Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Sự phân hóa đa dạng của thiên nhiên Việt Nam
1. Phân hoá theo Bắc - Nam
- Thiên nhiên phân hoá theo bắc - nam chủ yếu do sự thay đổi của khí hậu: Ở nước ta, từ Bắc vào Nam, sự gia tăng nhiệt theo vĩ độ không chỉ do góc nhập xạ tăng mà còn do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc làm hạ thấp đáng kể nhiệt độ ở miền Bắc vào mùa đông. Sự khác nhau về nền nhiệt và biên độ nhiệt độ làm cho khí hậu và thiên nhiên nước ta có sự phân hoá giữa miền Bắc và miền Nam (mà ranh giới là dãy núi Bạch Mã)
- Phần lãnh thổ phía Bắc (từ dãy Bạch Mã trở ra.) Thiên nhiên ở đây đặc trưng cho vùng khí hậu nhiệt đới, ẩm, gió mùa có mùa đông lạnh: Nền khí hậu nhiệt đới thể hiện ở nhiệt độ TB năm từ 20 – 250C. Do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên có một mùa đông lạnh với 2 – 3 tháng nhiệt độ < 180C (thể hiện rõ ở TDMN’PB’ và đồng bằng Bắc Bộ); Cảnh quan thiên nhiên tiêu biểu là đới rừng nhiệt đới gió mùa. Sự phân mùa nóng - lạnh làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên: mùa đông trời nhiều mây, tiết trời lạnh, mưa ít, nhiều cây bị rụng lá; mùa hạ trời nắng nóng, mưa nhiều, cây cối xanh tốt. Trong rừng: loài thực - động vật nhiệt đới chiếm ưu thế; ngoài ra còn có các loài cận nhiệt đới (như dẻ, re và các loài cây ôn đới như sa mu, pơ mu cùng các loài thú có lông dày như gấu, chồn,… Ở vùng đồng bằng vào mùa đông trồng được cả rau ôn đới
- Phần lãnh thổ phía Nam (từ dãy Bạch Mã trở vào). Thiên nhiên mang sắc thái của vùng khí hậu cận xích đạo gió mùa: Nền nhiệt thiên về khí hậu xích đạo, quanh năm nóng, nhiệt độ TB năm trên 250C, không có tháng nào dưới 200C. Khí hậu gió mùa thể hiện ở sự phân chia 2 mùa khô – mưa, thể hiện rõ từ vĩ độ 140B trở vào; Cảnh quan thiên nhiên tiêu biểu là đới rừng cận xích đạo gió mùa với thành phần thực - động vậạophanf lớn thuộc vùng xích đạo và nhiệt đới từ phương Nam (Mã lai – Inđônêxia) lên, hoặc từ phía tây (Ấn Độ - Mianma) di cư sang. Trong rừng xuất hiện nhiều cây chịu hạn, rụng lá vào mùa khô (như các cây họ dầu); có nơi hình thành loại rừng thưa nhiệt đới khô (nhiều nhất ở Tây Nguyên). Động vật tiêu biểu là các loài thú lớn vùng nhiệt đới và xích đạo (voi, hổ, báo, bò rừng,…). Vùng đầm lầy có trăn, rắn, cá sấu…
2. Thiên nhiên phân hoá theo Đông – Tây (phân hoá thành 3 dải rõ rệt )
- Vùng biển và thềm lục địa: Vùng biển nước ta rộng gấp gần 3 lần diện tích đất liền, có ~ 3000 đảo lớn nhỏ. Độ nông – sâu, rộng - hẹp của vùng biển và thềm lục địa có quan hệ chặt chẽ với vùng đồng bằng, vùng đồi núi kề bên và thay đổi theo từng đoạn bờ biển; Khí hậu Biển Đông của nước ta mang đặc điểm khí hậu của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa với lượng nhiệt, ẩm dồi dào. Các dòng hải lưu thay đổi theo hướng gió mùa
- Vùng đồng bằng ven biển: Thiên nhiên vùng đồng bằng nước ta thay đổi tuỳ nơi và thể hiện mối quan hệ chặt chẽ với dải đồi núi phía tây và vùng biển phía đông; Ở nơi mà đồi núi lùi xa vào đất liền thì đồng bằng mở rộng với các bãi triều thấp phẳng, thềm lục địa rộng, nông (như đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ). Nơi đồi núi lấn sát ra biển thì đồng bằng hẹp ngang và bị chia cắt thành những đồng bằng nhỏ, đường bờ biển khúc khuỷ với thềm lục địa hẹp, tiếp giáp vùng biển nước sâu (dải đồng bằng Nam Trung Bộ). Các dạng địa hình bồi tụ, mài mòn xen kẽ nhau, các cồn cát, đầm phá khá phổ biến là hệ quả của tác động kết hợp chặt chẽ giữa biển và vùng đồi núi phía tây ở dải đồng bằng ven biển này
