Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
TỔNG THỒNG ĐẦU TIÊN CỦA NƯỚC MĨ
Ngày 30/4/1789, trong rền vang tiếng đại bác và từng hồi chuông nhà thờ đổ dồn, đứng trên ban công toà nhà lớn ở góc phố Wall của Thủ đô lâm thời New York, trước sự hân hoan ngưỡng mộ của đông nghịt quần chúng, George Washington long trọng tuyên đọc diễn văn nhậm chức Tổng thống Hợp chúng quốc, chính thức khai sinh một mô hình nguyên thủ quốc gia hoàn toàn mới lạ trong lịch sử chính trị thế giới - chế độ tổng thống Mỹ. Bài diễn văn lời lẽ đơn sơ, buổi lễ cũng diễn ra ngắn ngủi, nhưng nó mang ý nghĩa tinh thần thật lớn lao và thiêng liêng. Nó là kết quả của cả một giai đoạn lịch sử phức tạp, gói ghém biết bao cố gắng, trí tuệ, tình cảm, mồ hôi, xương máu... trong khát vọng tự do, dân chủ, công lý, tiến bộ của toàn thể nhân dân Mỹ. Sau một thế kỷ rưỡi ồ ạt thăm dò, định cư, khai phá, xung đột, chinh phục và dựng xây, dân di cư châu Âu đã trở thành người chủ vững chắc của dải đất rộng lớn trù phú phía đông sông Mississippi. Bằng cố gắng bành trướng, đến năm 1763, Nhà nước Anh đã thiết lập được quyền lực của mình trên toàn bộ miền đất gồm 13 bang này. Quan hệ giữa 13 thuộc địa Bắc Mỹ với Đế quốc Anh tuy là hậu quả của lịch sử, nhưng không phù hợp với thực tế bấy giờ. Phơi phới sức trẻ và khao khát tự do, những người dân ngày càng cảm thấy ngột ngạt khi mà miền đất mới hùng mạnh, đầy tiềm năng của họ phải phụ thuộc vào một hòn đảo xa xôi, già cỗi và bảo thủ với chính thể quân chủ chuyên chế. Quan hệ đang dần trở nên gượng ép, hình thức và lỏng lẻo kia đột ngột suy thoái trầm trọng khi chính quyền Anh áp dụng hàng loạt biện pháp nhằm siết chặt sự cai quản. Việc hạn chế tự do chính trị và bòn rút kinh tế các thuộc địa Bắc Mỹ đã thổi bùng lên ngọn lửa chống Anh. Tháng 9/1774, dân cư 13 bang nhóm họp Đại hội Lục địa lần thứ nhất, kêu gọi Hoàng đế và Nghị viện Anh thay đổi chính sách đối với Bắc Mỹ. Không được đáp ứng, họ tổ chức tiếp Đại hội Lục địa lần thứ hai vào tháng 5/1775, thành lập quân đội để đấu tranh vũ trang.
Ngày 4/7/1776, Đại hội Lục địa thông qua Tuyên ngôn Độc lập, cắt đứt mọi quan hệ phụ thuộc với Vương quốc Anh. Cuộc chiến tranh giành độc lập kéo dài từ năm 1776 cho đến năm 1783 và kết thúc bằng Hiệp ước Paris, trong đó Anh buộc phải công nhận nền độc lập của Hợp chúng quốc Mỹ gồm 13 bang thuộc địa trước đây. Sau khi tuyên bố độc lập, Đại hội Lục địa hoạt động như một cơ quan đại diện chung của các bang và gấp rút soạn thảo kế hoạch cho một liên bang. Đến ngày 1/3/1781, tất cả các bang đã phê chuẩn, chấp thuận bản Điều lệ Hợp bang (The Articles of Confederation), theo đó các bang thống nhất lại với nhau dưới sự điều hành của Hội đồng Hợp bang. Gồm thành viên là đại biểu của tất cả các bang, hoạt động theo nguyên tắc tập thể (các quyết định phải được đa số bang đồng ý - đặc biệt phải được không dưới 9 trên 13 bang tán thành nếu là quyết định quan trọng), Hội đồng Hợp bang có chức năng lãnh đạo hoạt động đối ngoại và quốc phòng, giải quyết những tranh chấp lãnh thổ giữa các bang, quy định tiêu chuẩn đo lường, tiền đúc, bưu chính và quan hệ với người da đỏ, còn các bang vẫn duy trì sự độc lập và chủ quyền đối với tất cả các lĩnh vực khác. Hội đồng Hợp bang, như vậy, mang dáng