant, hiện tượng học và siêu hình học.</p><p></p><p>f) <em>Chủ nghĩa nhân vị</em> (personalisme) – Trong phần đông các trường phái, mối bận tâm được quy tụ trên thế vị con người. Trừ các triết gia về vật chất, các tư tưởng gia ngày nay nhiều hay ít nhìn nhận hiện hữu của tinh thần và nhấn mạnh giá trị độc nhất của thế vị con người. Các triết gia về hiện hữu truyền bá chủ nghĩa nhân vị này dưới một hình thức bi tráng đặc biệt, nhưng nhiều nhà siêu hình học và hiện tượng luận cũng phụ giúp một cách đắc lực. Chính bởi lý do này mà triết học hiện đại sở đắc một sắc thái rõ rệt khác với quá khứ - nó gần với thực tại thường nhật hơn bất cứ triết học đi trước nào.</p><p></p><p><strong>E. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGOẠI DIỆN</strong></p><p></p><p>Ngoài những nét chính về học thuyết, nhiều sắc thái ngoại diện của triết học hiện đại đáng chú ý. Nó rất là chuyên biệt và phi thường phong phú, và các trường phái cá biệt của nó có những tương quan mật thiết với nhau hơn những thời trước.</p><p></p><p>a) <em>Kỹ thuật</em> – Không một triết gia chuyên nghiệp nào ngày nay cho ra những tác phẩm so được trong tính chất giản dị với những tác phẩm của một Platon và một Descartes. Tất cả các trường phái (trừ duy vật biện chứng và thỉnh thoảng thực dụng chủ nghĩa), ở cách sắp đặt của chúng đều có những khái niệm nòng cốt chuyên môn về những từ vựng phong phú và trừu tượng càng lúc càng nhiều trong dòng luận giải khúc mắc và tinh tế. Điều này rõ ràng nhất với các triết gia về hiện hữu và tân thực chứng, và do đó là kiểu mẫu của hai trường phái mới nhất. Các nhà duy tâm luận, hiện tượng học,và siêu hình học cũng giống thế, không nhiều thì ít. Rồi, nhìn từ bên ngoài, một vài kỹ thuật triết học của thời đại chúng ta quả chắc là một hồi tưởng (reminiscence) của các tác phẩm kỹ thuật như của Aristote và ngay cả những phương thức khéo léo được tìm thấy trong chủ kinh viện (scholasticisme) thế kỷ XV.</p><p></p><p>b) <em>Sự trù phú</em> – Mức hoạt động của các triết gia hiện đại thật cao quá thường. Chỉ ở Ý cũng đã có khoảng ba mươi tác phẩm định kỳ chuyên triết học, trong khi đó trường phái duy nhất có tính cách quốc tế, chủ Thomas trong nghĩa hẹp, tính hơn hai mươi. Thư mục của Viện quốc tế triết học kê khai hàng nghìn tên sách mỗi năm. Với công trình kích thước này, chúng ta phải thêm sự phong phú về các vấn đề được khai sinh lúc này, cũng như tầm quan trọng thực tế của nhiều tác phẩm đang xuất hiện. Chắc chắn khó mà nói một điều gì về giá trị lâu dài của chúng, dù những vẻ ngoài có hoàn toàn mê hoặc, một số triết gia của thời đại chúng ta chắc chắn sẽ để lại một dấu vết trường kỳ trên lịch sử của tư tưởng triết học. Đôi lúc với một thêm thắt nào đó, ta có thể nói rằng thế kỷ này sẽ tính vào số trù phú nhất trong lịch sử.