Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Sự hình thành thế giới mới sau chiến tranh thế giới I
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Kết cục của chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới đặc biệt là đối với châu Âu.
• Chiến trường chính của cuộc chiến tranh diễn ra ở châu Âu, vì thế các cường quốc châu Âu đều bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy chiến thắng nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh và trở thành con nợ của Mĩ. Italia, một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh, bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga, Đức, áo - Hung lần lượt sụp đổ. Đế quốc Đức và áo - Hung bại trận, bị tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
• Trong khi đó các cường quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ và Nhật, không bị tàn phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản chủ nghĩa trước đây.
• Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn đối với thế giới tư bản chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các hội nghị hoà bình được triệu tập. Hệ thống hoà ước Vecxai (Versailles) và sau đó là Hệ thống hiệp ước Oasinhtơn đã được ký kết nhằm tổ chức lại thế giới sau chiến tranh, phù hợp với tương quan lực lượng mới.
1.Hệ thống hòa ước Vecxai
Hai tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ngày 18 - 1 - 1919 các nước thắng trận đã họp Hội nghị hoà bình tại Vécxai (ngoại ô thủ đô Pari của Pháp). Tham dự hội nghị có đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm cường quốc tham gia điều khiển hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là Tổng thống Mĩ Uynxơn (Wilson), Thủ tướng Anh Lôi Giooc (Lloyd George) và Thủ tướng Pháp Clêmăngxô (Clemenceau). Đại biểu của các nước bại trận cũng có mặt để k í vào các hoà ước do các nước thắng trận quyết định. Hội nghị Vécxai kéo dài gần 2 năm và diễn ra hết sức gay go, quyết liệt vì các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu. Nhưng Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lê n cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống Mĩ Uynxơn đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ(1). Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương trình 14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ không phải bằng con đường bành trướng lãnh thổ như các cường quốc khác. Chương trình 14 điểm của Uynxơn được các nước coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Véc xai.
Các nước Italia, Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ. Nhật Bản đòi được thay thế Đức nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông của Trung Quốc, dự định chiếm vùng viễn Đông của nước Nga Xô Viết, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu á - Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Bancăng. Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có những yêu cầu mở rộng lãnh thổ của mình.
Sau gần nửa năm tranh cãi với 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì bất đồng gay gắt về quyền lợi, cuối cùng các văn kiện của Hội nghị Vécxai được kí kết.
a. Sự thành lập hội Quốc liên (League of Nations).
Một trong những vấn đề cơ bản đầu trên được các nước tham dự Hội nghị Vécxai nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên. Công ước thành lập Hội quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó, mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hoà bình và an ninh thế giới”, và để thực hiện mục đích đó người ta đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế... Ngày 10 - 1 - 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập, Hội quốc liên có 3 tổ chức chính: Đại hội đồng (gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9), Hội đồng thường trực (gồm 5 uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia - sau đó còn lại 4 vì Mĩ không tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần), Ban thư ký thường trực như một nội các làm việc hành chính thường xuyên. Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm có Toà án quốc tế (có trụ sở thường trực ở La Hay) và các tổ chức khác như: Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức sức khoẻ (HO), uỷ ban người tị nạn (HCR) ... Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng những biện pháp quân sự. Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Về danh nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Vécxai. Với "chế độ uỷ trị", Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lã nh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình. Để Hội Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết. Những sự kiện diễn ra sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ Uynxơn nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được thực hiện trong Hội nghị Vécxai. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của tổ chức này.
b. Hoà ước Vécxai với Đức.
Hoà ước Vécxai với Đức kí ngày 28 - 6 - 1919, văn kiện quan trọng nhất của hệ thống hoà ước Vécxai, đã quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng định nước Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về “tội ác gây chiến tranh”, do đó phải trả lại cho Pháp hai tỉnh Andat và Loren (Alsace-Lorraine); nhường cho Bỉ khu ơpen Manmơđi (Eupen Malmedy) và Môrêxnet (Moresnet); cắt cho Ba Lan vùng Pômêrani ( Pomerania) và một “hành lang chạy ra biển”; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sơlexvít (Slesvig) ... Thành phố cảng Đăngd ích (Dantzig nay là Gơđanxcơ, Ba Lan) và đảo Hengôlan sẽ do Hội quốc liên quản trị. Hạt Xarơ (Sarre) của Đức cũng giao cho Hội Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây thuộc về Pháp. Sau thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết dịnh hạt Xarơ sẽ thuộc về nước nào (sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Xarơ đã thuộc về nước Đức). Đồng thời toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí .
Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân, không có hạm đội tầu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh (gần biên giới Pháp) và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km sẽ trở thành khu phi quân sự. Nước Đức còn phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận số tiền (do Hội nghị Luân đôn th áng 4 - 1921 qui đinh) là 132 tỉ Mác vàng, trong đó trả cho Pháp: 52% Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%... Với hoà ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của hoà ước Vécxai đè lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Vécxai không thủ tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này, với sự trợ giúp của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong thập niên 30.
c. Các hoà ước khác.
Cùng với hoà ước Vécxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 - 1920. Với hoà ước Xanh Giéc manh (Saint - Germain) kí với áo ngày 10 - 9 -1919 và Hoà ước Trianông (Trianon) kí với Hunggari ngày 4-6-1920, đế quốc áo - Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: áo chỉ còn 6,5 triệu dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước kia, chỉ còn lại 92.000km2 với 8 triệu dân(1). Mỗi nước chỉ đượ c quyền có khoảng 30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc áo - Hung cũ đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc áo - Hung: Rumani được thêm vùng Bucôvina (Bukovine và Tơranxinvani (Transylvanie), Italia được thêm vùng Tơrentin và Itxtria (Trentin - Istrie), Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galixia thuộc áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga. Ở bán đảo Ban căng, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc ốttôman cũng được quyết định. Với hoà ước Nơiy (Neuilly) kí với Bungari ngày 27-11-1919, lãnh thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới phía Tây cho Nam Tư, cắt vùng Thơraxơ (Thrace) cho Hi Lạp (do vậy bị mất cảng Đêđêaghát (Dédéagatch) và lối ra biển Êgiê (Egée) và cắt tỉnh Đôbrútgia (Dobroudja) cho Rumani. Ngoài ra, Bungari phải bồi thường chiến phí là 2,25 tỉ phơ răng, phải nộp cho các nước lán g giềng trong phe chiến thắng (Nam Tư, Hi lạp, Rumani) 37.000 gia súc lớn, 33.000 gia súc nhỏ, đồng thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống còn không quá 20.000 người. Hoà ước Xevrơ (Sevres) với thổ Nhĩ Kì kí ngày 11 - 8 - 1920 đã chính thức xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc ốttôman. Xiri, Libăng, Palextin và Irắc tách khỏi thổ Nhĩ Kì và đặt dưới quyền “bảo hộ” của Anh và Pháp. Ai cập chịu sự “bảo hộ” của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc “phạm vi thế lực” của Anh. Phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp (trừ Ixtambun và vùng ngoại ô). Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm soát của một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản. Toàn bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Vécxai. Đây là văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc. Trật tự mới này đem lại lợi ích cho các cường quốc thắng trận, nhất là Anh. Anh chẳng những mở rộng hệ thống thuộc địa đồng thời quyền bá chủ mặt biển vẫn được giữ vững. Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi. Tuy nhiên, những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Vécxai đối với các nước chiến bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà còn làm tăng thêm tâm lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh ngay từ khi hệ thống này mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của giới cầm quyền Mĩ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế quốc đã phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp theo ở oasinhtơn.
