Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 124980" data-attributes="member: 17223"><p>Tháng 7 năm 1943, Đô đốc Koga chấp nhận viễn ảnh phải hy sinh Rabaul, ông quyết định tăng cường chu vi phòng thủ phía đông và giao cho Đô đốc Shibasaki quyền tư lệnh nhóm đảo Tarawa. Với 4.000 thuỷ quân lục chiến và 3.000 nhân công Cao Ly, Shibasaki biến đảo san hô Bétio thành pháo đài. Đó là một cấp chỉ huy cực kỳ sinh động trở thành bậc thầy trong nghệ thuật tổ chức thành luỹ kiên cố. Trong tháng 10 năm 1943, ông đã đoan quyết với Koga rằng “phải có ba triệu quân Mỹ và 100 năm cố gắng mới chiếm được Bétio”. Các chiến luỹ được xây cất bằng thân cây dừa nối với nhau nhờ các màu thép, được củng cố bằng các khối san hô nghiền vụn, sẽ mau lẹ chứng tỏ sức chịu dựng kỳ lạ của chúng. Các mệnh lệnh do ông ban hành cho các sĩ quan đều rất đơn giản và rất hợp lẽ phải: “Hãy chờ đợi các tàu chờ quân tấn công được tập họp để đổ quân trước khi khai hoả. Chỉ nhắm bắn các chiến hạm. Nếu địch bắt đầu đổ bộ, hãy bắn xối xả vào các tàu chuyển quân bằng tất cả vũ khí trong suốt đoạn đường chúng tiến vào bãi biển. Sau đó, hãy tập trung hoả lực vào các thành phần đầu tiên đặt chân lên ven bãi biển. Vì lẽ địch chỉ có một khoảng cách 20 giữa mé nước này và bức tường chiến luỹ liên tục của anh, họ sẽ không thể nào tập họp các đơn vị lần lượt thực hiện một đợt phá khẩu để thiết lập một đầu cầu”.</p><p></p><p></p><p>Kế hoạch này sẽ được áp dụng sát khi quân Mỹ đổ bộ và thật khó mà không thành công.</p><p></p><p>Các không ảnh và kết quả quan sát của các hạm trưởng tiềm thuỷ đỉnh đã cho Nimitz thấy tầm quan trọng của các hệ thống phòng thủ ấy, ông liền quyết định tiêu diệt chúng bằng các cuộc hải pháo và oanh tạc liên tục trong một tuần lễ, rồi sau đó tràn ngập chúng nhờ ưu thế đề bẹp về số lượng của lực lượng đổ bộ vốn lên đến 14.000 quân, nhiều chiến xa nhẹ và pháo binh. Điều làm ông lo âu hơn cả là hệ thống phòng vệ bao quanh bờ biển của đảo. Mức thuỷ triều lên xuống thay đổi đáng kể lại thêm một ẩn số mới vào chiều sâu bất định được ghi trên bản đồ. Các chuyên viên của bộ tham mưu khuyên nên chờ đợi con nước lớn vào cuối tháng 12, nhưng thì giờ thôi thúc quá, cuộc hành quân phải được thực hiện càng sớm càng tốt để cho quân Nhật không có đủ thì giờ hoàn thiện hệ thống phòng thủ. Rủi thay, con nước lớn của tháng 11 lại hạ xuống quá sớm. Ngày thích hợp nhất phải được ấn định là khoảng 15 tháng 11, điều này khiến Nimitz có quá ít thời gian để tập họp số lượng chiến thuyền, phi cơ và binh sĩ khổng lồ để đổ bộ. Bất chấp cơ nguy của một tình trạng lộn xộn nào đó, ông muốn toan tính thực hiện trò đu dây này hơn là trì hoãn ngày mở cuộc hành quân.</p><p></p><p></p><p>Sau cùng ngày J được ấn định là ngày 20 tháng 11 năm 1943, ngày giới hạn tối đa mà thuỷ truyền lên cao. Cuộc hành quân mang ám danh “Galvanic” ấy, được đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Spruance, cựu tư lệnh lực lượng đặc nhiệm của mẫu hạm Hornet tại Midway, giờ đây đang chỉ huy hạm đội thứ 5 gồm có sáu mẫu hạm mới, sáu thiết giáp hạm, bốn tuần dương và hai mươi mốt khu trục hạm. Lực lượng hải quân quan trọng này phải che chở từ ngoài khơi cho các cuộc hành quân đổ bộ và tham dự vào cuộc hải pháo cũng như không kích. Lực lượng hải vận hạm chở quân đổ bộ do Đô đốc Turner chỉ huy và tư lệnh quân đoàn đổ bộ là Thiếu tướng Holland Smith thuộc thuỷ quân lục chiến. Một lực lượng hải quân che chở khác, gồm có các thiết giáp hạm cũ, các tuần dương và khu trục hạm sẽ đảm bảo công cuộc yểm trợ tiếp vận và đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Hill.