</p><p></p><p>c) <em>Liên đới</em> – Một đặc điểm của triết học Âu châu ngày nay là cao độ giữa những tiếp xúc giữa các triết gia những phong trào đối lập và đa biệt nhất, và sự thiết lập những tương quan giữa các nước khác nhau. Đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự khai sinh một chuỗi dây những cuộc hội nghị quốc tế về triết học tập họp một số các triết gia càng lúc càng đông. Ngoài những hội nghị này còn có những cuộc gặp gỡ quốc tế vì những chủ đích chuyên môn dành riêng từng môn học, phong trào hay trường phái. Thêm nữa, một số các trường phái quốc tế (ví dụ: duy tâm luận, chủ Thomas, tân thực chứng, vân vân) đã lập ra những tờ báo, và một số trong đó gần cả các bài vở của nhiều thứ tiếng. Kết quả là các trào lưu triết học tương thông hơn đối với hầu hết bất cứ thời kỳ nào trước kia.</p><p></p><p>Chắc chắn điều này tự chứng tỏ trong tiến trình mà các trường phái ngày nay được thiết lập. Tỉ dụ, tân duy thực ở Anh nổi lên từ “lý thuyết về những khách quan” (bà con với hiện tượng học), từ một vài quan điểm duy nghiệm, và từ sự nghiên cứu về siêu hình học (Russell và Leibniz). Tân thực chứng có liên quan chặt chẽ với sự phê bình khoa học, duy nghiệm cổ điển, tân duy thực ở Anh, và đồng thời do ảnh hưởng của Husserl, sáng lập viên hiện tượng học. Husserl có ảnh hưởng mạnh mẽ ở triết học về hiện hữu và ở một vài ngành siêu hình học. Duy tâm luận không biệt lập với đối thủ cổ truyền của nó, thực chứng luận. Độc đáo nhất là sự phát sinh triết học về hiện hữu, nó tự kết hợp các ảnh hưởng của thực chứng,duy tâm và hiện tượng học, mặc dù chính yếu nó phát xuất từ triết học nhân sinh và không phải không có những yếu tố siêu hình học.</p><p style="text-align: right"></p><p>Nguồn: J. M. Bochenski. <em>Triết học Tây phương hiện đại</em>. Tuệ Sỹ dịch. Nxb. Ca Dao, 1969. Phiên bản điện tử do bạn Phạm Tấn Xuân Cao, sinh viên khoa Triết trường Đại học Huế, thực hiện.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="uocmo_kchodoi, post: 178315, member: 165510"] [CENTER][B][COLOR=#ff0000]NGUỒN GỐC CỦA TRIẾT HỌC CẬN DẠI[/COLOR][/B][/CENTER] [CENTER][COLOR=#5900b3][B] Phần 4:[/B] [B]Những trào lưu chính của triết học hiện đại[/B][/COLOR][/CENTER] [B] A. CÁC TRƯỜNG PHÁI[/B] Thời kỳ triết học hiện đại mà chúng ta bàn ở đây khởi sự từ thế chiến I đến ngày nay đã chứng kiến sự ra đời của hai trường phái mới. Một là [I]Tân thực chứng[/I] (néo-positivisme): đó là một bành trướng khác của lập trường chủ thực chứng. Và một nữa là triết học về hiện hữu (Philosophie de l’existence): đó là một cái gì hoàn toàn mới mặc dù trên quan điểm thời gian nó đã có trong sự lưu hành của triết học nhân sinh và chứa đựng cả hai yếu tố hiện tượng học và siêu hình học. Tất cả những trường phái đã có mặt bây giờ đều có những tư tưởng gia ngoại hạng của chúng, họ phát triển các chủ đề căn bản của mình bằng kiểu cách đại quy mô. Điều này đúng cho siêu hình học nói riêng; nó có thể tự hào về những tên tuổi như Alexander, Whitehead, Hartmann và thêm những nhà chủ-Thomas. Hiện tượng học cũng không kém, do Scheler. Và [I]Triết học về nhân sinh [/I]cũng thế, kể cả giai đoạn cuối của Bergson và toàn thể tư tưởng của Klages; đó là chỉ kể hai nhân vật. Những hệ thống quan trọng nhất của thời đại chúng ta có thể được chia làm hai lối, về nội dung và về phương pháp. Về nội dung học thuyết, ta có thể sắp chúng trong sáu nhóm. Chúng ta có hai nhóm đầu, vẫn tiếp tục trong tinh thần thế kỷ XIX: duy nghiệm hay triết học về vật chất, là tiếp nối thực chứng luận, và duy tâm luận, cả hai mang những hình