2.Hệ thống hiệp ước Oashinh tơn (1921-1929)
Hội nghị Vécxai kết thúc nhưng những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa các cường quốc thắng trận đặc biệt là mâu thuẫn trong quan hệ Anh - Mĩ và Mĩ - Nhật. Quốc hội mĩ đã không phê chuẩn Hoà ước Vécxai vì những quyền lợi của Mĩ không được thoả mãn. Gần hai năm sau, ngày 25-8- 1921, Mĩ đã kí hoà ước riêng rẽ với Đức. Đồng thời Mĩ đưa ra “sáng kiến” triệu tập một hội nghị quốc tế ở oasinhtơn để giải quyết những vấn đề trong quan hệ quốc tế ở khu vực Viễn Đông - Thái Bình Dương, nhằm ngăn chặn phong trào độc lập dân tộc đang lên cao và củng cố nền thống trị thực dân ở khu vực này. Ngày 12 - 11 - 1921, Hội nghị oasinhtơn được khai mạc với sự tham gia của 9 nước: Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Nước Nga Xô viết - một nước lớn ở khu vực đã không được mời tham dự hội nghị. Quyền lãnh đạo hội nghị nằm trong tay bốn nước: Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, nhưng quyền quyết định thuộc về Mĩ. Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội nghị oasinhtơn được thể hiện trong ba hiệp ước: Hiệp ước 4 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật) , Hiệp ước 9 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung Quốc) và Hiệp ước 5 nước (Anh, Pháp, Mĩ, nhật, Italia).
a) Hiệp ước 4 nước được gọi là Hiệp ước “không xâm lược ở Thái Bình Dương” kí ngày 13-12-1921 và có giá trị trong 10 năm. Các bên thoả thuận “tôn trọng quyền của nhau về các đảo ở vùng Thái Bình Dương” thực ra là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ở khu vực rộng lớn này. Đồng thời cũng nhân dịp này Mĩ gây áp lực với Anh để liên minh Anh - Nhật (được kí kết từ năm 1902) không còn hiệu lực nữa (điều 4). Với Hiệp ước này, Mĩ không chỉ thủ tiêu được liên minh Anh - Nhật mà còn trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình dương.
b) Hiệp ước 9 nước kí ngày 6 - 2 - 1922 công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc” đồng thời nêu nguyên tắc “mở cửa” và “khả năng đồng đều” cho các nước trong các hoạt động thương mại và công nghiệp trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Với hiệp ước này, Trung Quốc đã trở thành một thị trường chung của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Đặc biệt là Mĩ đã hợp pháp hoá sự bành trướng của mình vào Trung Quốc.
c) Hiệp ước 5 nước kí kết cùng ngày 6-2- 1922, được gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” nhằm qui định trọng tải tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương theo tỉ lệ: Mĩ và Anh bằng nhau: 525.000 tấn, Nhật: 315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn. Đồng thời các nước này cũng qui định tỉ lệ về hai loại tàu chở máy bay và tầu tuần dương hạm.
Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ, trong khi nước Anh phải chấp nhận nhượng bộ: từ bỏ nguyên tắc “sức mạnh quân sự gấp đôi” đã có từ năm 1914, theo đó hải quân Anh phải có hạm đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới cộng lại, đồng thời phải huỷ bỏ liên minh Anh - Nhật. Từ đây hải quân Mĩ ngang hàng với Anh và vượt qua Nhật. Mĩ còn thực hiện được việc xâm nhập vào thị trường viễn Đông và Trung Quốc thông qua chính sách “mở cửa”. Với hệ thống Hiệp ước Oasinhtơn, Mĩ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự mới ở Châu á - Thái Bình Dương do Mĩ chi phối. Kết hợp với hệ thống Hoà ước Vécxai, các hiệp ước của Hội nghị Oasinhtơn đã tạo nên Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Đó là trật tự thế giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, Mĩ giành được nhiều ưu thế nhất và “7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nô dịch” theo cách nói của Lênin. Nội bộ phe đế quốc cũng bị phân chia thành những nước thoả mãn và những nước bất mãn với hệ thống này, tạo nên mầm mống của những cuộc xung đột quốc tế trong tương lai. Như thế, sau cuộc chiến tranh thế giới kéo dài bốn năm (1914 - 1918) với những tổn thất nặng nề cho toàn nhân loại, hoà bình đã được lập lại trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn.
