Đoạn kết
Qua các thông cáo báo chí, khi được biết cuộc ngưng bắn và cuộc giải giới được thi hành với sự mẫn tiệp và trật tự như thế nào, công luận thế giới đã có đôi chút vội vàng kết luận rằng Nhật Bản đã bị hấp hối từ lâu và rằng cuộc thảm sát ghê gớm tại Hiroshima lẽ ra đã có thể tránh được.
Như chúng tôi đã nhấn mạnh nhiều lần, sửa lưng những đòn của đối phương khi ta có cả hai lá bài trong tay bao giờ cũng là chuyện dễ dàng. Lúc ấy quyết định ném quả bom A xuống Nhật Bản, người Mỹ chỉ có những dự kiện hết sức mơ hồ để đo lường mức độ yếu kém của kẻ thù: các không ảnh những khu vực bị oanh tạc (mà họ đã từng biết là có thể có hiệu quả lừa dối đến mức nào) và các tin tức do các cơ quan tình báo cung cấp, những tin tức không chính xác và mâu thuẫn. Ngược lại, điều mà họ biết quá rõ, chính là sức chiến đấu lạ thường mà quân đội Nhật Bản đã chứng tỏ, và tầm quan trọng của những kho dự trữ vũ khí đạn dược mà Nhật đã tích trữ trên khắp các lãnh thổ chiếm đóng bên trong vòng đai chu vi Đại Đông Á cũ.
Chiến lược do các Đô đốc King và Nimitz đề nghị gồm có bao vây trực tiếp nước Nhật mà không chiếm lại các lãnh thổ mênh mông tại phía Nam Thái Bình Dương, tại Trung Hoa và tại Đông Nam Á, đã dựa vào một định đề vốn chưa được kinh nghiệm kiểm chứng: đó là ưu thế của không quân. Đó là áp dụng đơn thuần, với ít nhiều nguỵ trang, binh thuyết của một tướng lĩnh thời danh người Ý, Douhet, một binh thuyết mà từ mười lăm năm nay vẫn không ngớt gây ra những cuộc tranh luận gay go tại khắp mọi quốc gia. Liệu có thể áp dụng nó cho trường hợp Nhật Bản hay không? Liệu có thể hay không có thể chẹn họng quân đội Nhật, mà không cần phải chiến đấu trên bộ, nhưng chỉ bằng vào sự huỷ diệt vũ khí và các đường giao thông của Nhật? Những kết quả thu đạt được tại Đức quốc có khuynh hướng chứng tỏ rằng không thể, thế nhưng sự tàn hại do bom lửa gây ra lại đưa đến kết luận trái ngược. Song le, những cuộc oanh tạc ấy đòi hỏi một sự vận dụng phi cơ đến mức phải tiên liệu mất hàng nhiều tháng trời, mới mong tiêu diệt được dứt khoát hết các lực lượng của đối phương. Và trong những tháng trời dài dặc ấy, khi mà chiếc đầu con bạch tuộc chưa bị vặn ngược thì những chiếc vòi của nó vẫn tiếp tục bám chặt trên các quần đảo bị “bypass”, cũng như tại Miến Điện và Trung Hoa. Uỷ ban tham mưu hỗn hợp đã rất mạo hiểm khi chấp thuận kế hoạch của các Đô đốc, và Tướng Mac Arthur đã không có lỗi khi luôn miệng nhắc nhở phải đề phòng.
Lúc mà Tổng trưởng Chiến tranh Stimson báo cho Tổng thống Truman biết sự thành công chắc chắn của kế hoạch Mahattan, thì quân trú phòng Nhật Bản tại Okinawa vẫn còn kháng cự. Tướng Simson Bolivar Buckner vừa tử trận tại tiền tuyến. Tổn thất của Mỹ nội trong trận đánh này đã được ước tính lên đến 12.500 tử trận và 36.500 bị thương-tức là 50% lực lượng tham chiến. Mặc dầu tướng Ushijima phải tự sát, và tất cả đạo quân trú phòng trên đảo vốn được lãnh đạo đúng đắn, đã bị tiêu diệt, nhưng vố số những tổ kháng cự lẻ tẻ, gồm binh sĩ cũng như thường dân, vẫn còn chiến đấu với sự hăng say điên cuồng. Trong một góc của hòn đảo chưa bị lọt vào tay quân Mỹ, dân chúng đã đến hợp tác với các binh sĩ hiếm hoi còn khoẻ mạnh để tay không chống lại chiến xa và súng phun lửa đằng sau vị Tổng đốc dân sự được vũ trang bằng thanh kiếm Samourai của ông. Chắc chắn đấy là mùi vị được nếm trước của khung cảnh địa ngục mà một cuộc đổ bộ lên chính lãnh thổ Nhật Bản phải trải qua trên đó 30 triệu công dân Nhật và 2 triệu binh sĩ sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đến người cuối cùng.
Lúc đó, theo lệnh của Truman, Stimson đã chỉ định một “Uỷ ban lâm thời” để nghiên cứu sự sử dụng bom A. Uỷ ban này gồm có 5 nhân vật thuộc giới chính trị và 3 nhà bác học Mỹ được giao cho trách vụ tổ chức nghiên cứu về quân sự từ năm 1940. Mặc dầu 3 nhà bác học này đã tham dự tích cực vào công việc của nhóm Los Alamos, nhưng họ cũng yêu cầu chỉ định một tiểu ban gồm các chuyên viên nguyên tử để hướng dẫn họ. Tiểu ban chuyên viên này, dược gọi là “Scientific Panel”, phải tổ chức hội họp các nhà bác học thượng thặng nổi tiếng nhất trong giới khoa học bất chấp quốc tịch. Tiểu ban giới hạn trong số 7 thành viên mà 4 người là Do Thái gốc ngoại quốc.
Các cuộc thảo luận của “Scientific Panel” và của Uỷ ban lâm thời đã đưa đến việc soạn thảo một “bản khuyến nghị” mà sau đây là các kết luận:
1. Quả bom phải được sử dụng để chống lại Nhật Bản càng sớm càng tốt.
2. Nó phải được ném xuống một “mục tiêu kép” vừa kỹ nghệ vừa quân sự.
3. Không thể đưa ra một lời báo trước nào về bản chất của thứ vũ khí này.
Chính vì nhận được ác kết luận chính thức này mà Stimson đã ra lệnh cho Groves tiến hành nhanh hơn cuộc thí nghiệm tại Alamogordo và chuẩn bị các biện pháp để sử dụng quả bom chống lại Nhật Bản. Nhưng vài ngày sau, tiếng đồn về những khuyến cáo này đã lan tràn trong số các nhà bác học nguyên tử thuộc nhóm Los Alamos và thuộc đại học đường Chicago. Bảy nhà khoa học thuộc đại học này liên nhóm họp dưới quyền chủ toạ của giáo sư lão thành Frank-cựu giám dốc Học viện Vật lý Gottingen, được xem như “giáo hoàng” của thế giới nguyên tử-đã soạn thảo một bản khuyến nghị khác đề nghị rằng sự biểu diễn thứ vũ khí mới phải được tổ chức dưới sự chứng kiến của các đại biểu Liên hiệp Quốc trong một sa mạc hay trên một hòn đảo không có người ở, để chính phủ Nhật có thể được thông báo sức mạnh tàn phá của nó và cạm chịu chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.