thức Kant và Hegel. Tiếp đến hai lập trường gây sự đoạn tuyệt với thế kỷ này: triết học về nhân sinh và triết học về yếu tính hay hiện tượng học. Sau hết, có hai nhóm tạo nên sự đóng góp độc đáo nhất của thời đại chúng ta: triết học hiện sinh về siêu hình học, về thể tính kiểu mới. Sự phân loại này dĩ nhiên hơi độc đoán. Những sai biệt sâu xa giữa các nền triết học cùng chung dưới một đầu đề là điều không thể quên được. Như thế, chúng ta đã áp dụng sự phân loại chung “triết học về vật chất” cho những học thuyết rất là khác nhau như của Russell, những nhà tân thực chứng, và ngay cả chủ-Marx. Cũng vậy, chương triết học về nhân sinh đã phải kể đến những tư tưởng gia rất đa biệt như Dewey và Klages. Sau hết, ta cần phải nhấn mạnh rằng những tư tưởng gia biệt lập đứng ngoài các nhóm này và làm trung gian cho chúng – tỉ dụ, các đại biểu của trường phái Baden, có những điểm tiếp xúc với cả chủ lịch sử (historicisme) thuộc nhóm triết học về nhân sinh, và cả hiện tượng học của Scheler tự nó vốn gần với chủ nghĩa hiện sinh (existentialisme). Mọi sự phân loại trong lịch sử tư tưởng triết học đều là một nhu cầu không thể tránh để có một cái nhìn khá bao quát. Ta không nên cố che đậy những dị biệt sâu xa giữa mỗi nhóm cũng như điểm trùng hợp của chúng. Tuy nhiên, với sự thận trọng này, chúng tôi có thể tuyên bố rằng sự phân chia thành sáu nhóm của chúng tôi đã nêu rõ sáu lập trường chính của thời đại chúng ta: duy nghiệm, duy tâm, triết học nhân sinh, hiện tượng học, chủ hiện sinh và siêu hình học. Tự nó, sự phân loại các trường phái theo [I]phương pháp[/I] không hẳn là tuyệt đối. Tuy vậy, đó hình như là một phương cách được nhiều người thừa nhận hơn, như người ta đã thấy rõ ở kỳ Hội nghị quốc tế về triết học lần thứ X vào năm 1948. Vì rằng, trong cùng một trường phái triết học sự phân rẽ thường khởi lên do áp dụng những phương pháp khác nhau, như là một đằng là phân tích theo luận lý toán học (analyse mathématicologique), và đằng khác là phương sách hiện tượng học. Trong khi có nhiều triết gia không đồng ý với nhau là áp dụng cả hai phương pháp này hay không cả hai, thì ngày nay vẫn còn nhiều người hình như chia rẽ nhau theo các đường lối này. Phương pháp hiện tượng học, đã tiến bộ và có biến chuyển theo thời gian, được ứng dụng không những chỉ bởi các nhà hiện tượng học mà gần như cả những triết gia hiện sinh và cả một số những nhà siêu hình học. Các siêu hình học gia khác đã cùng liên kết với những thủ lĩnh của luận lý toán học, đáng kể nhất là Whitehead. Điều đáng chú ý là luận lý toán học đã có thể dẫn các thủ lĩnh của những trường phái đa biệt nhất và rất trái ngược đến chỗ hiểu biết lẫn nhau: chủ-Platon, chủ-Aristote, chủ duy danh, chủ Kant, và kể cả một số ít chủ thực dụng (pragmatisme), trong khi sự tách biệt giữa những người theo phương pháp này và những người hoạt động với những phương pháp hiện tượng học hình như thường rộng lớn đến nỗi không thể có sự hiểu biết chung nào nữa. [B]B. CÁC ẢNH HƯỞNG[/B] Chúng ta đã nghiên cứu (1-3) những nguồn gốc của triết học hiện đại. Trước khi đi vào chi tiết, chúng ta chỉ cần thêm một vài nét. Trước hết cần ghi nhận rằng những hoàn cảnh lịch sử mang lại sự