3.Trật tự thế giới trong thập niên 20
a) Các hội nghị quốc tế về hoà bình, an ninh tập thể và giải trừ quân bị
Bước vào thập niên 20, nhìn chung các nước tư bản đều bước vào thời kì ổn định và đạt được sự phát triển nhanh chóng về kinh tế. Sự ổn định về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản đã tác động không nhỏ đến chiều hướng phát triển của quan hệ quốc tế. Sau Hội nghị vécxai và Oasinhtơn, hàng loạt các hội nghị quốc tế về các vấn đề hoà bình, an ninh tập thể, giải trừ quân bị... đã diễn ra trong khuôn khổ hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Một trong những hội nghị quốc tế lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đến lúc bấy giờ là hội nghị quốc tế Giênôvơ (Italia) diễn ra từ 4 -10 đến 19 - 5 - 1922 với sự tham gia của đại biểu 29 nước trên thế giới (Mĩ không chính thức tham gia mà chỉ cử quan sát viên tham dự). Nước Nga Xô viết lần đầu tiên chính thức được mời tham dự. Hội nghị bàn về những vấn đề kinh tế - tài chính của tất cả các nước Châu Âu sau chiến tranh, trong đó “vấn đề Nga” là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất. Do những bất đồng về việc giải quyết những khoản nợ của Nga hoàng và chính phủ lâm thời tư sản Nga, cùng với vấn đề bồi thường chiến tranh cho nước Nga xô viết, Hội nghị Giênôvơ hầu như không đạt được kết quả đáng kể nào. Trong khi đó, bên lề hội nghị Giênôvơ, hai nước Đức và Nga đã kí kết Hiệp ước Rapalô (Rapallo) (16 - 4 - 1922) nhằm khôi phục lại các quan hệ ngoại giao, cam kết từ bỏ các khoản nợ và bồi thường chiến tranh, đồng thời áp dụng chính sách tối huệ quốc cho các quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước.
Cuối năm 1922, trước những chuyển biến quan trọng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở Thổ Nhĩ Kì, các nước tư bản phương Tây triệu tập một Hội nghị quốc tế ở Lôdan (Lausanne) - (Thuỵ sĩ) để bàn về việc kí kết một hiệp ước hoà bình mới với Thổ Nhĩ Kì và những vấn đề khác liên quan đến các eo biển ở vùng biển Hắc Hải. Hội nghị Lôdan, khai mạc ngày 20 - 11 - 1922 với sự tham gia của các quốc gia có liên quan đến những vấn đề khác nhau của hội nghị. Liên quan đến vấn đề kí hoà ước mới với Thổ Nhĩ Kì có sự tham gia của các nước Anh, Pháp, ý, Nhật, Rumani, Hi Lạp, Nam Tư và Thổ Nhĩ Kì. Hoà ước với Thổ Nhĩ Kì đã xác định lãnh thổ của nước này bao gồm vùng Tiểu á và vùng Đông Têsaly (Thessaly) ở phần châu Âu. Là một cường quốc ở vùng biển Hắc Hải, nước Nga xô viết đã kiên quyết đấu tranh để được tham gia vào việc giải quyết vần đề eo biển ở khu vực này cùng với các nước kể trên và các nước Ucraina, Grudia, Bungari. Dưới sự chi phối của các nước Anh, Pháp, ý. Hiệp ước về eo biển Đácđanen và Bôxpôrút (Danda nelles và Bosporus) ở vùng biển Hắc Hải đã được ký kết, theo đó vùng eo biển sẽ được phi quân sự hoá và các loại tàu thuyền được tự do qua lại. Hiệp ước này trên thực tế đã ảnh hưởng đến an ninh của các nước vùng biển Hắc Hải nói chung và nước Nga xô viết nói riêng. Chính vì vậy chính phủ xô viết đã không phê chuẩn hiệp ước này.
Để xây dựng một nền an ninh tập thể ở châu Âu trong khuôn khổ hệ thống Vécxai - Oa sinhtơn, một hội nghị quốc tế giữa các nước tư bản châu Âu đã được triệu tập ở Lôcácnô (Locarno) - (Anh) từ ngày 5 đến 16 - 10 - 1925. Hội nghị đã đến kí kết hệ thống hiệp ước Lôcácnô, bao gồm: Hiệp ước đảm bảo chung giữa Anh, Pháp, Đức, Italia và Bỉ, các hiệp ước Pháp - Đức, Đức - Bỉ, Đức - Tiệp, Đức - Ba Lan về trọng tài và các hiệp ước đảm bảo Pháp - Ba Lan và Pháp - Tiệp. Các hiệp ước nói trên là sự cam kết đảm bảo đường biên giới giữa các nước có liên quan theo những điều khoản của Hệ thống Vécxai. Đồng thời, cũng tại hội nghị này các nước đã đi đến thoả thuận đồng ý để nước Đức tham gia Hội Quốc Liên (tuy nhiên phải đến tháng 9 - 1926 Đức mới trở thành viên chính thức của Hội Quốc Liên). Với việc kí kết hệ thống hiệp ước Lôcácnô và việc nước Đức tham gia Hội Quốc Liên, mâu thuẫn giữa các cường quốc phương Tây dường như dịu đi và người ta đã nói tới việc mở đầu “một kỉ nguyên xích lại gần nhau trên thế giới”(1). Trong bối cảnh lòng tin vào an ninh tập thể lên đến đỉnh cao, theo sáng kiến của Pháp và Mĩ, ngày 27 - 8 - 1928 tại Pari đã diễn ra lễ ký kết Hiệp ước từ bỏ chiến tranh nói chung, còn được gọi là Hiệp ước Briăng - Kelốtgiơ (Briand - Kellogg). Hiệp ước này đã được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng và có tới 57 quốc gia kí kết tham gia, trong đó có Liên Xô. Liên Xô là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn và mong muốn Hiệp ước này sớm có hiệu lực. Mặc dù Hiệp ước Briăng- Kelốtgiơ được đánh giá là “đánh dấu đỉnh cao của làn sóng hoà bình trong thập niên 20,” nhưng thực tế cho thấy việc đặt niềm tin vào hiệp ước này là “một ảo tưởng nguy hiểm” bởi lẽ chỉ vài ngày sau khi kí kết hiệp ước Briăng - Kelốtgiơ, Anh và Pháp đã tiến hành kí kết ngay một thoả hiệp riêng rẽ vấn đề vũ khí.Những diễn biến tiếp theo trong quan hệ quốc tế thập niên 30 sẽ tiếp tục chứng minh điều đó.
b) Vấn đề thực hiện Hoà ước Vécxai kí với Đức.
Việc thực hiện các điều khoản của Hoà ước Vécxai kí với Đức chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế những năm 20. Về vấn đề bồi thường chiến tranh, Hội nghị Luân Đôn ngày 30 - 4 - 1921 đã qui định số tiền bồi thường của Đức là 132 tỉ mác vàng và Đức bắt đầu phải trả từ mùa hè năm 1921. Tuy nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế - tài chính trầm trọng diễn ra ở Đức đã khiến cho nước này không có khả năng thực tế để trả món nợ đó. Sau việc liên quân Pháp - Bỉ c hiếm đóng vùng Rua, nơi sản xuất 90% sản lượng than và 70% sản lượng gang của nước Đức, không mang lại hiệu quả trong vấn đề bồi thường của Đức, một Hội nghị quốc tế đã được triệu tập ở Luân đôn để xem xét lại vấn đề này. Hội nghị Luân đôn khai mạc ngày 16 - 7 - 1924 với sự tham gia của các đại diện Anh, Pháp, Italia, Nhật, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Rumani, và Mĩ (về danh nghĩa Mĩ chỉ tham gia với một số quyền hạn chế nhưng trên thực tế Mĩ có ảnh hưởng lớn trong Hội nghị). Hội nghị Luân Đôn đã thông qua kế hoạch Đâuét (Dawes) có giá trị trong vòng 5 năm với nội dung chủ yếu là Mĩ và Anh sẽ giúp đỡ Đức trong việc phục hồi và phát triển kinh tế - tài chính để nước này có khả năng trả được các khoản bồi thường chiến tranh theo lịch trình được Uỷ ban 5 nước Anh, Pháp Mĩ, Italia qui định như sau:
• Năm thứ nhất trả 1 tỉ mác vàng
• Năm thứ hai: 1,22 tỉ mác vàng
• Năm thứ 3: 1,2 tỉ mác vàng
• Năm thứ tư: 1,75 tỉ mác vàng
• Từ năm thứ năm: mỗi năm 2,5 tỉ mác vàng.