- Vùng đồi núi: Sự phân hoá thiên nhiên theo hướng Đông - Tây ở vùng đồi núi rất phức tạp, chủ yếu do tác động của gió mùa với hướng của các dãy núi; Biểu hiện của sự khác biệt đó là mùa đông lạnh đến sớm ở vùng núi thấp Đông Bắc; còn ở vùng núi thấp Tây Bắc, mùa đông bớt lạnh nhưng khô hơn, mùa hạ đến sớm hơn, đôi khi có gió Tây, lượng mưa giảm. Khí hậu vùng Tây Bắc lạnh chủ yếu do địa hình núi cao; Khi sườn Đông Trường Sơn đón nhận các luồng gió từ biển vào tạo nên một mùa mưa vào thu đông, thì vùng Tây Nguyên lại là mùa khô, nhiều nơi khô hạn gay gắt, xuất hiện cảnh quan rừng thưa; Vào mùa mưa ở Tây Nguyên thì bên sườn Đông lại chịu tác động của gió Tây khô nóng
3. Thiên nhiên phân hoá theo độ cao. Theo độ cao, ở nước ta có 3 đai:
- Đai nhiệt đới gió mùa chân núi (độ cao TB < 600 - 700m): Khí hậu nhiệt đới biểu hiện rõ rệt ở nền nhiệt cao, mùa hạ nóng (nhiệt độ TB > 250C). Độ ẩm thay đổi tùy nơi: từ khô, hơi khô, hơi ẩm đến ẩm; Đất: trong đai này có 2 nhóm đất (nhóm đất đồng bằng chiếm gần 24%, nhóm đất feralit vùng đồi núi thấp chiếm > 60% diện tích đất tự nhiên): Nhóm đất đồng bằng bao gồm: Đất phù sa (3,4 triệu ha), tốt nhất là loại đất phù sa ngọt. Đất phèn (2,0 triệu ha). Đất mặn (0,74 triệu ha), đất cát (0,50 vạn ha); Nhóm đất feralit, chủ yếu là đất feralits đỏ vàng, tốt nhất là đất feralits nâu đỏ phát triển trên đá mẹ ba dan và đá vôi. Các loại đất nâu đỏ, đất xám phù sa cổ thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp, cây ăn quả nhiệt đới; Sinh vật gồm các hệ sinh thái nhiệt đới: hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh hình thành ở vùng núi thấp mưa nhiều, khí hậu ẩm ướt, mùa khô không rõ ràng; Rừng có cấu trúc nhiều tầng với 3 tầng gỗ, có cây cao tới 30 - 40m, phần lớn là các cây nhiệt đới xanh quanh năm. Động vật nhiệt đới đa dạng và phong phú; Ngoài ra, còn có hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa (rừng thường xanh, nửa rụng lá, rừng thưa nhiệt đới khô). Các hệ sinh thái rừng phát triển trên thổ nhưỡng đặc biệt (rừng nhiệt đới thường xanh trên đá vôi; rừng lá rộng thường xanh trên đất phèn, đất chua mặn ven biển); hệ sinh thái xa van, cây bụi gai nhiệt đới khô trên đất cát, đất thoái hóa vùng khô hạn
- Đai cận nhiệt đới gió mùa trên núi (600 - 700m đến 2.600m): Khí hậu mát mẻ, không có tháng nào nhiệt độ trên 250C, mưa nhiều hơn, độ ẩm tăng; Ở độ cao từ 600 - 700m đến 1.600 - 1.700m, khí hậu mát mẻ và độ ẩm tăng đã tạo điều kiện hình thành các hệ sinh thái rừng cận nhiệt đới lá rộng và lá kim. Nhiệt độ giảm hạn chế quá trình phân giải chất hữu cơ, mùn được tích lũy, hình thành đất feralit có mùn với đặc tính chua. Quá trình phong hóa yếu đi nên tầng đất mỏng hơn. Trong rừng xuất hiện các loài chim, thú cận nhiệt đới phương Bắc. Các loài thú có lông dày như gấu, sóc, cầy, cáo. Ở độ cao 1.600 - 1.700m, nhiệt độ thấp, hình thành đất có mùn. Rừng sinh trưởng kém, thực vật thấp, nhỏ, đơn giản về thành phần loài; rêu, địa y phủ kín thân, cành cây. Trong rừng có mặt các loài chim di cư thuộc khu hệ Hymalaya
- Đai ôn đới gió mùa trên núi (độ cao > 2.600m, chỉ có ở miền Bắc): Khí hậu có nét giống khí hậu ôn đới, quanh năm nhiệt độ < 150C, mùa đông < 50C, có các loài thực vật ôn đới như đỗ quyên, lãnh sam, thiết sam. Đất chủ yếu là đất mùn thô; Nhóm đất mùn của đai cận nhiệt và ôn đới gió mùa trên núi chỉ chiếm ~ 11% diện tích đất tự nhiên. Diện tích còn lại là núi đá, mặt nước sông hồ
4. Các miền tự nhiên chủ yếu
a. Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ.