đoạn tuyệt với tư tưởng của thế kỷ trước vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng trong thời đại này. Cũng vậy, vật lý học tiếp tục phát triển đồng thời xa dần nền tảng chủ cơ giới thuở xưa của nó. Ảo tưởng về sự tiến bộ bằng kỹ thuật (vẫn đang ngự trị ở Mỹ và Nga) đã chịu đựng những đảo lộn mới ở Âu châu. Quần chúng cũng như các triết gia lúc này có vẻ vừa được cứu chữa, với một giá rất đắt. Chúng chỉ phân biệt rõ những biến cố đã đưa đến những đau đớn khủng khiếp ấy, tất sẽ thấy rõ đặt mối quan tâm của con người trên những vấn đề cấp thiết như thế vị con người, mục đích và số phận con người, sự ưu tư, sự chết và những giao tế của nó với đồng loại. Một cuộc tái sinh của tôn giáo hình như đang hoạt động ráo riết. Sau hết, một thứ bất nhất, và bất định bao trùm đang bám chặt mọi người, những người cảm nhận thâm thiết tình cảnh khủng hoảng ngấm ngầm này và hơn bao giờ hết sẵn sàng quay về triết học với hy vọng rằng nó sẽ mang lại cho họ một giải đáp với những vấn đề đang thao thức về cuộc sống bi thảm của mình. Tất cả những điều đó cắt nghĩa tại sao chủ nghĩa hiện sinh đặt điều được nền tảng nhanh chóng như thế, tại sao siêu hình học trở thành một thế lực như thế. Nó cũng cắt nghĩa cái cao độ của sinh hoạt triết lý đương thời. Những ảnh hưởng từ các tư tưởng gia thuở xưa đang gây thế lực trên những nền triết học này. Theo Bertrand Russell, người được kể vào số các triết gia về vật chất, những hậu duệ của thế kỷ XIX, thì ảnh hưởng của Thomas Aquinas bây giờ lớn hơn cả Kant và Hegel. Điều đó có lẽ đúng cho tất cả các triết gia trong thời đại chúng ta. Khi triết học đi lên những mức độ cao hơn, nó lên theo hình xoắn ốc. Ngày nay, nó gần với tư tưởng Hy Lạp và Kinh viện hơn với bất cứ tư tưởng nào của trăm năm qua, tùy theo những vấn đề căn bản của nó: Platon tái sinh ở Whitehead; Aristote ở Driesch, Hartmann và các nhà chủ Thomas; Plotin trong một vài nhà chủ hiện sinh; Thomas d’Aquin ở trường phái mang tên ông; các nhà chủ kinh viện thời sau ở hiện tượng học và tân thực chứng; Leibniz ở Russell. Tuy nhiên, khi câu hỏi nêu lên xem ai là người đang gây ảnh hưởng mạnh nhất trên triết học hiện đại, thì chúng ta không ngần ngại nêu tên hai người thuộc thời đại này; đó là, như đã nói, Bergson và Husserl. Dĩ nhiên họ không phải là độc nhất nhưng triết học nhân sinh và hiện tượng học đang giữ những vai trò quyết định mọi nơi, không một trường phái nào có thế lực đặc biệt đối mặt với chúng. Vắn tắt, những gì mà một quan sát viên theo dõi có thể thấy được kể từ 1900 trở lại bấy giờ đã thể hiện đầy đủ, triết học thế kỷ XIX nhường chỗ cho một khái niệm mới về thực tại khởi lên từ đầu thế kỷ XX và càng giống với tư tưởng của những thời quá khứ hơn mà không thể quay lùi lại. C. TẦM QUAN TRỌNG TƯƠNG ĐỐI CỦA CÁC HỆ THỐNG Để đánh giá tầm quan trọng của các trường phái và các hệ thống ta cần phải nhận xét hai quan điểm hoàn toàn khác nhau. Trên đại thể, những hệ thống nào có ảnh hưởng lớn nhất trong đa số quần chúng thì không ảnh hưởng đến các triết gia trong cùng mức độ như vậy, và điều này có hai lý do. Một đằng quần chúng thì chậm hiểu; như vậy một triết học đã nảy nở năm mươi năm hay trăm năm