Với kế hoạch Đâuét, Pháp đã phải có những nhượng bộ quan trọng đối với Đức: Pháp phải rút khỏi vùng Rua (năm 1925), trong khi đó Mĩ và Anh có điều kiện mở rộng ảnh hưởng về kinh tế - tài chính vào nước Đức. Kế hoạch Đâuét đã góp phần quan trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế Đức. Những trận “mưa đô la” từ Mĩ và Anh qua kế hoạch này đã tạo điều kiện trang bị những kĩ thuật hiện đại và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Đức. Năm 1929, tổng sản lượng công nghiệp Đức đạt 113% mức trước chiến tranh, vượt qua Anh, Pháp. Cũng trong năm 1929, kế hoạch Đâuét lại được điều chỉnh theo hướng giảm bớt gánh nặng bồi thường chiến tranh cho Đức. Sau một thời gian dài thảo luận, tháng 8 - 1929, Hội nghị quốc tế của 12 nước tư bản họp ở La Hay đã chính thức thông qua kế hoạch yơng. Theo đó số tiền bồi thường của Đức giảm xuống còn 113,9 tỉ mác vàng và được trả trong thời hạn kéo dài tới 60 năm, đồng thời quân đội chiếm đóng của Pháp, Bỉ sẽ phải rút khỏi vùng Rênani trước ngày 30 - 6 - 1930. Đến đây, uỷ ban bồi thường đã chấm dứt hoạt động, thay vào đó Ngân hàng thanh toán quốc tế sẽ chịu trách nhiệm theo dõi việc trả tiền bồi thường chiến tranh của Đức. Như vậy, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Anh và Mĩ với ý đồ sử dụng Đức như một con đập ngăn làn sóng cách mạng có khả năng tràn sang phía Tây từ Liên Xô, chỉ trong một thời gian ngắn nước Đức chẳng những đã phục hồi nhanh chóng mà còn tăng cường tiềm lực kinh tế - quân sự của mình.
4.Quan hệ quốc tế của nước Nga Xô viết sau cách mạng tháng Mười ( 1917-1929)
Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Xô viết non trẻ đã tuyên bố với thế giới một chính sách đối ngoại hoà bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ giữa các quốc gia. Ngay trong đêm 26 - 10 - 1917, vào lúc 23 giờ, tại phiên họp thứ hai Đại hội II các Xô viết toàn Nga, Sắc lệnh hoà bình đã được thông qua. Với Sắc lệnh này, Nhà nước Xô viết tuyên bố “Chiến tranh đế quốc là tội ác lớn nhất chống lại loài người” và “đề nghị nhân dân tất cả các nước tham chiến và các chính phủ của họ tiến hành ngay những cuộc đàm phán về một hoà ước dân chủ và công bằng mà tuyệt đại đa số quần chúng công nhân, các giai cấp cần lao bị chiến tranh làm cho kiệt quệ, khốn đốn và vô cùng đau khổ trong các nước tham chiến, đang khao khát”(2). Đồng thời, trong công hàm gửi tới Đại sứ của các nước Đồng minh ở Nga ngày 8 - 11 - 1917, Chính phủ Xô viết “một lần nữa khẳng định về đề nghị ngừng bắn và ký kết một hoà ước dân chủ, không có thôn tính và bồi thường trên cơ sở quyền tự quyết của các dân tộc”(3). Tuy nhiên, các Chính phủ Anh, Pháp, Mĩ đã bác bỏ đề nghị hoà bình và quyết định không quan hệ với chính quyền Xô viết. Mong muốn tiến hành các cuộc thương lượng chung và kí một hoà ước chung không được thực hiện, ngày 20 - 11 - 1917 phái đoàn hoà bình của Chính phủ Xô viết đã kí kết Hiệp định đình chiến với đoàn đại biểu khối áo - Đức với thoả thuận ngừng bắn trong 10 ngày. Ngay sau đó Bộ dân uỷ ngoại giao Xô viết đã gửi lời kêu gọi tới các nước Đồng minh và Mĩ nêu rõ, “cuộc ngừng bắn tạo cơ hội cuối cùng cho các nước đồng minh tham gia các cuộc đàm phán tiếp tục và do đó tránh được mọi hậu quả của một hoà ước riêng rẽ giữa nước Nga với các nước đối địch”(1). Nhưng lời kêu gọi đó không được đáp ứng.Trong bối cảnh đó, Lênin chủ trương