dấp của một quốc hội với chức năng đại diện và lập pháp hạn chế. Tuy đã tập hợp được các bang trong một cộng đồng chính trị và đưa ra nhiều biện pháp nhằm củng cố, phát triển liên bang, nhưng do thiếu vắng cả hệ thống cơ quan hành pháp lẫn tư pháp, nó không thiết lập được quyền lực quốc gia đủ mạnh để buộc các bang thi hành luật chung, áp đặt mức thuế, điều chỉnh ngân sách, kiểm soát thương mại, xây dựng quân đội .v.v... Hậu quả là đến đầu năm 1786, nước Mỹ suy sụp trầm trọng về mọi phương diện và liên bang bị đe dọa bởi nguy cơ tan rã. Những người có trách nhiệm liền quyết định phải triệu tập một hội nghị để kiếm tìm giải pháp cứu vãn, trong đó chắc chắn phải thiết lập một mô hình nhà nước liên bang hợp lý với nòng cốt là chế độ nguyên thủ quốc gia mạnh để khẳng định và tập trung quyền lực, cùng một hệ thống cơ quan hành pháp mạnh để quản lý xã hội hữu hiệu. Hội nghị khai mạc cuối tháng 5/1787 tại Philadelphia với sự tham dự của 55 đại biểu các bang (trừ Rhole Island) - phần lớn đều là những người ưu tú, còn khá trẻ nhưng giàu tri thức và kinh nghiệm chính trị1, đặc biệt đều có chung ý niệm về một liên bang thống nhất và hùng mạnh hơn. Họ tranh luận rất sôi nổi, thẳng thắn... để cố gắng cùng nhau soạn thảo ra một hiến pháp (constitution) làm nền tảng pháp lý cơ bản cho hệ thống chính trị tương lai của Hợp chúng quốc. Chế độ tổng thống Mỹ được đặc biệt chú ý và việc nó được quy định trong Hiến pháp cũng như áp dụng trong thực tế sau này bắt nguồn từ mớ quan điểm đa dạng và sự thảo luận nghiêm túc mà sôi động (đôi khi đến gay gắt) của các đại biểu: Ngày 25/5/1787, Hội nghị chính thức bắt đầu. Đoàn đại diện Virginia - bang trội nhất và có truyền thống chính trị nhất - chủ động đề xuất một dự án (gọi là Kế hoạch Virginia)2 nhằm thay thế Hội đồng Hợp bang bởi nhà nước trung ương mới gồm một cơ quan lập pháp toàn quốc, một cơ quan hành pháp toàn quốc và một cơ quan tư pháp toàn quốc. Cơ quan hành pháp - mà gồm cả một vài thành viên của cơ quan tư pháp - sẽ do cơ quan lập pháp chỉ định, có quyền xem xét, chấp thuận hay bác bỏ những đạo luật do cơ quan lập pháp toàn quốc hoặc các cơ quan lập pháp bang thông qua... Sau mấy ngày thảo luận về những vấn đề bức xúc nhất của liên bang, ngày 1/6, Hội nghị chuyển sang xem xét Mục 7 của Kế hoạch Virginia liên quan đến cơ quan hành pháp. Mục này đề nghị "cử một vị tổng thống" do cơ quan lập pháp toàn quốc bầu ra, để hoạt động trong một thời gian (không thấy nói rõ); tổng thống được bầu lại nhiệm kỳ thứ hai và chỉ được hưởng mức lương cố định trong suốt thời gian đương chức; "ngoài quyền thi hành pháp luật, tổng thống còn được hưởng quyền chấp hành mà liên bang từng giao cho Hội đồng Hợp bang" . Đại biểu Wilson liền đề xuất rằng cơ quan hành pháp chỉ gồm một nhân vật thôi và được đại biểu Pinckney ủng hộ. Sau một hồi tạm nghỉ, Chủ tịch Hội nghị Washington hỏi có nên nêu lại vấn đề không. Đại biểu Franklin cho đó là một điểm rất quan trọng và ông hy vọng các vị đại biểu sẽ trình bày ý kiến về vấn đề này trước khi đem ra tranh luận. Phần đông đại biểu do dự vì họ không thể nào nghĩ tới một vị tổng thống duy nhất mà không liên tưởng đến một vị vua. Cuộc cách mạng giành độc lập chẳng những đã chống lại nước Anh mà còn phủ nhận Vương triều