vì trước những trung tâm chuyên biệt bấy giờ mới có cơ hội thuận tiện để trở thành phổ biến bất kể đến tầm quan trọng nào mà chính các triết gia ấy ràng buộc với nó. Đằng khác, khác với các triết gia, quần chúng dễ bị lôi cuốn hơn bởi những quyến rũ nào gần cả hai mặt vừa giản dị và vừa quảng bá. Một nền triết học mà càng có cơ hội thuận tiện bành trướng thì nó càng hạ thấp xuống và càng được các phong trào trang bị bằng những bộ máy tuyên truyền hữu hiệu ủng hộ thêm, do đó, thông thường các triết gia ít bị những yếu tố như thế tác động. Sự tổng quan của chúng ta chỉ bàn đến triết học theo nghĩa hẹp của chữ này, chứ không bàn theo nhận thức phổ thông. Tuy nhiên, ta cũng nên đặt câu hỏi là ngày nay phổ thông nhất là thứ triết học nào, thì ta có thể nêu lên một tiêu đề cho cả hai nền triết học riêng biệt. Thứ nhất [I]triết học về vật chất[/I], thứ giản dị nhất, không cần phải là triết gia mới dễ hiểu; thêm nữa, sự phiên chuyển sang chủ-Marxist của nó đang được tuyên truyền với tất cả thế lực của Đảng Cộng sản khắp thế giới cũng như qua sự bảo trì của một số thức giả - các “tài tử” của triết học giống như quần chúng, đã khuất phục trước sự cám dỗ của một học thuyết được đơn giản. Thứ hai, quảng đại quần chúng nhất là [I]triết học về hiện hữu[/I], đặc biệt trong những nước ảnh hưởng văn hóa Latin. Trước tiên, điều ấy hình như lạ lùng, bởi vì triết học về hiện hữu là một học thuyết hoàn toàn tân kỳ và, thêm nữa một thứ triết học tế nhị rất có kỹ thuật. Những điều lạ lùng này sẽ được giải thích ngay nếu chúng ta chú ý tới hình thức giản dị và dễ hiểu mà người ta khoác lên cho nó để giới thiệu với quần chúng: bằng văn chương kịch nghệ, và những sáng tác bình dân. Không triết gia nào trừ những triết gia hiện sinh ưa dùng kiểu tuyên truyền này. Lại nữa, khía cạnh ngoại lý và triệt để chủ quan của triết học về hiện hữu thường hấp dẫn những người phi triết học. Chủ quan luận đã là một học thuyết quen thuộc của những thế kỷ qua, và chủ ngoại lý đã được một vài phong trào triết học thế kỷ XIX gieo rắc, chúng tràn ngập vào tiền bán thế kỷ XIX qua dòng sông triết học nhân sinh như đã nói ở trên. Như thế ta có thể so sánh sự thành công của triết học về hiện hữu với sự thành công của phái khắc kỷ trong những thế kỷ đầu Tây lịch. Triết học khắc kỷ rõ ràng cũng là chuyên biệt, nhưng đã có thể chinh phục được một khu vực văn hóa rộng lớn bằng cách tung ra một vài ý tưởng đơn giản về đạo đức mà lịch sử đã sửa soạn nền tảng cho từ một thời gian dài. So sánh với hai phong trào này các trường phái cũ khá nhiều nhưng ít môn đồ trong quảng đại quần chúng. Siêu hình học nhiều lắm là ngang hàng với chúng, đặc biệt trong ngành chủ Thomas (Thomiste) có một truyền thống có thế lực ở sau nó và được giáo hội Thiên chúa bảo vệ. Triết học nhân sinh và hiện tượng học ít được biết đến; đặc biệt là hiện tượng học. Duy tâm luận có vẻ đang chịu một thất bại lớn. Ở ngay các tư tưởng gia, những ảnh hưởng của các trường phái được sắp xếp trong một trật tự khác nhau. Ngay cả ở đây duy tâm cũng chắc chắn chiếm địa vị thấp, trái lại, triết học nhân sinh và hiện tượng luận hẳn là gần chóp đỉnh hơn, dù chỉ bằng một đường lối gián tiếp