Phạm vi: nằm dọc theo tả ngạn sông Hồng và rìa phía tây - tây nam Đồng bằng sông Hồng. Miền này có 2 đặc điểm cơ bản là quan hệ mật thiết với Hoa Nam (Trung Quốc) về cấu trúc địa chất - kiến tạo và chịu tác động mạnh nhất của gió mùa Đông Bắc. Các đặc điểm này được thể hiện qua các thành phần tự nhiên của miền. Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp với độ cao TB ~ 600m. Hướng núi vòng cung của các dãy núi và thung lũng sông (đây là nét đặc trưng nhất trong cấu trúc sơn văn của vùng). Địa hình đá vôi khá phổ biến. Hướng nghiêng chung là tây bắc - đông nam với các bề mặt địa hình thấp dần ra biển và sự hợp lưu của các dòng chảy sông lớn khiến cho đồng bằng mở rộng ra. Địa hình bờ biển đa dạng: nơi thấp phẳng, nơi nhiều vịnh, đảo, quần đảo. Vùng biển đáy nông, lặng gió (vẫn có vịnh nước sâu) thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Tài nguyên khoáng sản (giàu than, vật liệu xây dựng, sắt, thiếc, vonfram, chì, kẽm...) Vùng thềm vịnh Bắc Bộ có bể dầu khí S.Hồng. Sự xâm nhập mạnh của gió mùa Đông Bắc tạo nên mùa đông lạnh; Đặc điểm này được thể hiện ở sự hạ thấp đai cao cận nhiệt đới (với nhiều loài cây phương Bắc) và sự thay đổi cảnh quan thiên nhiên theo mùa. Sự bất thường của nhịp điệu mùa khí hậu, của dòng chảy sông ngòi và tính bất ổn định cao của thời tiết là những trở ngại lớn trong quá trình sử dụng tự nhiên của miền
b. Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.
Phạm vi: Từ hữu ngạn sông Hồng đến dãy Bạch Mã. Đặc điểm chung cơ bản của miền có mối quan hệ với Vân Nam (Trung Quốc) về cấu trúc địa chất - kiến tạo và sự suy yếu, giảm sút ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc; Đặc điểm này được thể hiện ở hướng tây bắc - đông nam của các hệ thống núi và dòng chảy; ở địa hình núi cao, trung bình chiếm ưu thế và ở tính chất nhiệt đới tăng dần với sự có mặt của thành phần thực vật phương Nam. Đây là miền duy nhất ở nước ta có địa hình núi cao với đầy đủ 3 đai cao. Địa hình núi chiếm ưu thế, trong vùng có nhiều bề mặt sơn nguyên, cao nguyên, nhiều lòng chảo và thung lũng rộng, thuận lợi cho chăn nuôi đại gia súc, trồng cây công nghiệp, phát triển nông - lâm kết hợp. Các dãy núi ăn lan ra biển và hình thế đổ nghiêng của dải Trường Sơn đã thu hẹp dần diện tích đồng bằng. Đoạn từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân, ven biển có nhiều cồn cát, nhiều bãi tắm đẹp, nhiều cửa sông thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế biển. Vai trò bức chắn dãy Trường Sơn với 2 mùa gió nghịch hướng đông bắc và tây nam đã làm cho mùa mưa chậm dần sang thu đông và hình thành thời tiết gió Tây khô nóng ở đồng bằng B.Trung Bộ vào mùa hạ. Rừng còn tương đối nhiều ở Nghệ An, Hà Tĩnh (sau Tây Nguyên). Khoáng sản có sắt, thiếc, crôm, titan, vật liệu xây dựng... Bão, lũ, trượt lở đất, hạn hán là những thiên tai thường xuyên xảy ra trong miền.
c. Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Phạm vi từ dãy núi Bạch Mã trở vào. Miền này có cấu trúc địa chất - địa hình khá phức tạp, gồm các khối núi cổ, các bề mặt sơn nguyên bóc mòn và bề mặt cao nguyên đất đỏ ba dan, đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ và các đồng bằng nhỏ hẹp ven biển. Sự tương phản về địa hình, khí hậu, thủy văn giữa 2 sườn Đông - Tây của vùng biểu hiện rõ rệt. Bờ biển khúc khủy, nhiều vịnh được che chắn bởi các đảo ven bờ. Khí hậu của miền có đặc điểm chung là khí hậu cận xích đạo gió mùa; Điều này được thể hiện ở nền nhiệt cao, biên độ nhiệt trong năm nhỏ và khí hậu có 2 mùa mưa - khô rõ rệt. Khí hậu thuận lợi cho sự phát triển rừng cây họ dầu với các loài thú lớn như voi, hổ, bò rừng, trâu rừng (trước đây có cả tê giác và bò tót ở Tây Nguyên). Ven biển phát triển rừng ngập mặn với các loài trăn, rắn, cá sấu đầm lầy, các loài chim tiêu biểu của vùng ven biển nhiệt đới, xích đạo. Dưới nước giàu cá, tôm. Vùng thềm lục địa có trữ lượng dầu khí lớn. Tây Nguyên giàu quặng bôxit. Xói mòn, rửa trôi ở vùng đồi núi, lũ lụt trên diện rộng ở đồng bằng Nam Bộ và ở hạ lưu các sông lớn trong mùa mưa; thiếu nước nghiêm trọng trong mùa khô.
(Sưu tầm)