Anh. Hoàng đế Anh George III bấy giờ là biểu tượng chuyên chế khét tiếng mà nhân dân Mỹ căm ghét. Không đại biểu nào tin rằng họ có thể quay lại chế độ quân chủ hoặc một bản hiến pháp ủng hộ chế độ đó lại được toàn dân Mỹ chấp thuận. Nhiều người thấy rõ nền quân chủ hại nhiều hơn lợi nhưng vẫn e ngại việc một vị tổng thống duy nhất dễ trở nên độc tài nếu ông ta đứng đầu một nền cộng hoà còn non trẻ, nhiều thành phần và nhiều biến động - những yếu tố thuận lợi thường dẫn đến kết cục là sự chuyên chế trung ương... Đại biểu Rutledge mở màn cuộc tranh luận bằng tuyên bố rằng các đại biểu được quyền tự do giãi bày quan điểm của họ mà không hề bị ràng buộc gì sau này. Riêng ông, ông tán thành có một vị tổng thống duy nhất, nhưng không muốn cho người đó quyền tuyên chiến và quyền ký kết điều ước quốc tế. Đại biểu Sherman cho rằng "tổng thống" chẳng qua là một công chức thuộc cơ quan lập pháp toàn quốc và cơ quan này - có nhiệm vụ chỉ định tổng thống - được quyền tự do chỉ định một hoặc nhiều vị tuỳ theo trường hợp. Wilson tán thành "một vị tổng thống duy nhất" vì chỉ có vậy tổng thống mớigánh vác được trọng trách một cách xứng đáng, linh động và đầy nghị lực; còn vài quyền do Hoàng đế Anh nắm giữ trước kia - như quyền tuyên chiến và ký kết điều ước - đều thuộc quyền lập pháp, không nên ban cho tổng thống Mỹ theo Kế hoạch Virginia. Đại biểu Gerry thì ủng hộ chủ trương lập thêm một hội đồng bên cạnh tổng thống để tạo ra sự khách quan và tín nhiệm. Đại biểu Randolph kịch liệt phản đối sự thống nhất trong cơ quan hành pháp, cho đấy là mầm mống của chế độ quân chủ và theo ông, bộ máy hành pháp liên bang phải gồm nhiều nhân vật - rất có thể là 3 người. Hội nghị vẫn chưa quyết định gì về sự lựa chọn phương án một hay nhiều vị tổng thống, mà chỉ nhất trí nên thành lập một cơ quan hành pháp toàn quốc. Tiếp theo, các đại biểu bàn tới vấn đề quyền hạn dành cho tổng thống. Ngày hôm đó, hội nghị thoả thuận rằng cơ quan hành pháp phải có quyền "thi hành pháp luật trong nước". Các đại biểu hoãn lại việc nghiên cứu phương pháp bầu cử để thảo luận thời gian nhiệm kỳ tổng thống. Lúc bỏ phiếu ủng hộ đề nghị nhiệm kỳ 7 năm, 5 bang bỏ phiếu thuận, 4 chống và 1 trắng (Massachusetts). Đến khi hội nghị bàn tới vấn đề "cách thức chỉ định", Wilson nhấn mạnh rằng tổng thống phải do dân bầu, cũng như đối với cơ quan lập pháp toàn quốc vậy. Đại biểu Mason rất tán đồng, nhưng e việc đó khó thực hiện được, tuy nhiên ông cũng hy vọng rằng Wilson sẽ có thời gian để nghĩ ra biện pháp thích hợp hơn. Ngày hôm sau (2/6), Wilson đưa ra một chương trình với mục đích cho nhân dân có thể lựa chọn tổng thống mà không cần sự can thiệp của các tiểu bang hoặc của cơ quan lập pháp toàn quốc. Theo đó, chia các tiểu bang ra thành nhiều quận, cho các cử tri bỏ phiếu bầu hội viên viện thứ nhất của cơ quan lập pháp toàn quốc rồi để những hội viên này lựa chọn những người xứng đáng trong các quận đi bỏ phiếu lập ra cơ quan hành pháp toàn quốc. Đồng thời, cho các cử tri bỏ phiếu theo bang - chứ không phải theo đầu người - để quyết định nên có một hay nhiều vị tổng thống. Chương trình này của Wilson bị phủ quyết phũ phàng với 8 phiếu chống 2 phiếu thuận (mặc dù sau này nội dung cơ bản của nó được Hiến pháp ghi nhận và áp dụng).