qua sự chiếu rọi lên một số các trường phái. Về phía khác địa vị hàng đầu trong hai trường phái triết học đã khởi lên trong thời đại chúng ta này có vẻ dành cho siêu hình học hơn là triết học về hiện hữu. Sau hết, triết học về vật chất ở trong một vị trí kỳ lạ vì trong một vài sắc thái – tỉ dụ, trong chủ Spencer hay duy vật biện chưng – nó hoàn toàn hay gần như vắng mặt ở các trường đại học; nhưng những công trình của Russell và tân thực chứng, liên kết với một phản ứng từ cuộc khủng hoảng ở khoa học, đã đạt được một sự tái sinh tạm thời trong một vài trung tâm trí thức. Giữa năm 1930-1939 hình như rằng tân thực dụng đã có cơ hội chiếm được địa vị của một trường phái lãnh đạo, dù bấy giờ có những phong trào khác đang che trùm lên lục địa và chỉ ở Anh là nó khả dĩ giữ được vị trí rất thế lực. Ngay cả ở Anh (cũng như ở Nam Mỹ) ảnh hưởng của nó trong triết học hiện đang mất dần. Để tóm tắt, ta có thể nêu lên tầm quan trọng tương đối của các hệ thống ấy như sau: trên chóp là siêu hình học và triết học về hiện hữu, kế đó là triết học nhân sinh và hiện tượng học (gián tiếp qua các phong trào như đã nói); phía sau xa là đến triết học về vật chất. Duy tâm luận đứng ở hạng chót.[URL='https://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/nhap-mon-triet-hoc/nguon-goc-cua-triet-hoc-can-dai_444.html#_ftn2'][2][/URL] [B]D. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUÁT[/B] Ta không thể nêu lên bất cứ một đặc điểm tổng quát nào của tất cả những dòng tư tưởng hiện đại. Lý do duy nhấ là vì một số đi theo lập trường thế kỷ XIX hay, nói cách khác, “cận đại” (1600-1900), trong khi số còn lại đang có công thiết lập điều mà so với chúng là mới mẻ từ căn để. Tuy nhiên ta có thể đề cập những sắc thái chung trong phần lớn các triết gia, dù không phải là tất cả. Tỉ dụ, Whitehead hình như có lý khi ông minh xác rằng sự “kỳ phân” (bifurcation) kiểu mẫu của thời cận đại vũ trụ cơ giới và chủ thể tư duy bây giờ bị bỏ rơi. Như chúng ta thấy, chủ quan luận và cơ giới luận cuối cùng đã gánh chịu một thất bại nặng. Trên toàn thể, có một khuynh hướng hiển nhiên hướng đến một khái niệm hữu cơ hơn và khác biệt hơn về thực tại, song song với sự công khai thừa nhận một trình tự kiến thiết của thực tại cà những cấp độ tồn tại khác nhau của nó. Ngày nay tư tưởng có một số những đặc điểm khác, dù không thấm nhuần nó, giúp chúng ta đánh dấu những nét chính của nó. Sau đây là một số đặc điểm. a) [I]Lập trường chống chủ thực chứng[/I] (antipositiviste) – Sắc thái căn bản này có thể thấy khắp nơi trừ triết học về vật chất và các triết học của một duy tâm luận. Tuy nhiên, ở phương diện này, các nhà hiện tượng học, các triết gia về nhân sinh, các triết gia về hiện hữu đi xa hơn các nhà siêu hình học. Siêu hình học thỏa thuận dành cho khoa học thiên nhiên một địa vị khá giới hạn coi như một nguồn mạch của nhận thức triết học, trong khi các vị trước, trên đại thể, không chấp nhận giá trị nào như vậy. b) [I]Phân tích[/I] – Hoàn toàn đối lập với thế kỷ XIX, các triết gia ngày nay tiếp tục sự phân tích và thường với những phương pháp mới và rất chính xác. c) [I]Duy thực [/I]– Các nhà siêu hình học, một số triết gia nhân sinh, các