phải kí ngay hoà ước, nhưng Trôtxki - trưởng phái đoàn đàm phán của Nga tại Brét-Liốp Brest - Litovsk) đã không tán thành chủ trương của Lênin. Cuộc đàm phán tan vỡ và quân Đức lại bắt đầu các cuộc tấn công quân sự, đặt nước Nga Xô viết vào một tình thế cực kì khó khăn. Sau những diễn biến căng thẳng và phức tạp của tình hình chiến sự, ngày 3 - 3 - 1918 Hoà ước Brét - Litốp đã được kí kết với những điều kiện hết sức nặng nề đối với nước Nga. Theo đó, nước Nga phải cắt đi một bộ phận lãnh thổ rộng lớn (diện tích 750.000 km2 với hơn 50 triệu dân, bao gồm Ba Lan, Látvia, Lítva, Extônia, Bêlarut, Ucraina, Phần Lan) và phải trả khoản tiền bồi thường 6 tỉ mác cho Đức. Lênin gọi đây là “một hoà ước bất hạnh”, nhưng nhờ đó mà nước Nga đã rút ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốc để đương đầu với những thử thách ác liệt nhằm bảo vệ chính quyền Xô viết non trẻ. Sau này do kết quả của cuộc Cách mạng tháng 11 - 1918 và sự sụp đổ của chính quyền quân chủ ở Đức, nước Nga Xô viết đã tuyên bố xoá bỏ Hoà ước Bret - Litốp, đúng như những dự đoán của Lênin.
Cũng trong thời gian này, các nước đế quốc đã tập hợp lực lượng, phối hợp hành động với mưu đồ bóp chết nước Nga Xô viết. Cuối tháng 11 - 1917 đại diện của các nước đế quốc, trong đó bốn nước Mĩ, Anh, Pháp, Nhật giữ vai trò chủ yếu, đã họp tại Pari để bàn bạc về biện pháp thực hiện mưu đồ đó. Một tháng sau, ngày 22 - 12 - 1917 cũng lại diễn ra một hội nghị kiểu như vậy tại Pari. Đại diện các nước tư bản đã thông qua nghị quyết không công nhận nước Nga Xô viết, thoả thuận về việc ủng hộ cho các lực lượng phản cách mạng ở Nga và phân chia nước Nga thành các khu vực ảnh hưởng của mình. Theo đó, Anh sẽ nắm quyền kiểm soát vùng Cápcadơ, Acmênia, Grudia và vùng sông Đông; Pháp chiếm Betxarabia, Crưm và Ucraina; Mĩ và Nhật nắm khu vực Xibia và Viễn Đông... Tháng 12 - 1917, quân đội Rumani (được Pháp hỗ trợ) đã chiếm Betxarabia. Đầu năm 1918, quân đội Anh, Pháp, Mĩ đổ bộ lên hải cảng Muốcmăngxcơ ; quân đội Nhật, sau đó là Mĩ chiếm Vơlađivôxtốc ; quân Anh kéo đến Tuốcmênixtan và Ngoại Cápcadơ... Bộ chỉ huy tối cao các nước Hiệp ước còn sử dụng 60 ngàn binh lính của Quân đoàn Tiệp Khắc để chống phá nước Nga Xô viết. Tháng 5 - 1918, Quân đoàn Tiệp Khắc cùng với các thế lực phản cách mạng nổi loạn, chiếm được toàn bộ vùng Xibia rộng lớn và nhiều thành phố dọc sông Vônga như Xamara, Xim biếc, Cadan... Tình hình lại càng khó khăn hơn do việc quân Đức chiếm đóng vùng lãnh thổ rộng lớn chiếm tới hơn 90% sản lượng than, 70% sản lượng sắt và 1/3 chiều dài đường sắt của cả nước (theo các điều khoản của Hoà ước Brét - Litốp). Với việc cung cấp vũ khí cho các đội quân Bạch vệ, quân Đức đã cùng các nước đế quốc tham gia chống phá nước Nga. Từ năm 1919, sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, các nước đế quốc tăng cường can thiệp và giúp đỡ các lực lượng phản cách mạng ở Nga. Tính đến tháng 2 - 1919 quân đội can thiệp có mặt ở Nga đã lên đến con số 300.000 (trong đó ở miền Nam: 130.000, Viễn Đông: 150.000, miền Bắc: 20.000). Trải qua ba năm chiến đấu cực kì gian khổ và khốc liệt, quân đội và nhân dân Xô viết đã lần lượt đánh bại các lực lượng thù trong, giặc ngoài, giữ vững nền độc lập, tự chủ của đất nước. Cũng trong thời gian này, trung thành với những nguyên tắc của Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc ở Nga (công bố ngày 2 - 11 - 1917), Nhà nước Xô viết đã công nhận quyền tách ra của Ucraina, công nhận độc lập của Phần Lan, Ba Lan ; xoá bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng của Chính phủ Nga hoàng trước đây đối với Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì, Ba Tư (Iran) và nhiều nước khác. Trong quan hệ quốc tế, Chính phủ Xô viết đã phản đối gay gắt tính chất nô dịch của các hoà ước, nhất là Hoà ước Vécxai. Lênin cho rằng: “Đấy không phải là hoà ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao, buộc nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận”(1). Trong lúc các cường quốc phương Tây thi hành chính sách thù địch, bác bỏ sự tham dự của nước Nga Xô viết tại hai Hội nghị Vécxai và Oasinhtơn, ngày 28 - 11 - 1921, Chính phủ Xô viết đã gửi công hàm tới các chính phủ Anh, Pháp, Mĩ, ý, Nhật nêu rõ những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình của nước Nga với phần còn lại của thế giới. Năm 1922 lần đầu tiên được mời chính thức tham dự Hội nghị quốc tế Giênôvơ, đoàn đại biểu Xô viết đã đưa ra đề nghị về việc thiết lập các quan hệ ngoại giao và kinh tế, thực hiện chung sống hoà bình và tiến hành giải trừ quân bị. Nước Nga sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hợp tác cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình. Hội nghị Giênôvơ thất bại, tuy vậy việc Nga và Đức ký kết Hiệp ước Rapalô đã giáng một đòn chí mạng vào âm mưu bao vây, cô lập nước Nga của các cường quốc phương Tây, đồng thời đánh dấu một thắng lợi ngoại giao cực kỳ quan trọng của Nhà nước Xô viết. Đức trở thành nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Nga. Những năm tiếp theo, nước Nga Xô viết (từ tháng 12 - 1922 là Liên Xô) đã từng bước phá vỡ chính sách cô lập của các nước phương Tây và khẳng định vị trí quốc tế của mình. Sau Đức, Anh là nước tư bản thứ hai ở châu Âu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Liên Xô ngày 2 - 2 - 1924. Sau Anh 5 ngày, Italia tuyên bố công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Liên Xô (7 - 2 - 1924). Tháng 10 - 1924, sau khi vượt qua không ít những bất đồng trong nội bộ, chính phủ Pháp cuối cùng cũng chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Cũng trong năm 1924, nhiều nước khác cũng công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô: NaUy (13 - 2), áo (25 - 2), Hi Lạp (8 - 3), Đan Mạch (18 - 6), Anbani (6 - 7), Hunggari (5-9)... ở châu á, ngày 31-5-1924, đại diện chính phủ Liên Xô và chính phủ Bắc Kinh đã chính thức kí kết Hiệp ước Xô - Trung, theo đó Trung Quốc công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đồng thời Liên Xô cũng tuyên bố từ bỏ tất cả những đặc quyền mà chính phủ Nga hoàng trước đây đã buộc Trung Quốc phải kí kết. Sau Trung Quốc, ngày 25 - 1 - 1925, Nhật Bản - một cường quốc ở châu á - đã chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Như vậy, trải qua hơn 7 năm tồn tại và khẳng định vị thế của mình, Liên Xô đã được hơn 20 quốc gia trên thế giới, trong đó có các cường quốc Anh, Pháp, Italia, Nhật chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao. Mặc dù mối quan hệ này còn phải trải qua nhiều bước thăng trầm đầy khó khăn, căng thẳng nhưng thực tế đã khẳng định vai trò, uy tín ngày càng cao của Liên Xô và những thắng lợi to lớn của nền ngoại giao Xô viết non trẻ.
( Nguồn : ĐH Sư phạm Hà Nội )