huyvietnamhoc
New member
- Xu
- 0
SÔNG LỤA - THU BỒN
Sông Thu Bồn với diện tích lưu vực rộng 10,350km2, là một trong những lưu vực sông nội địa lớn nhất Việt Nam. Sông bắt nguồn từ khối núi Ngọc Linh thuộc huyện Dak Glei, tỉnh Kon Tum và đổ ra biển tại cửa Đại, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, một nhánh chảy vào sông Vĩnh Điện để đổ nước vào sông Hàn, Đà Nẵng. Trước khi đổ ra biển tại cửa Đại, một phần nước của sông chảy vào sông Trường Giang để đổ ra vịnh An Hòa Tam Quang, huyện Núi Thành. Sông Thu Bồn cùng với sông Vu Gia, hợp lưu tại Đại Lộc tạo thành hệ thống sông lớn có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và tâm hồn người Quảng. Phần lớn diện tích lưu vực sông chảy trong địa phận Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, phần thượng nguồn một phần nằm trên đất Kon Tum và Quảng Ngãi.
Lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn có ranh giới với các lưu vực:
- Phía Bắc giáp lưu vực sông Cu Đê.
- Phía Nam giáp lưu vực sông SêSan, sông Trà Bồng.
- Phía Đông giáp biển Đông và lưu vực sông Tam Kỳ
- Phía Tây giáp với Lào
Qua chặng đường dài hàng trăm cây số, khi ầm ầm băng qua các ghềnh thác, khi thênh thang băng qua những đồng ruộng phì nhiêu, làng mạc trù phú, khi ghé qua những vùng kỹ nghệ phát đạt, mỗi một đoạn sông biểu hiện một dáng dấp riêng. Nhưng bất cứ ở đâu, Thu Bồn cũng là một dòng sông hài hòa sự kết hợp giữa vẻ đẹp của thiên nhiên với sự phong phú của cải được bàn tay và khối óc của người đất Quảng gây dựng.Từ Trà Mi, dòng sông đổ về Tiên Phước. Phía dưới Tiên Phước có Thác Cả, nước đổ trắng xóa như một dải thắt lưng lụa bạch trên nền áo xanh của rừng núi. Nơi đây không gian tĩnh mịch, chỉ đôi khi mới có một đàn voi xuất hiện lội qua sông, làm náo động dòng nước ào ào. Qua khỏi Trà Linh, sông lượn mình giữa hai ngọn núi cao sừng sững như bức tường gọi là hòn Kẽm. Chân núi hòn Kẽm có nhiều phiến đá trắng, trên đó còn lưu giữ những chữ cổ Chiêm Thành. Đến Giao Thủy, sông Thu Bồn đón nhận nhánh sông Vu Gia từ Hà Tân đổ về để cùng chảy về phía Nam, rồi chia làm hai nhánh bao bọc lấy vùng Gò Nổi. Từ đó hai dòng chảy qua Chợ Củi, Câu Lâu và cuối cùng hòa nhập để ra Cửa đại. Những vùng bãi bồi ở Duy Xuyên, Điện Bàn có sông Thu Bồn chảy qua còn lưu giữ những câu chuyện nên thơ và cảm động.
Dân gian vẫn truyền nhau câu chuyện nàng thôn nữ Chiêm Sơn. Chúa thượng Nguyễn Phước Lan lúc còn trẻ sống với cha là Thụy Quận Công đang trấn thủ Quảng Nam, tại dinh trấn Thanh Chiêm. Vào một đêm trăng, công tử Nguyễn Phước Lan cùng cha thả thuyền rong chơi trên dòng Thu Bồn. Giữa đêm trăng thanh vắng bỗng có tiếng hát véo von từ một nương dâu vọng lại. Thuyền rồng vội ghé đậu ở ghềnh điện Châu. Và dưới bãi dâu xanh nhuộm ánh trăng vàng, Nguyễn Phước Lan - sau này là Chúa thượng, đã bàng hoàng trước sắc đẹp của cô thôn nữ họ Đoàn, người huyện Tiên Phước, thuộc phủ điện Bàn. Chúa cho rước về cung và cô hái dâu họ Đoàn bên dòng sông Thu Bồn kia trở thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu, mẹ của Thái Tôn Nguyễn Phước Tần tức chúa Hiền. Hiện nay, ở Chiêm Sơn (Duy Xuyên), về phía Tây Gò Cốc Hùng, còn có lăng Vĩnh Viễn, thờ bà Hiếu Chiêu hoàng hậu. Dòng sông Thu Bồn cũng sâu sắc lắng đọng trong ký ức và tình cảm của nhiều văn sĩ đất Quảng. Trong bài thơ "Từ vùng đất quê hương", nhà văn Nguyễn Văn Bổng viết về dòng sông Thu Bồn: "Từ làng tôi đi Hội An thì buổi chiều ra bến trên sông Thu Bồn, xuống đò. Tối, đò nhổ, rời bến, lúc chống chèo, lúc căng buồm chạy phăng phăng trên mặt nước. Nửa đêm thức giấc, chập chờn trong tiếng hò. Tiếng hò văng vẳng đâu sau lái đò mình; ơi ới trên những chiếc khác cùng xuôi dòng sông, giọng nam nữ đối đáp nhau vang vọng giữa trăng nước...Sáng hôm sau mở mắt, đò đã cắm sào bến Hội An. Hai bên sông, bên này thị xã, bên kia Cẩm Phô, tiếng gà gáy. Trên mặt nước và đường phố tiếng rao cháo hến, khoai Tiên đỏa, mì Quảng, bánh mì mật nạm (sốt vang)". Con sông Thu Bồn có màu nước trong xanh, có bãi dâu bạt ngàn, có núi Thạch Bích, có nhiều câu hò, câu hát.