</p><p></p><p></p><p>Số lượng các giới chức tham dự, sự qui định mơ hồ về chức trưởng của họ và sự phân tán các lực lượng của họ sẽ không làm cho diễn tiến của cuộc đổ bộ được dễ dàng.</p><p></p><p>Sự sử dụng một hải đoàn thiết giáp hạm để hải pháo bờ vào một bờ biển được phòng thủ vững chắc từ một khoảng cách ngắn là một quyết định chưa bao giờ được toan tính kể từ kinh nghiệm tai hại tại eo biển Dardanelle năm 1915. Tướng Julian Smith, tư lệnh đạo quân phải đổ bộ lên Bétio, tiên liệu rằng người ta sẽ tung binh sĩ thuộc quyền ông vào các công sự pháo đài của Nhật viền theo bờ biển trong những điều kiện tương tự như các điều kiện của Anzac tại Gallipoli, nên sợ rằng sẽ thấy binh sĩ của ông cũng chịu đựng một số phận thảm thương như thế. Trong một phiên họp tham mưu duy nhất giữa các giới chức có trách nhiệm về cuộc hành quân, ông phát biểu sự nghi ngờ về hiệu năng của các cuộc hải pháo. Đô đốc Hill tỏ ra rất khó chịu vì các điểm lưu ý này và tuyên bố rằng “tất cả những gì cưỡng lại được các cuộc oanh tạc sẽ, không những bị vô hiệu hoá, mà còn bị nghiền ra bột bởi trọng pháo của các chiến hạm thuộc quyền ông vốn không ngần ngại tiến sát vào bờ biển”. Ông đã lôi kéo câu trả lời thật cứng rắn của tướng Julian Smith: “Tàu chiến của ông có thể tiến gần cách bờ biển 1.000 thước, nhưng tôi được nghe nói rằng chúng được giáp sắt che chở, trong khi chúng tôi phải băng qua bãi biển chỉ cách địch vài thước, thì lại chỉ có lưỡi lê và không có thứ áo giáp nào khác hơn là chiếc áo kaki của chúng tôi”.</p><p></p><p></p><p>Chính ông Tướng thuỷ quân lục chiến là người có lý. Từ đầu đến cuối, cuộc hành quân Galvanic, chỉ là một cuộc xung phong liên tục vào các công sự phòng thủ còn nguyên vẹn, do bởi những chiến binh không được võ trang đầy đủ và chỉ có chiếc áo kaki, ướt đẫm vì sóng biển, che thân.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 124980, member: 17223"] Tháng 7 năm 1943, Đô đốc Koga chấp nhận viễn ảnh phải hy sinh Rabaul, ông quyết định tăng cường chu vi phòng thủ phía đông và giao cho Đô đốc Shibasaki quyền tư lệnh nhóm đảo Tarawa. Với 4.000 thuỷ quân lục chiến và 3.000 nhân công Cao Ly, Shibasaki biến đảo san hô Bétio thành pháo đài. Đó là một cấp chỉ huy cực kỳ sinh động trở thành bậc thầy trong nghệ thuật tổ chức thành luỹ kiên cố. Trong tháng 10 năm 1943, ông đã đoan quyết với Koga rằng “phải có ba triệu quân Mỹ và 100 năm cố gắng mới chiếm được Bétio”. Các chiến luỹ được xây cất bằng thân cây dừa nối với nhau nhờ các màu thép, được củng cố bằng các khối san hô nghiền vụn, sẽ mau lẹ chứng tỏ sức chịu dựng kỳ lạ của chúng. Các mệnh lệnh do ông ban hành cho các sĩ quan đều rất đơn giản và rất hợp lẽ phải: “Hãy chờ đợi các tàu chờ quân tấn công được tập họp để đổ quân trước khi khai hoả. Chỉ nhắm bắn các chiến hạm. Nếu địch bắt đầu đổ bộ, hãy bắn xối xả vào các tàu chuyển quân bằng tất cả vũ khí trong suốt đoạn đường chúng tiến vào bãi biển. Sau đó, hãy tập trung hoả lực vào các thành phần đầu tiên đặt chân lên ven bãi biển. Vì lẽ địch chỉ có một khoảng cách 20 giữa mé nước này và bức tường chiến luỹ liên tục của anh, họ sẽ không thể nào tập họp các đơn vị lần lượt thực hiện một đợt phá khẩu để thiết lập một đầu cầu”. Kế hoạch này sẽ được áp dụng sát khi quân Mỹ đổ bộ và thật khó mà không thành công. Các không ảnh và kết quả quan sát của các hạm trưởng tiềm thuỷ đỉnh đã cho Nimitz thấy tầm quan trọng của các hệ thống phòng thủ ấy, ông liền quyết định tiêu diệt chúng bằng các cuộc hải pháo và oanh tạc liên tục trong một tuần lễ, rồi sau đó tràn ngập chúng nhờ ưu thế đề bẹp về số lượng của lực lượng đổ bộ vốn lên đến 14.000 quân, nhiều chiến xa nhẹ và pháo binh. Điều làm ông lo âu hơn cả là hệ thống phòng vệ bao quanh bờ biển của đảo. Mức thuỷ triều lên xuống thay đổi đáng kể lại thêm một ẩn số mới vào chiều sâu bất định được ghi trên bản đồ. Các chuyên viên của bộ tham mưu khuyên nên chờ đợi con nước lớn vào cuối tháng 12, nhưng thì giờ thôi thúc quá, cuộc hành quân phải được thực hiện càng sớm càng tốt để cho quân Nhật không có đủ thì giờ hoàn thiện hệ thống phòng thủ. Rủi thay, con nước lớn của tháng 11 lại hạ xuống quá sớm. Ngày thích hợp nhất phải được ấn định là khoảng 15 tháng 11, điều này khiến Nimitz có quá ít thời gian để tập họp số lượng chiến thuyền, phi cơ và binh sĩ khổng lồ để đổ bộ. Bất chấp cơ nguy của một tình trạng lộn xộn nào đó, ông muốn toan tính thực hiện trò đu dây này hơn là trì hoãn ngày mở cuộc hành quân. Sau cùng ngày J được ấn định là ngày 20 tháng 11 năm 1943, ngày giới hạn tối đa mà thuỷ truyền lên cao. Cuộc hành quân mang ám danh “Galvanic” ấy, được đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Spruance, cựu tư lệnh lực lượng đặc nhiệm của mẫu hạm Hornet tại Midway, giờ đây đang chỉ huy hạm đội thứ 5 gồm có sáu mẫu hạm mới, sáu thiết giáp hạm, bốn tuần dương và hai mươi mốt khu trục hạm. Lực lượng hải quân quan trọng này phải che chở từ ngoài khơi cho các cuộc hành quân đổ bộ và tham dự vào cuộc hải pháo cũng như không kích. Lực lượng hải vận hạm chở quân đổ bộ do Đô đốc Turner chỉ huy và tư lệnh quân đoàn đổ bộ là Thiếu tướng Holland Smith thuộc thuỷ quân lục chiến. Một lực lượng hải quân che chở khác, gồm có các thiết giáp hạm cũ, các tuần dương và khu trục hạm sẽ đảm bảo công cuộc yểm trợ tiếp vận và đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Hill. Số lượng các giới chức tham dự, sự qui định mơ hồ về chức trưởng của họ và sự phân tán các lực lượng của họ sẽ không làm cho diễn tiến của cuộc đổ bộ được dễ dàng. Sự sử dụng một hải đoàn thiết giáp hạm để hải pháo bờ vào một bờ biển được phòng thủ vững chắc từ một khoảng cách ngắn là một quyết định chưa bao giờ được toan tính kể từ kinh nghiệm tai hại tại eo biển Dardanelle năm 1915. Tướng Julian Smith, tư lệnh đạo quân phải đổ bộ lên Bétio, tiên liệu rằng người ta sẽ tung binh sĩ thuộc quyền ông vào các công sự pháo đài của Nhật viền theo bờ biển trong những điều kiện tương tự như các điều kiện của Anzac tại Gallipoli, nên sợ rằng sẽ thấy binh sĩ của ông cũng chịu đựng một số phận thảm thương như thế. Trong một phiên họp tham mưu duy nhất giữa các giới chức có trách nhiệm về cuộc hành quân, ông phát biểu sự nghi ngờ về hiệu năng của các cuộc hải pháo. Đô đốc Hill tỏ ra rất khó chịu vì các điểm lưu ý này và tuyên bố rằng “tất cả những gì cưỡng lại được các cuộc oanh tạc sẽ, không những bị vô hiệu hoá, mà còn bị nghiền ra bột bởi trọng pháo của các chiến hạm thuộc quyền ông vốn không ngần ngại tiến sát vào bờ biển”. Ông đã lôi kéo câu trả lời thật cứng rắn của tướng Julian Smith: “Tàu chiến của ông có thể tiến gần cách bờ biển 1.000 thước, nhưng tôi được nghe nói rằng chúng được giáp sắt che chở, trong khi chúng tôi phải băng qua bãi biển chỉ cách địch vài thước, thì lại chỉ có lưỡi lê và không có thứ áo giáp nào khác hơn là chiếc áo kaki của chúng tôi”. Chính ông Tướng thuỷ quân lục chiến là người có lý. Từ đầu đến cuối, cuộc hành quân Galvanic, chỉ là một cuộc xung phong liên tục vào các công sự phòng thủ còn nguyên vẹn, do bởi những chiến binh không được võ trang đầy đủ và chỉ có chiếc áo kaki, ướt đẫm vì sóng biển, che thân. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Sấm sét trên Thái Bình Dương
Top