triết gia về vật chất, cũng như một vài triết gia về hiện hữu đều là những nhà chủ duy thực, và chỉ những người chủ duy tâm mới tấn công chống lại quan điểm này. Hình thức biểu trưng nhất là hình thức duy thực trực tiếp; nó gán cho con người khả năng nắm được thể tính một cách trực tiếp. Trên đại thể, sự phân biệt của Kant giữa những vật-tự-nhỉ (chose-en-soi) và những giả tượng (apparence) bị ném lui ngay từ đầu. d) [I]Đa nguyên luận[/I] – Các triết gia hiện đại thường là chủ đa nguyên chống lại nhất nguyên luận duy tâm và duy vật của thế kỷ XIX. Ngay cả ở đây cũng có một vài ngoại lệ, cả Alexander, ở những nhà siêu hình học và Croce, giữa những nhà duy tâm luận đều là chủ nhất nguyên, đó là một tỉ dụ. Nhưng họ chỉ là thiểu số và ảnh hưởng dĩ nhiên đang suy giảm. e) [I]Chủ hiện thực[/I] (actualisme) – Hầu hết tất cả các triết gia của thời đại này đều là chủ hiện thực. Mối bận tâm của họ là biến hành (devenir), một biến hành mà dần dần họ đồng nhất họ với dòng lịch sử, cũng như lịch sử đã trở thành hướng đạo của những phong trào chủ ngoại lý thay thế sinh vật học vốn đã giữ vai trò này ngay từ khởi đầu thế kỷ XX. Chủ hiện thực trong triết học ngày nay từ chối hiện hữu của những bản thể, chỉ có những người chủ Thomas và một vài người tân duy thực ở Anh là những ngoại lệ đối với quy luật này.Một số triết gia đi xa hơn trong chủ hiện thực của họ đến chỗ từ bỏ quan niệm về những hình thể lý tưởng bất động. Điều này đúng cho các triết gia về vật chất, các triết gia nhân sinh, nhiều nhà duy tâm luận, và tất cả các triết gia về hiện hữu. Nhưng những khuynh hướng sau này bị các trường phái khác tấn công mãnh liệt, nhất là những người Tân chủ Kant, hiện tượng học và siêu hình học. f) [I]Chủ nghĩa nhân vị[/I] (personalisme) – Trong phần đông các trường phái, mối bận tâm được quy tụ trên thế vị con người. Trừ các triết gia về vật chất, các tư tưởng gia ngày nay nhiều hay ít nhìn nhận hiện hữu của tinh thần và nhấn mạnh giá trị độc nhất của thế vị con người. Các triết gia về hiện hữu truyền bá chủ nghĩa nhân vị này dưới một hình thức bi tráng đặc biệt, nhưng nhiều nhà siêu hình học và hiện tượng luận cũng phụ giúp một cách đắc lực. Chính bởi lý do này mà triết học hiện đại sở đắc một sắc thái rõ rệt khác với quá khứ - nó gần với thực tại thường nhật hơn bất cứ triết học đi trước nào. [B]E. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGOẠI DIỆN[/B] Ngoài những nét chính về học thuyết, nhiều sắc thái ngoại diện của triết học hiện đại đáng chú ý. Nó rất là chuyên biệt và phi thường phong phú, và các trường phái cá biệt của nó có những tương quan mật thiết với nhau hơn những thời trước. a) [I]Kỹ thuật[/I] – Không một triết gia chuyên nghiệp nào ngày nay cho ra những tác phẩm so được trong tính chất giản dị với những tác phẩm của một Platon và một Descartes. Tất cả các trường phái (trừ duy vật biện chứng và thỉnh thoảng thực dụng chủ nghĩa), ở cách sắp đặt của chúng đều có những khái niệm nòng cốt chuyên môn về những từ vựng phong phú và trừu tượng càng lúc càng nhiều trong dòng luận giải khúc mắc và tinh tế. Điều này rõ ràng nhất với các triết gia về hiện hữu và tân thực chứng, và do đó là kiểu mẫu của hai trường phái mới nhất. Các nhà duy tâm luận, hiện tượng học,và siêu hình học cũng giống thế, không nhiều thì ít. Rồi, nhìn từ bên ngoài, một vài kỹ thuật triết học của thời đại chúng ta quả chắc là một hồi tưởng (reminiscence) của các tác phẩm kỹ thuật như của Aristote và ngay cả những phương thức khéo léo được tìm thấy trong chủ kinh viện (scholasticisme) thế kỷ XV. b) [I]Sự trù phú[/I] – Mức hoạt động của các triết gia hiện đại thật cao quá thường. Chỉ ở Ý cũng đã có khoảng ba mươi tác phẩm định kỳ chuyên triết học, trong khi đó trường phái duy nhất có tính cách quốc tế, chủ Thomas trong nghĩa hẹp, tính hơn hai mươi. Thư mục của Viện quốc tế triết học kê khai hàng nghìn tên sách mỗi năm. Với công trình kích thước này, chúng ta phải thêm sự phong phú về các vấn đề được khai sinh lúc này, cũng như tầm quan trọng thực tế của nhiều tác phẩm đang xuất hiện. Chắc chắn khó mà nói một điều gì về giá trị lâu dài của chúng, dù những vẻ ngoài có hoàn toàn mê hoặc, một số triết gia của thời đại chúng ta chắc chắn sẽ để lại một dấu vết trường kỳ trên lịch sử của tư tưởng triết học. Đôi lúc với một thêm thắt nào đó, ta có thể nói rằng thế kỷ này sẽ tính vào số trù phú nhất trong lịch sử. c) [I]Liên đới[/I] – Một đặc điểm của triết học Âu châu ngày nay là cao độ giữa những tiếp xúc giữa các triết gia những phong trào đối lập và đa biệt nhất, và sự thiết lập những tương quan giữa các nước khác nhau. Đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự khai sinh một chuỗi dây những cuộc hội nghị quốc tế về triết học tập họp một số các triết gia càng lúc càng đông. Ngoài những hội nghị này còn có những cuộc gặp gỡ quốc tế vì những chủ đích chuyên môn dành riêng từng môn học, phong trào hay trường phái. Thêm nữa, một số các trường phái quốc tế (ví dụ: duy tâm luận, chủ Thomas, tân thực chứng, vân vân) đã lập ra những tờ báo, và một số trong đó gần cả các bài vở của nhiều thứ tiếng. Kết quả là các trào lưu triết học tương thông hơn đối với hầu hết bất cứ thời kỳ nào trước kia. Chắc chắn điều này tự chứng tỏ trong tiến trình mà các trường phái ngày nay được thiết lập. Tỉ dụ, tân duy thực ở Anh nổi lên từ “lý thuyết về những khách quan” (bà con với hiện tượng học), từ một vài quan điểm duy nghiệm, và từ sự nghiên cứu về siêu hình học (Russell và Leibniz). Tân thực chứng có liên quan chặt chẽ với sự phê bình khoa học, duy nghiệm cổ điển, tân duy thực ở Anh, và đồng thời do ảnh hưởng của Husserl, sáng lập viên hiện tượng học. Husserl có ảnh hưởng mạnh mẽ ở triết học về hiện hữu và ở một vài ngành siêu hình học. Duy tâm luận không biệt lập với đối thủ cổ truyền của nó, thực chứng luận. Độc đáo nhất là sự phát sinh triết học về hiện hữu, nó tự kết hợp các ảnh hưởng của thực chứng,duy tâm và hiện tượng học, mặc dù chính yếu nó phát xuất từ triết học nhân sinh và không phải không có những yếu tố siêu hình học. [RIGHT][/RIGHT] Nguồn: J. M. Bochenski. [I]Triết học Tây phương hiện đại[/I]. Tuệ Sỹ dịch. Nxb. Ca Dao, 1969. Phiên bản điện tử do bạn Phạm Tấn Xuân Cao, sinh viên khoa Triết trường Đại học Huế, thực hiện. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Tây
Sự ra đời của triết học cận đại
Top