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), sông Thu Bồn là một ranh giới: Hữu ngạn trở lên phía Tây là vùng tự do; tả ngạn về phía đông là vùng tạm chiếm. Biết bao cuộc chiến đấu ác liệt chống thực dân Pháp và xâm lược Mỹ đã diễn ra hai bên bờ và ngay cả trên sông này.Không kể bao nhiên chiến sĩ cách mạng, bao nhiêu bộ đội, dân quân du kích, những người dân thường yêu nước đã vĩnh viễn nằm lại trên những mảnh đất gắn bó với dòng sông. Những con người ấy trở nên bất tử. Còn dòng sông Thu Bồn thì mãi mãi tươi đẹp, như một dòng mạch tràn đầy sinh lực của mảnh đất Quảng Nam - Đà Nẵng.
Trên dòng chảy của mình, sông Thu Bồn đã lần lượt sinh ra đến bốn địa chỉ lịch sử - văn hóa, trong đó, hai địa danh đã trở thành những giá trị tinh thần của nhân loại...
Cũng như sông Hồng, dòng sông mẹ sinh ra kinh đô Thăng Long nghìn năm văn vật, nay là thủ đô Hà Nội đang rộn rã chuẩn bị cho đại lễ kỷ niệm một nghìn năm sinh nhật của mình; cũng như sông Hương, dòng sông Thơ đã sinh ra Huế; sông Sài Gòn sinh ra thành phố cùng tên, Thu Bồn - một dòng sông hoang dã tưởng chừng chìm đắm trong cõi vô danh, ấy vậy mà, trên dòng chảy của mình đã lần lượt sinh ra đến bốn địa chỉ lịch sử - văn hóa, trong đó, hai địa danh đã trở thành những giá trị tinh thần của nhân loại.
Từ những con suối trên địa bàn các xã Trà Nam, Trà Don, Trà Cang, Trà Vân... giữa những cánh rừng đại ngàn nức mùi hương quế của huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam, đã khởi nguyên một dòng sông, mà phải chăng làn nước đượm hương của nó khi đổ về xuôi đã giúp cư dân trên hai bờ cảm hứng siêu phàm để sáng tạo ra những kiệt tác kiến trúc vĩnh hằng?
Dòng suối nhỏ ban đầu mang một cái tên rừng núi: “dak Di ” gom nước về xuôi. Khi qua địa bàn Tiên Phước, Hiệp Đức, suối đã thành sông, tuy vẫn còn mang một cái tên quê mùa, dân dã: “sông Tranh”. Phải đến địa bàn Quế Sơn, Duy Xuyên, mới trở thành một dòng sông chững chạc với danh xưng “Thu Bồn”, sẵn sàng hợp lưu với một dòng sông chị em: “sông Vu Gia” từ phía Bắc đổ về trên đất Đại Lộc, thành một dòng chảy văn hóa, để sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật tồn tại đến muôn đời.
Thánh địa Mỹ Sơn là một mỹ danh trong chuỗi địa danh văn hóa đó.
Là quần thể di tích Chămpa lớn nhất còn giữ được, Mỹ Sơn, sau những tàn phá của thời gian, của chiến tranh, của đổi thay dâu bể, những gì may mắn còn sót lại chỉ đủ giúp chúng ta, những chứng nhân hậu thế kinh ngạc, sửng sốt trước tư duy uyên áo về vũ trụ, nhân sinh của người nghệ sĩ Chămpa.
Những thủ pháp tài hoa, bằng chứng của một năng lực sáng tạo vô hạn thông qua ngôn từ của gạch, đá còn lại đến nay chắc chắn chỉ là bóng dáng nhạt mờ của một thời hoàng kim lộng lẫy. Tư liệu của các nhà nghiên cứu cho biết dưới triều vua Giaya Indravarman IV trị vì khoảng giữa thế kỷ XII, những khối đá nhọn trên chóp các ngôi tháp lớn nơi thánh địa Mỹ sơn đều được bọc vàng. Còn những hiện vật đang lưu giữ ở các Bảo tàng Chàm (Đà Nẵng), Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế, Bảo tàng Lịch sử Việt nam (Louis Finot) ở Hà Nội, TP.HCM, Trường Viễn Đông Bác cổ ở Paris, bằng đất nung hay bằng sa thạch cũng chỉ là những mảnh vụn rời rạc, câm lặng của một quá khứ huy hoàng!