Đến khi bàn tới vấn đề lương bổng, Franklin đề nghị rằng tổng thống sẽ được thanh toán chi phí cần thiết, nhưng không được hưởng lương hoặc tiền thưởng. Ông liệt kê một số viên chức cao cấp ở Pháp và Anh tuy chẳng có lương bổng gì mà công việc vẫn được thi hành chu đáo. Ông cũng nhắc lại phong tục của giáo dân Quaker hơn một thế kỷ trước đó từng ra phục vụ không công cho đoàn thể ở những chức vị khó nhọc. Ông còn minh hoạ bằng việc Washington suốt 8 năm (1775-1783) đảm nhiệm chức Tổng Chỉ huy Quân đội Lục địa Mỹ mà không hề hưởng đồng lương nào và khẳng định sẽ luôn tìm được những người như vậy ở Hợp chúng quốc. Đại biểu Hamilton ủng hộ và tăng cường quan điểm của Franklin bằng những lý lẽ sắc sảo. Tuy nhiên, phần đông đại biểu cho việc tổng thống không hưởng lương bổng là thiếu thực tế và coi Franklin giống "một triết gia cổ hủ hơn là một chính khách hiện đại" trong vấn đề này! Trở lại vấn đề tổng thống cá nhân hay tập thể, khi Rutledge đề nghị (và Pinckney ủng hộ) rằng chỉ nên lập một vị tổng thống thôi thì Randolph kiên quyết phản đối với 4 lý do: một là, nhân dân luôn chống lại mọi hình thức quân chủ trá hình; hai là, sự thống nhất không cần thiết lắm, và nhiều nhân vật cùng lãnh đạo cơ quan hành pháp cũng vẫn có khả năng để thực hiện các mục tiêu chung; ba là, sự tín nhiệm cần thiết sẽ không bao giờ được đặt hết cả vào một vị tổng thống duy nhất; bốn là, nên chỉ định một người cự ngụ gần trung tâm quốc gia làm tổng thống, và do đó những nơi xa xôi sẽ không được hưởng quyền bình đẳng. Randolph đề nghị nên có một hội đồng tổng thống gồm 3 nhân vật "thuộc các khu vực khác nhau trong nước". Cuộc bàn cãi tiếp diễn vào ngày 4/6 khi Wilson đứng lên chỉ trích Randolph là đã quá đề cao mục đích được lòng người mà ít chú ý đến tính thực tế và hiệu quả của vấn đề. Wilson tin chắc rằng nhân dân - sau khi thấy rõ "một vị tổng thống duy nhất đâu phải là một ông vua" - sẽ nhận thấy chế độ tổng thống cá nhân đâu có gì gọi là quân chủ trá hình. Trong cả 13 bang, đều có một vị nguyên thủ duy nhất ở mỗi bang (với tư cách thống đốc hoặc chủ tịch) mà "chưa bang nào nghĩ tới chuyện lập 3 nguyên thủ một lúc cả" . Cơ quan hành pháp toàn quốc nếu có 3 vị nguyên thủ cùng lúc thì sẽ chẳng còn gìlà sức mạnh và sự ổn định nữa!... Đến khi biểu quyết, 3 bang (New York, Delaware, Maryland) bỏ phiếu chống, còn 7 bang khác đều tán thành mô hình tổng thống cá nhân. Tổng thống có quyền ngừng thi hành một đạo luật nào đó trong nhiều năm - đề xuất này của đại biểu Butler chỉ được Franklin ủng hộ, còn các đại biểu khác đồng loạt phản đối. Theo gợi ý của Gerry, mọi người dần nhất trí (trừ bang Connecticut và Maryland) là tổng thống có quyền phủ quyết một đạo luật mà đạo luật đó sau này chỉ có thể được thông qua với sự tán thành của ít nhất 2/3 số hội viên có mặt trong từng viện của cơ quan lập pháp toàn quốc. Nhưng Mason bất bình ra mặt: "Về vấn đề này chúng ta đã đi quá xa. Chúng ta hiện giờ không thành lập một chính phủ kiểu Anh nữa, mà đang thành lập một chế độ quân chủ nguy hiểm hơn nhiều ... Liệu các ngài có định dọn đường cho một chế độ quân chủ cha truyền con nối chăng? Liệu các ngài có cho rằng nhân dân sẽ hài lòng thấy sự thay đổi này chăng? Nếu vậy tôi xin mạn phép nói rằng: các ngài đã lầm!..." . Mason, cũng như phần lớn phái cao tuổi trong Hội nghị, luôn phản đối chế độ quân chủ và sự tăng cường quyền hành cho tổng thống. Còn phái trẻ tuổi - trước sự nhu nhược cùng thực trạng lộn xộn của liên bang - lại muốn một vị tổng thống đầy uy quyền và họ hoàn toàn tin tưởng rằng ý chí của nhân dân có thể kiềm chế được tổng thống. Dù sao, cả hai phái đều chung quan điểm là chế độ tổng thống Mỹ vừa phải khác hẳn chế độ quân chủ, vừa phải ngăn chặn được nguy cơ xuất hiện một bạo chúa cộng hoà. Ngành hành pháp phải đủ mạnh để thực thi quyền lực, duy trì liên bang và đảm bảo an ninh; nhưng lại không được quá mạnh khiến có thể ảnh hưởng xấu đến quyền tự do, dân chủ của mọi người. Những ngày tiếp theo, Hội nghị bàn bạc các lĩnh vực khác và thảo luận về dự án do đoàn đại biểu bang New Jersey đề xuất. Đến ngày 18/6, Hamilton phát biểu rất dài (liền khoảng 5-6 giờ!), phản đối cả Kế hoạch Virginia lẫn Kế hoạch New Jersey và đưa ra dự án của mình. Theo đó, về phần hành pháp, trưởng ngành hành pháp sẽ có quyền hạn rộng lớn như một vị vua - kể cả quyền phủ quyết tuyệt đối các đạo luật, bổ nhiệm thống đốc bang và giữ nhiệm kỳ rất lâu dài. Kế hoạch Hamilton nhìn chung không được ủng hộ và thời gian sau đấy, mỗi khi bàn đến chế độ tổng thống, các đại biểu lại quay về Kế hoạch Virginia, đồng thời tham khảo thêm những quy định về chế độ thống đốc trong hiến pháp các bang - đặc biệt là Hiến pháp bang Massachusetts. Ngày 26/7, về cơ bản, Hội nghị thảo luận xong mọi vấn đề và cho soạn một dự án Hiến pháp căn cứ vào kết quả thu được. Ngày 6/8, bản Dự án Hiến pháp Hoa Kỳ đem trình trước toàn thể hội nghị, bao gồm nhiều quy định hơi khác so với sự mong đợi của các đại biểu. Dự án cũng đặt những tên mới cho các cơ quan nhà nước liên bang:"cơ quan lập pháp toàn quốc" gọi là "Quốc hội", "viện thứ nhất" là "Hạ (Nghị) viện", "viện thứ hai" là "Thượng (Nghị) viện", "cơ quan tư pháp toàn quốc" là "Toà án Tối cao"...; riêng "trưởng ngành hành pháp" đổi là "Tổng thống Hợp chúng quốc Mỹ (Hoa Kỳ)" và được gọi là "Ngài"! Ngày 7/8, Hội nghị một lần nữa xem xét kỹ càng từng điều khoản của Dự án Hiến pháp. Riêng chế độ tổng thống quy định trong toàn bộ Điều II và một phần Điều I được các đại biểu chấp thuận ngay, không cần tranh luận, tuy có phải sửa đổi, bổ sung tí chút. Ngày 17/9, Hiến pháp được Hội nghị thông qua rồi chuyển tới các bang để trưng cầu việc chấp thuận. Ngày 18/9/1787, Hội nghị bế mạc. Hiến pháp chính thức có hiệu lực từ ngày 21/6/1788 - khi bang thứ 9 là New Hampshire phê chuẩn (nhưng phải đến ngày 29/5/1790, bang thứ 13 là Rhode Island - vốn không cử đại biểu tham gia Hội nghị - mới phê chuẩn). Ngay sau khi Hiến pháp có hiệu lực, chính quyền liên bang và các bang đã khẩn trương chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên. Từng làm Tổng Chỉ huy Quân đội Lục địa rồi Chủ tịch Hội nghị Lập hiến Philadelphia, là vị anh hùng dân tộc mà uy danh đã lừng lẫy đến mức huyền thoại, Washington (công dân bang Virginia) được toàn bộ 69 đại cử tri của 10 bang bầu làm Tổng thống vào ngày 4/2/1789 (các bang North Carolina và Rhode Island vẫn chưa phê chuẩn Hiến pháp nên không tham gia bầu cử; còn bang New York đã không thể quyết định kịp nên không gửi đại cử tri đi bầu). John Adams (công dân bang Massachusetts) giành được 34 phiếu, trở thành Phó Tổng thống. Cuộc bầu cử tuy không toàn diện, lại gặp nhiều trục trặc do thiếu kinh nghiệm, nhưng vẫn thành công, trở thành cuộc thiết lập nguyên thủ quốc gia mới mẻ, dân chủ, tiến bộ nhất trên thế giới thời bấy giờ. Và buổi lễ nhậm chức lịch sử diễn ra ngày 30/4/1789...