Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124984" data-attributes="member: 17223"><p>Tất cả các biện pháp ấy không phải đã được Tổng hành dinh Thiên hoàng chấp thuận dễ dàng. Những giới chức cao cấp sống trong tháp ngà cách xa chiến trường hàng ngàn cây số ấy, khó chấp nhận rằng Nhật Bản phải rút lại thế phòng thủ trong khi còn có cả một hạm đội nguyên vẹn và một đạo quân đang bành trướng-thêm vào đặc tính này, còn là một đạo quân quen chiến đấu thắng lợi trong thế một chống mười. Phải cần cả một sức mạnh thuyết phục của vị tư lệnh hạm đội liên hợp, mới lấy được quyết định. Trong các cuộc bàn cãi, ông không ngừng bị Tojo đương đầu vì cho rằng hải quân đã bi quan quá đáng. Tojo còn đi xa đến mức đòi hỏi cho bộ binh Nhật “vinh dự đảm bảo công cuộc phòng thủ quần đảo Mariannes” mà ông ta tin là có thể biến tất cả các đảo thành “những thành trì không thể bị chiếm được”. Koga nhận sự cung hiến này với tất cả lịch sử nhưng cương quyết giữ vững lập trường. Đó là một con người có vóc dáng cao lớn, nét mặt khắc khổ, mà vẻ Á châu chỉ lưu lại vết tích bằng đường nhăn mờ trên hai hàng lông mày. Được nhào nặn trong các truyền thống hải quân kỳ cựu, ông cũng có cùng tâm trí công kích như vị tiền nhiệm của ông. Ông có cái nhìn rất sáng suốt về tình hình tổng quát và là một trong các lãnh tụ duy nhất của Nhật có thể đối phó với tình thế trầm trọng. Tính cách cương nghị trong thái độ của ông, tính cách sáng suốt trong sự trình bày của ông, và tính cách táo bạo trong các giải pháp đề nghị của ông, đã khiến cho những người chống đối phải nghe theo ông. Khi ông rời Đông Kinh để trở lại Truk, ông được Tổng hành di Thiên hoàng ban cấp cho toàn quyền.</p><p></p><p></p><p>Trong tháng giêng năm 1944, Koga làm việc liên miên với viên tham mưu trưởng của ông, Đề đốc Fukudomé, để xây dựng chi tiết của cơ cấu tổ chức mới. Ngay từ cuối tháng giêng, tin tức đã được đưa đến cho biết rằng quần đảo Marshall phải chịu đựng các cuộc oanh tạc ngày đêm bởi các phi cơ của mẫu hạm địch mà theo các quan sát viên, số lượng không ít hơn 12 chiếc! Koga lập tức gửi những phi cơ sau cùng của ông đến tiếp cứu. Đã có lúc ông ngần ngại muốn gửi một nhóm tuần dương hạm đến cứu viện quân trú phòng trên quần đảo Marshall, nhưng rồi ông rút lui ngay ý định trước mối đe doạ có thể bị tàn sát hết. Ngày 3 tháng 2, ông cho nhổ neo các thiết giáp hạm Yamato và Nagato đến Palaos và chiếc Mushashi trở về Nhật để thực hiện các sửa chữa khẩn cấp. Vì năm tuần dương hạm bị hư hại quá nặng trong các cuộc oanh tạc tại Rabaul cũng đang còn ở Nhật, cho nên các chiến hạm của hạm đội liên hợp trong vài tháng tới sẽ bị phân tán nguy hiểm. Nhưng Koga không tưởng tượng được rằng hạm đội Mỹ, tham dự trong hiện trạng vào các cuộc tấn công lên quần đảo Marshall, lại có thể bắt đầu các cuộc tấn công mới trước thời hạn vài tháng này. Hơn nữa, ông còn có gì để chọn lựa. Ông phải chờ đợi cho các chiến hạm được sửa chữa và các phi cơ mới chế tạo được đưa đến.</p><p></p><p></p><p>Ưu tư chính yếu của Koga kể từ khi lên nắm quyền tư lệnh là tái lập các không đoàn. Hơn 7.000 phi cơ và bằng chừng đó phi công đã bị tiêu diệt trong trận chiến tại quần đảo Salomon-hai lần lớn hơn tổng số phi cơ và phi công của Nhật lúc chiến tranh mới phát động. Kỹ nghệ hàng không, vốn chỉ có thể sản xuất trong thời gian ấy là 400 phi cơ mỗi tháng, nên không thể nào bù đắp được cho tình trạng bị xuất huyết ấy, bởi vì số lượng phi cơ bị lục quân trích ra từ đó để cung ứng cho chiến trường Trung Hoa và Miến Điện đã làm giảm phần cung cấp yếu kém hàng tháng cho hải quân xuống còn một nửa. Nói về mặt phi công thì tình hình không khá hơn. Phẩm chất của hoa tiêu giảm sút từng tháng một. Sự thiếu hụt tàu bè vận tải đã làm chậm trễ việc chuyển giao phi cơ, những phi công trẻ mới được đào tạo ở Nhật được giao cho nhiệm vụ lái phi cơ vừa mới ra lò đưa đến các căn cứ trên Thái Bình Dương, vì thiếu kinh nghiệm nên các tổn thất gây nên bởi những sai lầm trong kỹ thuật phi hành đã lên đến mức báo động. Một nỗ lực vĩ đại đang xúc tiến tại chính quốc để sửa chữa cho các lầm lỗi này nhưng các nỗ lực ấy không thể nào đạt được hiệu quả toàn diện trước năm hay sáu tháng nữa. Vậy thì bổn phận của Koga là giữ cho hải đoàn hàng không mẫu hạm còn nguyên vẹn cho đến ngày ấy. Căn cứ vào những tổn thất nặng nề, mà quân Mỹ phải chịu đựng vè chiến hạm đủ mọi loại và nhất là về hàng không mẫu hạm trong thời kỳ chiến trận tại Salomon, ông có lý do vững chắc để nghĩ rằng họ sẽ không thắng được trong cuộc chạy đua tốc độ.</p><p></p><p></p><p>Koga, cũng không hơn gì bất cứ đại lãnh tụ nào của Nhật, lúc đó không có được một ý niệm chính xác về khả năng vĩ đại của kỹ nghệ Mỹ. Nhiều biến cố sẽ mau lẹ làm ông mở mắt.</p><p></p><p>Ngày 29 tháng giêng năm 1944, lực lượng đặc nhiệm của mẫu hạm do Đề đốc Mitscher chỉ huy, vị cựu hạm trưởng mẫu hạm Hornet trong vụ oanh tạc Đông Kinh, vốn là một phi công sáng chói của không lực hải quân Mỹ, bắt đầu tham chiến tại khu vực miền Trung Thái Bình Dương. Lực lượng được cấu tạo do hai mẫu hạm kỳ cựu của chiến trận tại Salomon, chiếc Enterprise và chiếc Saratoga, bốn mẫu hạm cùng loại với mẫu hạm Essex và sáu mẫu hạm nhẹ cùng loại với chiếc Independence. Hai thiết giáp hạm tối tân và nhiều tuần dương hạm che chở cho lực lượng về mặt phòng không.</p><p></p><p></p><p>Vừa thực hiện các cuộc oanh tạc ngoạn mục trên các phi trường tại Marshall, các phi cơ tuần tiễu của Mitscher bay trên Truk gần như hàng ngày trong tuần lễ đầu tiên của tháng 2. Những nỗ lực anh hùng của vài khu trục cơ Nhật còn sử dụng được trong quần đảo Carolines, hoàn toàn trở nên bất lực trong việc ngăn chặn phi cơ tuần thám Mỹ. Lần này, Koga phải nhận chân một sự thực hiển nhiên: hải quân Nhật đã mất quyền làm chủ bầu trời trên các căn cứ chính yếu trong Thái Bình Dương. Lập tức ông quyết định rút bộ tư lệnh về Palaos và mang theo ông các tuần dương hạm cuối cùng ngoại trừ một chiếc ở lại với bốn khu trục hạm để đảm bảo các sứ mạng tuần thám.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124984, member: 17223"] Tất cả các biện pháp ấy không phải đã được Tổng hành dinh Thiên hoàng chấp thuận dễ dàng. Những giới chức cao cấp sống trong tháp ngà cách xa chiến trường hàng ngàn cây số ấy, khó chấp nhận rằng Nhật Bản phải rút lại thế phòng thủ trong khi còn có cả một hạm đội nguyên vẹn và một đạo quân đang bành trướng-thêm vào đặc tính này, còn là một đạo quân quen chiến đấu thắng lợi trong thế một chống mười. Phải cần cả một sức mạnh thuyết phục của vị tư lệnh hạm đội liên hợp, mới lấy được quyết định. Trong các cuộc bàn cãi, ông không ngừng bị Tojo đương đầu vì cho rằng hải quân đã bi quan quá đáng. Tojo còn đi xa đến mức đòi hỏi cho bộ binh Nhật “vinh dự đảm bảo công cuộc phòng thủ quần đảo Mariannes” mà ông ta tin là có thể biến tất cả các đảo thành “những thành trì không thể bị chiếm được”. Koga nhận sự cung hiến này với tất cả lịch sử nhưng cương quyết giữ vững lập trường. Đó là một con người có vóc dáng cao lớn, nét mặt khắc khổ, mà vẻ Á châu chỉ lưu lại vết tích bằng đường nhăn mờ trên hai hàng lông mày. Được nhào nặn trong các truyền thống hải quân kỳ cựu, ông cũng có cùng tâm trí công kích như vị tiền nhiệm của ông. Ông có cái nhìn rất sáng suốt về tình hình tổng quát và là một trong các lãnh tụ duy nhất của Nhật có thể đối phó với tình thế trầm trọng. Tính cách cương nghị trong thái độ của ông, tính cách sáng suốt trong sự trình bày của ông, và tính cách táo bạo trong các giải pháp đề nghị của ông, đã khiến cho những người chống đối phải nghe theo ông. Khi ông rời Đông Kinh để trở lại Truk, ông được Tổng hành di Thiên hoàng ban cấp cho toàn quyền. Trong tháng giêng năm 1944, Koga làm việc liên miên với viên tham mưu trưởng của ông, Đề đốc Fukudomé, để xây dựng chi tiết của cơ cấu tổ chức mới. Ngay từ cuối tháng giêng, tin tức đã được đưa đến cho biết rằng quần đảo Marshall phải chịu đựng các cuộc oanh tạc ngày đêm bởi các phi cơ của mẫu hạm địch mà theo các quan sát viên, số lượng không ít hơn 12 chiếc! Koga lập tức gửi những phi cơ sau cùng của ông đến tiếp cứu. Đã có lúc ông ngần ngại muốn gửi một nhóm tuần dương hạm đến cứu viện quân trú phòng trên quần đảo Marshall, nhưng rồi ông rút lui ngay ý định trước mối đe doạ có thể bị tàn sát hết. Ngày 3 tháng 2, ông cho nhổ neo các thiết giáp hạm Yamato và Nagato đến Palaos và chiếc Mushashi trở về Nhật để thực hiện các sửa chữa khẩn cấp. Vì năm tuần dương hạm bị hư hại quá nặng trong các cuộc oanh tạc tại Rabaul cũng đang còn ở Nhật, cho nên các chiến hạm của hạm đội liên hợp trong vài tháng tới sẽ bị phân tán nguy hiểm. Nhưng Koga không tưởng tượng được rằng hạm đội Mỹ, tham dự trong hiện trạng vào các cuộc tấn công lên quần đảo Marshall, lại có thể bắt đầu các cuộc tấn công mới trước thời hạn vài tháng này. Hơn nữa, ông còn có gì để chọn lựa. Ông phải chờ đợi cho các chiến hạm được sửa chữa và các phi cơ mới chế tạo được đưa đến. Ưu tư chính yếu của Koga kể từ khi lên nắm quyền tư lệnh là tái lập các không đoàn. Hơn 7.000 phi cơ và bằng chừng đó phi công đã bị tiêu diệt trong trận chiến tại quần đảo Salomon-hai lần lớn hơn tổng số phi cơ và phi công của Nhật lúc chiến tranh mới phát động. Kỹ nghệ hàng không, vốn chỉ có thể sản xuất trong thời gian ấy là 400 phi cơ mỗi tháng, nên không thể nào bù đắp được cho tình trạng bị xuất huyết ấy, bởi vì số lượng phi cơ bị lục quân trích ra từ đó để cung ứng cho chiến trường Trung Hoa và Miến Điện đã làm giảm phần cung cấp yếu kém hàng tháng cho hải quân xuống còn một nửa. Nói về mặt phi công thì tình hình không khá hơn. Phẩm chất của hoa tiêu giảm sút từng tháng một. Sự thiếu hụt tàu bè vận tải đã làm chậm trễ việc chuyển giao phi cơ, những phi công trẻ mới được đào tạo ở Nhật được giao cho nhiệm vụ lái phi cơ vừa mới ra lò đưa đến các căn cứ trên Thái Bình Dương, vì thiếu kinh nghiệm nên các tổn thất gây nên bởi những sai lầm trong kỹ thuật phi hành đã lên đến mức báo động. Một nỗ lực vĩ đại đang xúc tiến tại chính quốc để sửa chữa cho các lầm lỗi này nhưng các nỗ lực ấy không thể nào đạt được hiệu quả toàn diện trước năm hay sáu tháng nữa. Vậy thì bổn phận của Koga là giữ cho hải đoàn hàng không mẫu hạm còn nguyên vẹn cho đến ngày ấy. Căn cứ vào những tổn thất nặng nề, mà quân Mỹ phải chịu đựng vè chiến hạm đủ mọi loại và nhất là về hàng không mẫu hạm trong thời kỳ chiến trận tại Salomon, ông có lý do vững chắc để nghĩ rằng họ sẽ không thắng được trong cuộc chạy đua tốc độ. Koga, cũng không hơn gì bất cứ đại lãnh tụ nào của Nhật, lúc đó không có được một ý niệm chính xác về khả năng vĩ đại của kỹ nghệ Mỹ. Nhiều biến cố sẽ mau lẹ làm ông mở mắt. Ngày 29 tháng giêng năm 1944, lực lượng đặc nhiệm của mẫu hạm do Đề đốc Mitscher chỉ huy, vị cựu hạm trưởng mẫu hạm Hornet trong vụ oanh tạc Đông Kinh, vốn là một phi công sáng chói của không lực hải quân Mỹ, bắt đầu tham chiến tại khu vực miền Trung Thái Bình Dương. Lực lượng được cấu tạo do hai mẫu hạm kỳ cựu của chiến trận tại Salomon, chiếc Enterprise và chiếc Saratoga, bốn mẫu hạm cùng loại với mẫu hạm Essex và sáu mẫu hạm nhẹ cùng loại với chiếc Independence. Hai thiết giáp hạm tối tân và nhiều tuần dương hạm che chở cho lực lượng về mặt phòng không. Vừa thực hiện các cuộc oanh tạc ngoạn mục trên các phi trường tại Marshall, các phi cơ tuần tiễu của Mitscher bay trên Truk gần như hàng ngày trong tuần lễ đầu tiên của tháng 2. Những nỗ lực anh hùng của vài khu trục cơ Nhật còn sử dụng được trong quần đảo Carolines, hoàn toàn trở nên bất lực trong việc ngăn chặn phi cơ tuần thám Mỹ. Lần này, Koga phải nhận chân một sự thực hiển nhiên: hải quân Nhật đã mất quyền làm chủ bầu trời trên các căn cứ chính yếu trong Thái Bình Dương. Lập tức ông quyết định rút bộ tư lệnh về Palaos và mang theo ông các tuần dương hạm cuối cùng ngoại trừ một chiếc ở lại với bốn khu trục hạm để đảm bảo các sứ mạng tuần thám. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top