Người Chăm - một trong những thành viên của cộng đồng dân tộc Việt - đã từng xây dựng trên dải đất miền Trung này một nền văn minh rực rỡ và phóng tâm để lại bên sông Thu Bồn một chứng tích huy hoàng mà chúng ta ngày nay còn may mắn được chứng kiến.
Đến thánh địa Mỹ Sơn, người giàu tưởng tượng vẫn còn có thể hình dung quang cảnh ngày thánh lễ với hàng đoàn voi ngự lộng lẫy trong phục sức lấp lánh kiệu vàng, trong tiếng cồng chiêng âm vang rộn rã, và bao tiên nữ hóa thân thành những đoàn Apsara rực rỡ xiêm y đang bay lượn trong những điệu múa của thần linh bên chân tháp cổ.
Hối hả xuôi về biển cả, trước khi đổ ra đại dương, Thu Bồn còn kịp dừng chân sáng tạo để lại cho đời sau một trong những đô thị cổ đẹp nhất Việt Nam hiện còn giữ được: “Thị xã Hội An”.
Sử cũ chép: “… Năm Giáp Tý (1744) (chúa Nguyễn) mới xưng vương hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, và định lại triều phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh” (Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim - NXB Văn hóa - Thông tin - 2002 - Trg 358 ). Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, mở rộng giao thương, xây dựng Hội An thành hải khẩu buôn bán với nước ngoài.
“Bấy giờ đất phía Nam tuy độc lập nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua và vẫn không đặt quốc hiệu. Nhưng người ngoại quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng Nam quốc. Đấy là vì ở Quảng Nam có phố Hội An (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán nên mới lấy tên Quảng Nam mà gọi” (VNSL - Sách đã dẫn - Trg 359).
Nằm trên bờ tả sông Thu Bồn, cách cửa Đại (còn gọi là cửa Đợi) khoảng 4km, giao thông thủy bộ thuận lợi, Hội An nhanh chóng phát triển thành một đô thị sầm uất. Cùng với phố Hiến ở Đàng Ngoài, Hội An trở thành một trong hai hải khẩu quan trọng của nước ta thời ấy giao thương rộng rãi với thế giới. Cứ xem mức thuế xuất nhập khẩu thời bấy giờ để ước lượng quy mô:
“Lệ cứ những tàu ở Thượng Hải và Quảng Đông lại, thì phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Ma Cao, ở Nhật Bản lại, thì phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm La, ở Lã Tống lại, thì phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương Tây lại, thì phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan. Thuế ấy chia ra làm mười thành: 6 thành thì đem vào kho, 4 thành để nộp cho quan lại và binh lính đã coi về việc thu thuế…”. “… Bấy giờ số tiền có năm thu vào 338.100 quan… có năm được hơn 423.300 quan…, vàng có năm thu 830 lượng, có năm 890 lượng…” (Sách đã dẫn - Trg 353 - 354). Trước khi trở thành một địa chỉ văn hóa, Hội An từng là một thương hiệu kinh tế Việt Nam có uy tín trên bản đồ thế giới.
Thương nhân các nước đến làm ăn, mến cảnh, mến người, định cư, lập nghiệp, Hội An nhanh chóng trở thành một đô thị quốc tế. Bên cạnh quần thể kiến trúc đô thị giàu bản sắc địa phương, những công trình xây dựng, những công trình tôn giáo của cư dân các nước còn giữ được đến nay minh chứng cho một thời Việt Nam từng có lúc hội nhập rất sâu vào đời sống quốc tế. Chẳng thế mà, UNESCO, tổ chức uy tín đầy mình của Liên Hiệp Quốc đã ghi danh cả Mỹ Sơn và Hội An vào Danh mục Di sản Văn hóa nhân loại.
Tin cho biết tỉnh Quảng Nam đang xúc tiến hồ sơ đệ trình UNESCO xem xét ghi danh Cù lao Chàm - một bình phong tự nhiên dựng lên ngoài biển khơi che chắn cho cửa Đại - vào danh mục Di sản văn hóa nhân lọai. Còn cửa Đại, cát sạch, nước trong, đất đai bằng phẳng rộng rãi, từng là một trong những cửa biển nổi tiếng của nước ta đang như một cô gái trinh nguyên đón đợi đầu tư.
Tương lai, hy vọng rằng không xa, một thành phố du lịch hấp dẫn sẽ mọc lên trên địa điểm này. Lúc ấy, sông Thu Bồn sẽ là dòng sông duy nhất trên đất nước ta như một chuỗi ngọc xâu chuỗi cùng lúc bốn giá trị tầm cỡ quốc tế trên dòng chảy đượm hương từ những rừng quế thượng nguồn. Mong lắm thay.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: